Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân và liên hệ với thực trạng phát triển của giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay | Tiểu luận môn Triết học Mác -Lênin
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với tốc độ phát triển càng nhanh chóng của khoa học – kỹ thuật – công nghệ và nền sản xuất hiện đại đã thúc đẩy kinh tế toàn cầu phát triển vô cùng mạnh mẽ. Hàng loạt đất nước trên thế giới phải nhanh chóng nâng cao chất lượng đời sống văn hoá và hội nhập để bắt kịp với tốc độ tăng trưởng thần tốc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐIỆN – ĐIỆN TỬ
BỘ MÔN TỰ ĐỘNG ĐIỀU KHIỂN
-----------------⸙∆⸙---------------- BÁO CÁO KHẢO SÁT LÒ NHIỆT
GVHD: Nguyễn Văn Đông Hải
SVTH: Trần Thị Ngọc Trâm MSSV: 21151175A
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2023
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ II, NĂM HỌC 2021 - 2022
Nhóm số 01 (Lớp thứ 7, tiết 7 - 8)
Tên đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân và liên hệ
với thực trạng phát triển của giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay. TỶ LỆ HỌ VÀ TÊN SINH STT MÃ SỐ SINH % SĐT VIÊN VIÊN HOÀN THÀNH 1 Mai Trần Công Hậu 21151455 100% 0898783246 2 Lâm Xuân Minh Nhật 21151142 100% 0822270789 3 Huỳnh Thanh Bảo 21151439 100% 0938287425 4 Trần Thị Ngọc Trâm 21151175 100% 0853161892 5 Huỳnh Thị Kim Trâm 21151486 100% 0394477188 6 Phan Văn Hoàng Anh 21151070 100% 0903106019 - Tỷ lệ % = 100%
- Trưởng nhóm: Huỳnh Thanh Bảo
Nhận xét của giáo viên
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
………………………………………
Ngày 27 tháng 5 năm 2022
Giáo viên chấm điểm MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài...............................................................1
3. Phương pháp thực hiện đề tài..................................................................2
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM........................................................................................3
1.1 Khái niệm giai cấp công nhân................................................................3
1.2 Đặc điểm của giai cấp công nhân trên toàn thế giới.............................5
1.3 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên toàn thế giới..................6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN
NAY VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA..........................................................................9
2.1 Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam..........................................9
2.2 Thực trạng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam....................10
2.3 Vấn đề đặt ra đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.............11
2.4 Giải pháp phát triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.............13
PHẦN KẾT LUẬN.........................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................17 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với tốc độ phát triển càng
nhanh chóng của khoa học – kỹ thuật – công nghệ và nền sản xuất hiện đại đã thúc đẩy
kinh tế toàn cầu phát triển vô cùng mạnh mẽ. Hàng loạt đất nước trên thế giới phải
nhanh chóng nâng cao chất lượng đời sống văn hoá và hội nhập để bắt kịp với tốc độ
tăng trưởng thần tốc. Điều đó phụ thuộc vào những chiến lược thích hợp, tạo nên
những chính sách khôn khéo, chủ động trong việc phát triển đất nước. Trong quá trình
phát triển nhanh chóng ấy, nhiều đất nước có lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên
đã nhanh chóng vươn lên, trở thành những cường quốc về kinh tế trên thế giới, mang
lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Bên cạnh đó, có không ít quốc gia vốn có xuất phát
điểm khiêm tốn về tài nguyên thiên nhiên nhưng nhờ vào sức mạnh của lực lượng sản
xuất có trình độ cao đã góp phần không nhỏ trong việc phát huy tối đa tiềm năng của
đất nước, đưa đất nước đi lên trong quá trình phát triển nền kinh tế - xã hội. Từ đó,
những quốc gia ấy đã bắt kịp tốc độ, vượt lên trên tiến trình phát triển. Thực tế đó chỉ
ra rằng giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại - là một
yếu tố tiên quyết, nắm vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc cũng như là toàn xã hội nói chung. Hiểu rõ vai trò của giai cấp công
nhân trong lực lượng sản xuất là vấn đề rất cần thiết trên con đường đưa đất nước trở
thành giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xuất phát từ những thực tế trên,
nhóm chúng em xin chọn đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp
công nhân và thực trạng phát triển của giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay
làm đề tài tiểu luận cuối kỳ.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của bài tiểu luận này là tìm hiểu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về
giai cấp công nhân và liên hệ với thực trạng phát triển của giai cấp công nhân ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục tiêu này, tiểu luận tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ và khẳng định quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp công nhân 1
- Trình bày khái quát vị trí của giai cấp công nhân; phân tích tầm quan trọng của vấn
đề phát triển giai cấp công nhân trong sự phát triển xã hội và đề xuất một số giải pháp
phát triển lực lượng công nhân ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp thực hiện đề tài
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp cụ thể như: lịch
sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch… 2 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ GIAI
CẤP CÔNG NHÂN VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1.1 Khái niệm giai cấp công nhân
Cả C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng một cách đa dạng các thuật ngữ khác nhau để
định nghĩa giai cấp công nhân. Một số có thể kể đến như giai cấp vô sản, giai cấp vô
sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp... Đây là
các cụm từ đồng nghĩa để chỉ giai cấp công nhân - đứa con của nền đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, đại diện cho cách
thức sản xuất hiện đại. Bên cạnh đó, họ còn sử dụng những thuật ngữ cụ thể để ám chỉ
các thành phần công nhân trong những ngành sản xuất khác nhau, trong các thời kì
phát triển khác nhau của nền công nghiệp như công nhân công xưởng, công nhân nông
nghiệp, công nhân khoáng sản, công nhân công trường thủ công, công nhân nông
nghiệp… Mặc dù có thể được hiểu bởi nhiều cách định nghĩa khác nhau, song giai cấp
công nhân được các nhà kinh điển chỉ ra theo hai phương diện cơ bản:
- Phương thức kinh tế -xã hội:
Giai cấp công nhân là sản phẩm và là chủ thể của nền sản xuất đại công nghiệp. Họ là
những người lao động trực tiếp cũng như gián tiếp sử dụng các công cụ phục vụ sản
xuất với tính chất công nghiệp ngày càng trở nên hiện đại và mang tính xã hội hóa cao.
Giai cấp công nhân cũng lao động bằng nhiều phương thức công nghiệp ngày càng
mới mẻ với một số đặc điểm nổi bật; sản xuất bằng máy móc, mang tính chất xã hội
hóa với năng suất lao động cao và tạo ra số lượng đáng kể của cải, vật chất cho xã hội mới.
Miêu tả quá trình phát triển của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu rõ:
trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân sử dụng công cụ
của mình còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục vụ máy móc. Theo đó,
công nhân công nghiệp công xưởng là bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại. 3
- Phương diện chính trị - xã hội:
Từ sự thật lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản chỉ ra rằng giai cấp công nhân còn là
sản phẩm của xã hội, một xã hội có điều kiện tồn tại với cơ sở là chế độ làm thuê.
Trong mối quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản là giai cấp những công
nhân làm thuê trong thời kỳ mới, bởi đã không còn các tư liệu sản xuất cá nhân, nên
họ bị buộc phải bán sức lao động của mình để có thể tiếp tục tồn tại. C.Mác và
Ph.Ăngghen đều nêu rõ, đó là giai cấp của những người lao động không sở hữu tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ buộc phải bán sức lao động của bản thân cho nhà tư
bản và bị nhà tư bản ấy bóc lột nặng nề. Đối diện với các nhà tư bản, công nhân là
những người lao động tự do, nhưng là tự do bán sức lao động của mình để có thể tiếp
tục sống. Đây là lí do làm cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai
cấp tư sản. “Những công nhân ấy, buộc phải bán mình để kiếm ăn từng bữa một, là
một hàng hóa,tức là một món hàng đem bán như bất cứ món hàng nào khác, vì thế, họ
phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh tranh, mọi sự lên xuống của thị trường”.
Mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất xã hội ngày càng gia tăng với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa
vào chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Lý do bắt nguồn của mâu thuẫn
này chính là lợi ích giữa giai cấp công nhân và giai cấp vô sản. Lao động để kiếm sống
chính của công nhân xuất phát từ giá trị thặng dư và sự giàu có về vật chất của giai cấp
tư sản cũng chủ yếu đến từ việc bóc lột được ngày càng leo thang, vượt quá giá trị
thặng dư. Thực tế chỉ ra rằng mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản
trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa về trong chế độ tư bản chủ nghĩa là không thể hòa giải.
Từ những điều đã chỉ ra phía trên, theo chủ nghĩa Mác Lênin, ta có thể hiểu giai cấp
công nhân là một tập đoàn xã hội, được hình thành và phát triển cùng với giai đoạn
phát triển của nền công nghiệp tiên tiến. Họ lao động bằng phương thức ngày càng đa
dạng và mới mẻ, gắn liền với tiến trình sản xuất hiện đại, đại diện tiêu biểu cho
phương thức sản xuất mang tính xã hội ngày càng cao. Vì đã mất đi tư liệu sản xuất cá
nhân, họ phải bán đi sức lao động để có thể tồn tại và bị giai cấp tư sản ra sức bóc lột, 4
vì vậy lợi ích cơ bản của họ có sự tương phản so với lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản.
đó là giai cấp có sứ mệnh phủ định chủ nghĩa tư bản, là lực lượng chính trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới.
1.2 Đặc điểm của giai cấp công nhân trên toàn thế giới
Trong công cuộc cách mạng trên toàn thế giới, ta có thể thấy giai cấp công nhân là giai
cấp tiến bộ nhất, là lực lượng duy nhất trong xã hội mang trong mình sứ mệnh lịch sử:
xóa bỏ chế độ tư sản, xóa bỏ thể chế người bóc lột người, giải phóng giai cấp bị bóc
lột và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự lạc hậu, nghèo nàn, áp bức và bóc lột, tạo nên xã
hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Mang trong mình sứ mệnh lịch sử đã được khẳng định, giai cấp công nhân rất xứng
đáng bởi họ có xuất thân từ những người không sở hữu tư liệu sản xuất nên buộc phải
đi đến sự lựa chọn là phải bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để tồn tại. Họ bị
giai cấp tư sản bóc lột nặng nề trong thời gian bán đi sức lao động. Việc không sỡ hữu
tư liệu sản xuất đã khiến cho địa vị kinh tế cũng như địa vị xã hội của họ trở nên thấp
kém và bị coi thường, nhưng điều đó cũng góp phần không nhỏ giúp cho giai cấp công
nhân có được công cuộc cách mạng triệt để và mang trong mình sứ mệnh lịch sử, đó là
khả năng đoàn kết toàn bộ các giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy
mô quốc tế nhằm tạo nên lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc. Đặc điểm của giai cấp
công nhân được thể hiện qua một số khía cạnh sau:
Thứ nhất: Hầu hết thành phần giai cấp công nhân có nguồn gốc từ lực lượng sản xuất
với trình độ về trí tuệ ngày càng được nâng cao, điều đó dẫn đến một kết quả tất yếu
đó là ngày càng có nhiều sáng chế cũng như phát minh lý thuyết được áp dụng vào
thực tế mà cụ thể là trong sản xuất. Vì vậy, giai cấp công nhân đóng vai trò quyết định
nhất đối với sự tồn tại và phát triển xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã dựa vào cơ sở địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân
để bảo vệ luận điểm về sứ mệnh lịch sử của giai cấp ấy, không bắt nguồn từ ý kiến chủ
quan của bất kỳ một cá nhân hoặc một tổ chức nào. C.Mác và Ph.Ăngghen nhận định, 5
chế độ tư bản đã giành chiến thắng trước chế độ phong kiến bởi giai cấp tư sản đại
diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, đại diện cho nền sản xuất tiên tiến, đại diện cho
sự mới mẻ trong xã hội đang trở nên mục nát, thối rữa của chế độ phong kiến. Và giai
cấp công nhân đóng vai trò là một lực lượng mới trong xã hội tư bản, là sản phẩm của
nền đại công nghiệp, là lực lượng sản xuất mới mẻ đại diện cho phương thức sản xuất
tiên tiến, phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Thứ hai: Giai cấp công nhân có sự tương phản đối với lợi ích của giai cấp tư sản. Họ
mang trong mình sứ mệnh về việc xóa bỏ chế độ tư hữu sản xuất, loại bỏ sự áp bức
bóc lột, giành lại quyền làm chủ xã hội. Giai cấp tư sản ra sức bóc lột và không bao
giờ có ý định ngừng lại điều đó. Vì lẽ đó, giai cấp công nhân được xem là giai cấp có
tinh thần cách mạng triệt để - vừa có quan hệ quốc tế, vừa có bản sắc dân tộc và chịu
trách nhiệm trước hết với dân tộc mình.
Bàn về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen viết, “Trong tất
cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp công nhân là
giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong với sự
phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản
thân nền đại công nghiệp”. Vì đã bị đày xuống tận cùng của xã hội, giai cấp công nhân
là nơi hội tụ của những người có khao khát cháy bỏng được giải thoát khỏi áp bức, bóc
lột. Giai cấp công nhân có sứ mệnh vì toàn thể xã hội mà đứng ra đoàn kết các tầng
lớp bị áp bức, bóc lột, các giai cấp trong cuộc đấu tranh đó. Cuộc đấu tranh ấy được nổ
ra ngay từ khi giai cấp công nhân xuất hiện, trải qua nhiều thời kì đã phát triển từ tự
phát đến tự giác và được chốt hạ bằng cuộc cách mạng XHCN, với giai cấp công nhân
đóng vai trò lãnh đạo tất cả những người đã phải bán đi sức lao động tiến lên dùng
cách mạng bạo lực lật đổ quyền thống trị, giành lại chính quyền.
Thứ ba, giai cấp công nhân có riêng cho mình một hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng ấy là chủ
nghĩa Mác-Lênin, điều có thể phản ánh rõ ràng sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân, đồng thời còn dẫn dắt giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình
nhằm giải thoát con người khỏi sự áp bức, bóc lột bấy lâu nay. 6
1.3 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên toàn thế giới
Nội dung quan trọng trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là mục tiêu
mà giai cấp công nhân buộc phải thực hiện với tư cách là lực lượng đi đầu trong cuộc
cách mạng xác lập hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin “ Sứ mệnh lịch sử tổng quát của giai cấp công nhân là
thông qua chính Đảng tiên phong, giai cấp công nhân tổ chức, lãnh đạo nhân dân lao
động đấu tranh xóa bỏ các chế độ người bóc lột người, xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động của mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn,
lạc hậu xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh”. Sứ mệnh lịch sử ấy được biểu
hiện qua 3 nội dung cơ bản: - Nội dung kinh tế:
Là yếu tố hàng đầu của lực lượng lao động sản xuất xã hội hóa, giai cấp công nhân là
đại diện tiêu biểu cho quan hệ sản xuất mới, sản xuất ra nhiều nhu yếu phẩm ngày
càng đáp ứng đầy đủ và nhanh chóng nhu cầu ngày càng tăng cao của con người nói
riêng và xã hội nói chung. Qua đó, giai cấp công nhân tự mình làm chủ công cuộc
cách mạng và từ đó tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.
Bên cạnh đó, với vấn đề xã hội hoá cao của lực lượng lao động sản xuất yêu cầu một
quan hệ sản xuất mới. Mối quan hệ đó thích hợp với chế độ công hữu các tư liệu sản
xuất chủ yếu của xã hội là nền tảng tiêu biểu nhất cho lợi ích toàn dân, toàn, xã hội.
Giai cấp công nhân đại diện cho lợi ích chung của đất nước và chỉ có duy nhất giai cấp
công nhân là tầng lớp không có lợi ích riêng với chủ nghĩa tư hữu, phấn đấu cho lợi
ích chung của toàn xã hội, chỉ tìm thấy lợi ích chân chính của mình khi thực hiện được
lợi ích chung của cả xã hội.
Ở các đất nước có chế độ xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân thông qua quá trình
hiện đại hoá và công nghiệp hóa thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động”
để có thể tăng hiệu suất lao động xã hội, thu nhập của đất nước và thực hiện tốt quy tắc
sở hữu, quản lý và phân bố phù hợp với yêu cầu để có thể phát triển sản xuất một cách nhanh nhất.
Trong hiện thực, phần lớn các đất nước có chế độ xã hội chủ nghĩa lại được thành lập
từ phương thức phát triển rút ngắn, có nghĩa là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Vì thế, 7
để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình về nội dung kinh tế, thì họ
phải đóng vai trò quan trọng, nòng cốt trong quá trình giải phóng, phát triển lực lượng
sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng để tạo tiền đề cho quan
hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa ra đời.
- Nội dung chính trị,xã hội:
Với sự lãnh đạo hợp lí của Đảng, giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đã
tiến hành cuộc đấu tranh chính trị để lật đổ quyền thống trị của tầng lớp thống trị từ đó
tiến tới việc xóa bỏ chế độ lớp một các nước giành chính quyền về tay giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Xây dựng nhà nước kiểu do giai cấp công nhân cùng nhân
dân làm chủ, thiết lập nền dân chủ chủ nghĩa thực hiện quyền lực của nhân dân quyền
dân chủ và làm chủ xã hội của tuyệt đại đa số nhân dân lao động.
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động điều hành nhà nước, làm chủ nhà nước như
phương pháp hiệu quả để cải cách, tân trang xã hội cũ và từ nền tảng đó tổ chức xây
dựng xã hội mới, phát triển kinh tế và văn hóa một cách nhanh chóng, củng cố nền
chính trị dân chủ - pháp quyền, quản lý kinh tế xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục
vụ quyền, nhu cầu và lợi ích của nhân dân lao động nói riêng và xã hội nói chung, thực
hiện dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội, theo tư tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
- Nội dung văn hóa, tư tưởng:
Với sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân trong công cuộc cách mạng phải cải
cách, tân trang xã hội cũ và từ đó làm nền tảng xây dựng xã hội mới trên lĩnh các vực
văn hóa, tư tưởng cần phải chú trọng củng cố hệ giá trị mới, lao động, công bằng, dân
chủ, bình đẳng và tự do.
Giai cấp công nhân thực hiện tiến trình cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải
cách, tân trang cái cũ lỗi thời, lạc hậu. Thiết lập, xây dựng và củng cố cái mới trong
lĩnh vực ý thức tư tưởng, trong tâm lý. Xây dựng đời sống tinh thần vững chắc cho xã
hội. Xây dựng và củng cố ý thức tiên tiến của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác
-Lênin, đấu tranh để khắc phục ý thức tư sản và tàng thư còn sót lại của các hệ tư
tưởng cũ. Phát triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối
sống xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung căn bản là cách mạng xã hội chủ 8
nghĩa trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng đặt ra đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại. 9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN
NAY VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1 Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
Là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, giai cấp
công nhân đầu tiên xuất hiện gắn với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897) và
thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt Nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa lần thứ
hai của thực dân (1924-1929). Gắn liền với sự phát triển của cách mạng, giai cấp công
nhân Việt Nam đã sớm trở thành một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế. Ngoài
những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam
còn có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, được sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, có
truyền thống yêu nước lâu đời, ý thức độc lập dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ bé, song
giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm trở thành tầng lớp giai cấp duy nhất được lịch sử,
dân tộc thừa nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các
phong trào cách mạng cứu nước.
Thứ hai, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên đã tiếp thu hệ tư tưởng
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, giai cấp công nhân đã nhanh chóng trở thành lực lượng
chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm giác ngộ
mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Chính vì thế, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để.
Thứ ba, giai cấp công nhân nước ta vốn xuất thân từ tầng lớp nông dân lao động, bị
thực dân phong kiến bóc lột, bần cùng hóa nên có mối quan hệ gắn bó mật thiết với
giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác. Trải qua bao thử thách của cách
mạng, liên minh giai cấp đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ tư, từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, giai cấp công nhân Việt Nam luôn phát
huy tối đa bản chất cách mạng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây là
lực lượng tiên phong trong việc lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng, phát triển nền kinh tế công nghiệp gắn
liền với nền kinh tế tri thức hiện đại. 10
Thứ năm, quá trình “trí thức hoá” giai cấp công nhân đang diễn ra một cách nhanh
chóng và mạnh mẽ, từng bước hình thành tầng lớp giai cấp công nhân trí thức Việt
Nam. Nhờ đó, giai cấp công nhân được nâng cao về trình độ và có sự thay đổi về tính
chất lao động - lao động điều khiển những công nghệ tự động hoá của nền kinh tế tri thức.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân là cơ sở chính trị – xã hội
vững chắc của Đảng và Nhà nước. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều
kiện tiên quyết nhằm bảo đảm sự thành công trong công cuộc đổi mới, công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2 Thực trạng phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam
Đánh giá về giai cấp công nhân sau hơn 20 năm đổi mới, trong Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) ta khẳng định: “Qua hơn 20 năm đổi mới,
cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân nước ta
đã có những chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất
lượng được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức;
đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong
là Đảng Cộng sản Việt Nam, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội
nhập kinh tế quốc tế; có nhiều cố gắng để phát huy vai trò là lực lượng nòng cốt trong
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giai cấp công nhân đã đóng góp
trực tiếp to lớn vào quá trình phát triển của đất nước, cùng với các giai cấp, tầng lớp và
thành phần xã hội khác, giai cấp công nhân nước ta là cơ sở chính trị - xã hội vững
chắc của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện.” (Nghị quyết số 20-NQ/TW, 2008).
Giai cấp công nhân của nước ta trong những năm đổi mới vừa qua, đã có những bước
phát triển mạnh mẽ, tích cực, đồng thời đang có sự tăng nhanh về số lượng cũng như
cơ cấu ngày càng trở nên đa dạng, chất lượng của đội ngũ ngày càng được cải thiện,
trong đó nổi bật là sự xuất hiện của bộ phận công nhân tri thức đào tạo trường lớp và 11
có trình độ chuyên môn đây là lực lượng sản xuất cơ bản, trực tiếp tham gia và việc tổ
chức quản lý sản xuất kinh doanh, có trình độ kỹ năng chuyên môn để vận hành, sử
dụng các công cụ phương tiện sản xuất tiên tiến và hiện đại. Giai cấp công nhân cùng
với giai cấp khác trong xã hội đã có những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.
Công nhân trong các ngành công nghiệp trực tiếp sản xuất còn có số lượng hàn chết ó
với yê cầu về sự phát triển của đất nước do năng xuất của ngành này còn thấp, bên
cạnh đó cơ cấu ngành nghề còn nhiều điều bất hợp lý, công nhân chủ yếu làm việc
trong các doanh nghiệp của nhà nước, từ đó dẫn đến sự thiếu đa dạng trong sinh hoạt
văn hóa tinh thần của mỗi công nhân, phần lớn suy nghĩ của giai cấp công nhân nước
ta hiện nay còn là suy nghĩ của công nhân ở các nước đang phát triển, suy nghĩ nhiều
về miếng ăn và nơi ở có sự liên kết với suy nghĩ của giai cấp nông dân còn nhiều hạn
chế về góc nhìn, tư tưởng và kiến thức, dẫn đến việc chưa biết suy nghĩ một cách sâu
sắc cho sự phát triển của xã hội.
2.3 Vấn đề đặt ra đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Hiện nay, người lao động nước ta năng động trong công việc, tiếp thu nhanh các thành
tựu khoa học công nghệ hiện đại, bắt đầu hình thành ý thức về giá trị của bản thân
thông qua công việc. Vị trí giữa người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp ngoài nhà nước không còn khác nhau lắm. Tâm lý coi lợi nhuận làm
động lực là đặc điểm mới đang dần lan rộng trong trong người lao động. Mối quan tâm
chính của người lao động là việc làm, thu nhập phù hợp với công việc. Mong muốn
sức khoẻ, đất nước ổn định và phát triển, an ninh chính trị được bảo đảm, trật tự an
toàn xã hội, dân chủ và công bằng xã hội được thực hiện, doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh giá rẻ, đủ việc làm. Mong muốn được học tập, nâng cao trình độ học vấn về
chuyên môn, nghiệp vụ và được bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng. Thực tế
cho thấy, giai cấp công nhân ở Việt Nam đang thay đổi cơ bản về chất. Tuy nhiên, so
với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế của đất
nước, chuyển dịch công nghiệp của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. 12
Việc làm cho người lao động: Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã đưa ra
nhiều chiến lược và giải pháp để đầu tư, phát triển sản xuất và tạo việc làm cho người
lao động. Tuy nhiên, do quy mô nền kinh tế còn nhỏ, trình độ phát triển và sức cạnh
tranh của nền kinh tế nước ta còn yếu so với khu vực và thế giới nên tỷ lệ thất nghiệp
còn cao. Theo số của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, năm 2009 trên cả nước,
83% lao động có việc làm ổn định thường xuyên, 12% có việc làm bấp bênh và 2,7%
thiếu việc làm liên tục. Chỉ có khoảng 21% doanh nghiệp ngoài nhà nước đóng góp an
sinh xã hội và bảo hiểm y tế cho nhân viên và khấu trừ đoàn phí công đoàn.
Thu nhập của người lao động: Tiền lương của người lao động hiện nay về cơ bản
chưa đủ trang trải cho cuộc sống của bản thân, chưa nói đến tích lũy, chu cấp cho con
cái... Nhà nước đã từng bước thực hiện lộ trình tăng lương tối thiểu, thậm chí đã có
quy định về lương tối thiểu vùng dành cho người lao động làm việc trong các loại hình
công ty (Nghị định số 70/2011/ Nghị định Chính phủ). Tuy nhiên, lợi nhuận thường
không theo kịp tốc độ tăng giá của thị trường. Chẳng hạn, năm 2010 lương của công
nhân các loại hình doanh nghiệp tăng 10,3% so với năm 2009 nhưng chỉ số giá sinh
hoạt lại tăng 11,75% nên việc tăng lương không tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế.
Nâng cao đời sống của người lao động, nhất là công nhân trong khu công nghiệp, khu
chế xuất. Trong khi đó, hầu hết người sử dụng lao động vẫn tiếp tục tính lương tối
thiểu để trả cho người lao động của mình mà không chú ý đến việc xây dựng bảng
lương và lịch làm việc. Ngoài ra, người sử dụng lao động cũng cắt giảm một phần
lương của người lao động để chi cho họ vào các chế độ ăn kiêng như ăn trưa, phụ cấp đi lại, thưởng, …
Nơi ở của người lao động: Vì nhiều lý do khác nhau, hầu hết các tỉnh, thành phố, khu
công nghiệp, khu chế xuất không xây dựng nhà ở công nhân. Số lượng công nhân
trong các khu công nghiệp khoảng 1,6 triệu người, trong đó chỉ 20% có nhà ở ổn định.
Hầu hết lao động nước ngoài làm việc tại các khu công nghiệp đều phải thuê nhà tập
thể với điều kiện vệ sinh, môi trường không đảm bảo. Thực hiện Nghị quyết số
66/2009/QĐ-TTg ngày 24.4.2009 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chiến lược phát
triển nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp, 110 dự án nhà ở công nhân tại các khu
công nghiệp của các tỉnh, thành phố đã được đăng ký vào giai đoạn 2010 - 2015. Tuy 13
nhiên, theo Thanh tra Chính phủ, các dự án nhà ở công nhân tại các khu công nghiệp
đều chậm tiến độ so với yêu cầu, trong đó có 27 dự án đã khởi công xây dựng và 9 dự
án đã hoàn thành. Khi quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất hầu hết
chưa tính đến nhu cầu về nhà ở, nhà trẻ, trường học cho gia đình công nhân. Một số
nơi xây dựng nhà ở cho công nhân chưa đồng bộ với xây dựng hạ tầng xã hội. Do đó,
những khó khăn không nhỏ đối với người lao động trong cuộc sống hàng ngày và trong công việc...
Đời sống văn hóa công nhân: Trong thời gian qua, các công ty đã từng bước chăm lo
đến nhu cầu văn hóa tinh thần của công nhân. Tuy nhiên, ở hầu hết các khu công
nghiệp, khu chế xuất chưa tạo điều kiện đảm bảo các hoạt động văn hóa cho công
nhân. Theo kết quả điều tra xã hội học tại Bình Dương, có tới 71,8% công nhân không
được đi xem phim, 88,2% không đi xem hòa nhạc, 84,7% không đi thi đấu thể thao,
95,3% chưa từng đến sinh hoạt tại các câu lạc bộ đêm, 91,8% chưa từng đến nhà văn
hóa để tham gia các hoạt động giải trí, văn hóa, tinh thần, 89% thưởng thức giải trí qua
truyền hình, 82,4% nghe đài, chỉ 1,2% sử dụng Internet. Nguyên nhân của tình trạng
trên là do người lao động không có thời gian, tiền bạc và các khu công nghiệp không
có cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu tinh thần của họ.
Điều kiện làm việc: Nhìn chung, điều kiện làm việc của công nhân không được đảm
bảo. Nhiều công nhân phải làm việc trong môi trường có mức độ ô nhiễm cao như
nắng nóng, khói bụi, tiếng ồn và độ rung vượt tiêu chuẩn cho phép. Điều này đã ảnh
hưởng không tốt đến sức khỏe người lao động và dễ phát sinh bệnh nghề nghiệp.
2.4 Giải pháp phát triển giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
a) Trách nhiệm của Đảng và Nhà nước:
Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm đến công cuộc xây dựng giai cấp công nhân, coi
đây là công việc vừa cấp bách, liên tục, vừa mang tính khoa học, tính cách mạng cao,
biểu hiện không chỉ bằng nghị quyết, chủ trương, chính sách mà còn bằng chính việc
làm cụ thể của mỗi tổ chức Đảng, của tất cả cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành.
Nhà nước bổ sung, hoàn thiện các chính sách nhằm khuyến khích phát huy mọi tiềm
năng, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế 14
đầu tư vào sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, giải quyết việc làm cho người lao động.
Bên cạnh đó cũng nên chú trọng phát triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Quán triệt sâu sắc quan
điểm coi đào tạo là quốc sách hàng đầu, chú trọng đầu tư thỏa đáng, hợp lý cho công
tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động, đảm bảo cân đối giữa hệ thống đào
tạo và hệ thống kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng, khắc phục sự mất cân đối về cơ cấu
lao động hiện nay. Quan tâm đặc biệt đến xây dựng, hoàn thiện những chủ trương,
chính sách động viên, khuyến khích, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, tạo ra
những tiềm năng phát triển mới cho công nhân, người lao động để họ gắn bó với giai
cấp, với dân tộc, tự giác nỗ lực vươn lên trong lao động, sản xuất, học tập, cống hiến
ngày càng nhiều sức lực, trí tuệ cho giai cấp, cho dân tộc, cho đất nước.
Trong giai đoạn này, việc đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ
chức là yêu cầu khách quan, là nhiệm vụ quan trọng nhằm một mặt tạo điều kiện cho
tổ chức thực hiện tốt các chức năng của mình; mặt khác, thông qua các tổ chức nhằm
vận động, tập hợp công nhân, người lao động, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối
với giai cấp công nhân. Đảng tăng cường mối quan hệ máu thịt với công nhân, thông
qua phong trào công nhân để nâng cao sức chiến đấu của tổ chức Đảng, xây dựng đội
ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh, nâng cao bản chất giai cấp công nhân và bản
lĩnh chính trị cho đội ngũ đảng viên. Ngoài ra, đào tạo công nhân, người lao động có
tay nghề cao thông qua các trường dạy nghề cần phải có công tác dân vận và tuyên
truyền thật tốt để cho nhân dân hiểu được lợi ích và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ lợi ích người lao động, đặc biệt là bảo
vệ lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân Việt Nam là một điều cần lưu ý để góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
b) Trách nhiệm của Chính quyền Địa phương:
Chính quyền Địa phương phải là cấp sát dân nhất, gần dân nhất và phải hiểu dân nhất,
hiểu được cuộc sống của người công nhân và những khó khăn cần sự hỗ trợ của chính
quyền địa phương. Từ đó tiến hành đưa ra giải pháp giải quyết, giúp đỡ và hỗ trợ cho công nhân. 15
Cán bộ của cấp cơ sở nên đẩy mạnh việc tổ chức những buổi tọa đàm chuyên đề dành
cho giai cấp công nhân, từ đó phổ cập kiến thức, đồng thời tiếp nhận ý kiến để phát
triển địa phương, kịp thời hỗ trợ cho đời sống của công nhân, như là chú trọng đến các
công nhân nữ, vì họ cũng có một số “bất lợi” trong cuộc sống hàng ngày như mang thai, sức khỏe yếu,…
c) Nhiệm vụ của người Công nhân
Để thực hiện tốt trách nhiệm này cần yêu cầu giai cấp công nhân phải hết sức phát
triển bản thân và hết sức phấn đấu. Mỗi cá nhân người công nhân, người lao động nói
riêng và toàn thể xã hội nói chung phải nhận thức được bổn phận, nhiệm vụ của mình
đối với đất nước, với dân tộc khi đối mặt với những cơ hội và thách thức lớn. Luôn
luôn nỗ lực học tập, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ học vấn, phát triển bản thân,
mài dũa phẩm chất đạo đức và tác phong chuyên nghiệp trong công việc, nuôi cho
mình chí làm giàu góp phần làm giàu cho bản thân và xã hội. Nhiệt tình, chủ động
tham gia thiết lập khối đại đoàn kết trong từng tập thể và trong toàn bộ xã hội, góp
phần thiết lập khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mỗi cá nhân người công nhân, người lao
động phải nhận thức rõ nhiệm vụ của mình trong việc hưởng ứng các hoạt động công
đoàn và thiết lập tổ chức công đoàn lớn mạnh. Vì chỉ có thiết lập tổ chức công đoàn
hùng mạnh thì từ đó ta mới làm tốt các chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp,
chính đáng của công nhân, viên chức người lao động và có thể thực hiện tốt nhiệm vụ
vận động, tổ chức công nhân, viên chức, người lao động thực hiện thắng lợi đường lối,
chủ trương của Đảng. Không chỉ tích cực tham gia công đoàn mà giai cấp công nhân
còn phải tham gia xây dựng và quản lý Nhà Nước để thể hiện rõ khả năng lãnh đạo của
mình là phục vụ lợi ích chính đáng của chính bản thân họ. Bên cạnh đó, nó còn yêu
cầu phải thực hiện kế hoạch hóa gia đình một cách hợp lý, phải biết giáo dục con cái,
sẽ là những chủ nhân tương lai của đất nước, những người tiếp tục lãnh đạo đất nước
để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trách nhiệm của mỗi cá nhân công nhân ở đây
tuy tạm thời chắp vá vì giáo dục phải là từ nhỏ mới có nền tảng, do đó, giáo dục những
mầm xanh của giai cấp công nhân hiện tại để họ có thể trở thành công nhân xã hội chủ
nghĩa, khi đó công nhân sẽ được coi như một nghề cao quý. Công nhân hiện tại phải tự
thấy rõ rằng tương lai của những người công nhân xã hội chủ nghĩa sẽ rất rộng mở như 16
tiền đồ của những kỹ sư, bác sĩ… Nên giai cấp công nhân cần phải cố gắng trau dồi về
chuyên môn, tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống… 17