













Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
Đề tài : Quan điểm của chủ nghũa Mác – Lênin về mối quan hệ lOMoAR cPSD| 44985297 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 2
NỘI DUNG 3
1. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC 3 2.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức 7 3.
Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay. 8
KẾT LUẬN 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 12 1 LỜI NÓI ĐẦU
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức đóng vai trò không thể thay thế trong
triết học hiện đại. Nó đã trở thành vấn đề cơ bản và cũng là cốt lõi của nhiều trường
phái triết học. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng, gắn
bó chặt chẽ với nhau, trở thành một trong những học thuyết đóng vai trò quan trọng lOMoAR cPSD| 44985297
để chủ nghĩa Mác-lênin hình thành và phát triển. Và học thuyết trên có ảnh hưởng
cực kì sâu rộng đến những chính sách của Đảng và nhà nước ta bằng cách áp dụng
những lí luận, chứng minh đó làm cơ sở, nền tảng cho các hoạt động của đất nước.
Tuy còn một số hạn chế nhưng cơ bản đất nước đã có được một số thành tựu nhất
định. Trong đó có thể kể đến việc áp dụng mối liên hệ giữa vật chất và ý thức vào
mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị cung với đổi mới và phát triển của quốc gia,
đem lại những thay đổi rõ rệt.
Chính vì vậy em tin rằng chủ đề “ Quan điểm của triết học Mác- Lênin về
mối quam hệ biện chứg giữa vật chất và ý thức và sự vận dụng của Đảng ta hiện
nay" là đề tài đáng để nghiên cứu giúp cho mọi người củng cố được kiến thức về
triết học Mác – Lênin để áp dụng vào đời sống và công cuộc xây dựng nhà nước Xã
hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trong bài tiểu luận của em có thể có một số sai sót bởi sự
hạn chế trong kiến thức của em nên hi vọng được thầy đánh giá và góp ý để giúp em mở rộng kiến thức NỘI DUNG
1. VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
a . Vật chất
Theo Ph.Ănghen, để có cách hiểu đúng đắn về thế nào là quan niệm của vật
chất, phải phân biệt được thế nào là vật chất với tính cách là một phạm trù của
triết học. Bởi vật chất với có tính vật chất, là một sáng tạo thuần tuý của tư duy, và
là một trừu tượng thuần tuý...Vì vậy, bản chất của vật chất là không có sự tồn tại
cảm tính, đó là điểm khác biệt với vật chất nhất định và đang tồn tại. Thêm vào đó,
Ph.Ănghen còn chỉ ra rằng phạm trù vật chất không phải kết quả ngẫu hứng của sự
sáng tạo của con người mà trái lại là kết quả của “ con đường trừu tượng ” có cơ
sở của con người về sự vật hiện tượng có thể cảm biết được qua các giác quan.
Đặc biệt, Ph.Ănghen khẳng định ý nghĩa của phạm trù triết học nói chung cũng như
của phạm trù vật chất nói riêng cũng là sự tóm tắt theo những thuộc tính chung
của tập hợp và rằng thuộc tính chung của vật chất chính là tính vật chất- tính tồn
tại độc lập, không lệ thuộc vào ý thức.
Kế thừa tư tưởng đi trước thời đại đó, Lênin đã kế thừa và tiếp tục công
trình nghiên cứu của Ph.Ănghen từ đó hoàn thiện định nghĩa về vấn đề phạm trù
vật chất và bảo vệ nó, đấu tranh chống mọi hành động lật đổ của chủ nghĩa hoài
nghi và chủ nghĩa duy tâm. Định nghĩa phát biểu rằng: Vật chất là các sự vật hiện
tượng tồn tại bên ngoài tầm ảnh hưởng của ý thức, là thứ tồn tại khách quan
không bị ý thức tác động vào và con người có thể cảm nhận, sờ thấy, nhìn thấy, lOMoAR cPSD| 44985297
chép lại chụp lai được. Đây có thể xem là một định nghĩa hoàn thiện về vật chất mà
cho đến thời gian địa điểm hiện tại được các nhà khoa học hiện đại đã coi đó là
một định nghĩa mang tầm cỡ vỹ nhân mới có thể nghĩ ra, học thuyết ấy kinh điển
đến độ góp phần không nhỏ trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Định nghĩa
khái quát những nội dung như sau: 3
+Vật chất xuất hiện trong môi trường thực tế khách quan, là cái tồn tại bên
ngoài và không bị lệ buộc vào ý thức, cho dc con người có nhân thức được hay
không thì nó vẫn vẫn tổn tại.
+Vật chất là cái mà khi tác động vào dù là trực tiếp hay gián tiếp vô các
giác quan con người thi đem lại cho con người cảm giác, ý thức của con người
là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái mà ý thức phản ánh. 3
+Vật chất chẳng qua chỉ là cái mà ý thức phản ánh lai của sự vật, hiện tượng
Để thuận tiện cho việc phân tích chuyên sâu, Ph.Ănghen đã chía sự vận
động của vật chât ra thành 5 hình thức cơ bản nhất, bao gồm: cơ học, vật lý, hóa
học, sinh học và xã hội
Sự phân chia này có tác động vô cùng quan trọng trong việc xác định sự
khác biệt về vai trò của các ngành khoa học mà còn cho chúng ta thấy được sự so
sánh giữa sự di chuyển của vật và chất. Theo Ph.Ănghen, sự chuyễn động liên tục
của sự vật chất không hề làm mất đi mà ngược lại còn tiềm tàng trong đó đứng im
mang tính chất tương đối. Trạng thái đứng im ổn định chỉ có tính chất nhất thời,
nó chỉ là hiện tượng ở một khoảng thời gian nào đó, chứ không phải cùng lúc với
mọi hình thức vận động vì theo quan điểm trường phái duy vật, đứng im là điều
kiện tiên quyết quyết định cho sự chuyên hóa của vật chất.
Có thể nói đứng im chính là trạng thái đặc biệt của chuyển động, là vận động trong
thế cân bằng, chưa có sự thay đổi về hình dạng, vị trí, bản chất của sự vật.
Không gian và thời gian cũng là một trong những phạm trù nghiên cứu của
vật chất. Trong đó, không gian chính là nơi vật chất tồn tại, sau đó tùy vào tính chất
khách quan của không gian thì vật chất sẽ có bản chất phù hợp với từng không
gian khác nhau. Còn thời gian chỉ sự thay đổi cách thức vật chất tồn tại, biểu hiện
qua tốc độ nhanh chậm ở sự chuyển biến của quá trình vận động
Không gian và thời gian tồn tại song song, bổ trợ và không thể tách rời cho nhau.
Sự biến đổi của không gian luôn gắn liền với một mốc thời gian nhất định và ngược
lại sự biến đổi của thời gian luôn có sự biến đổi trong một khoảng không gian. Vì lOMoAR cPSD| 44985297
vậy có thể cho rằng thời gian và không gian như là một thể hợp nhất, luôn cùng
song hành tồn tại và phát triển. Vật chất có 3 chiều không gian và 1 chiều thời gian.
Quan điểm biện chứng về không gianthời gian là cơ sở khoa học lí luận để đối đầu
với quan niệm duy tâm, siêu hình cho rằng không gian và thời gian có thể tách rời.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng nhấn mạnh bản chất thế giới là vật chất và
thời gian không khác nhau nếu xét về tính chật vất được thể hiện ở ba điểm: -
Chỉ tồn tại một thế giới thống nhất đỏ là thể dới vật chất.
Thế giới vật chất tồn
Chỉ tồn tại một thế giới thống
nhất đỏ là thể dới vật chất. Thế giới vật chất tồn 4
+Chỉ tồn tại một thế giới thống nhất đó là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại
ở một cách ngoại quan, có trước ý thức con người và tách rời, do chúng phản ánh
Mọi thành phần của thế giới này
đều có mối liên hệ chật vất thống nhất với
+Mọi thành phần của thế giới này đều có mối liên hệ chật vất thống nhất với
nhau ở chỗ, chúng đều là hình dạng cụ thể của vật chất, do vật chất hình thành lên
và cũng chịu sự điều khiển của quy luật bên ngoài, thường gặp của thế giới vật chất lOMoAR cPSD| 44985297
hế giới và vật chất không được
sinhh ra, không tự nhiên đi đâu lại biến mất,
+Thế giới và vật chất không được sinh ra, không tự nhiên lại biến mất, nó là
sự tồn tại vinh hằng, vô thời hạn, không kết thúc.
Như vậy thế giới được cho là sự bao hàm tự nhiên và xã hội có bản chất là vật
chất, từ đó sự đa dạng của thế giới xung quanh, là ánh sáng soi sáng cho con người
trong việc nhận thức sự đa dạng ấy và thay đổi sao cho phù hợp với tự nhiên. b. Ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật, ý thức được khẳng định là đặc tính,
sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan của bộ óc con
người thông qua ngôn ngữ và lao động. Ý thức là những sản phẩm của con người
bao gồm tri thức, tình cảm, ý chí, trong đó trí thức đóng vai trò quan trọng nhất là
phương thức tồn tại của ý thức.
Trí thức là phương thức tồn tại của ý thức vì sự phát triển của ý thức có mối
quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình nhận thức của con người và cải biến
thế giới tự nhiên. Trí thức càng được tích lũy, con người sẽ càng đi sâu vào bản
chất sự vật, cải thiện sự vật, từ đó tính năng động ý thức càng cao hơn. Tuy nhấn
mạnh vào yếu tố trí thức nhưng cũng không thể xem nhẹ ảnh hưởng của tình cảm
và ý chí trong quá trình hình thành ý thức.
Tự ý thức cũng đóng vai trò cực kì quan trọng trong ý thức. Chủ nghĩa duy
tâm coi tự ý thức là một thực thể độc lập, tự nó, có sẵn trong các cá nhân, biểu
hiện quan hệ xã hội. Trái lại chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng tự ý thức là ý
thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ thế giới bên ngoài.
Khi phản ánh lại thế giới khách quan, con người tự cho bản than là một thực thể
đặc biệt: có hoạt động, có cảm xúc, có tư duy, có hành vi đạo đức xã 5
hội. Mặt khác những hoạt động thực tiễn của xã hội đòi hỏi con người phải nhận
thức rõ bản than mình theo các quy tắc mà xã hội đã đề ra. lOMoAR cPSD| 44985297
Vô thức là một hiện tượng liên quan đến những hoạt động xảy ra ngoài
phạm vi của ý thức. Có hai loai vô thức: Loại thứ nhất liên quan đến hành vi chưa
được con người ý thức; loai thứ hai liên quan đến các hành vi trước kia đã được ý
thức nhưng do lặp lại nó trở thành thói quen. Vô thức ảnh hưởng đến nhiều phạm
vi hoạt động của con người. Trong những hoàn cảnh nào đó nó có thể giúp con
người bớt sự căng thẳng trong hoạt động. Tuy vậy ở con người, ý thức vẫn đóng
vai trò chính trong việc quyết định hành vi của bản thân.
Ý thức được sinh ra từ hai nguồn gốc chính: Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. *Nguồn gốc tự nhiên
Ý thức là kết quả của sự tiến hóa của thế giới tự nhiên cho tới khi xuất hiện
con người và bộ óc con người. Khoa học đã chứng minh thế giới đã tồn tại rất lâu
trước khi con người xuất hiện, rằng hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ
sở hoạt động sinh lí thần kinh của của bộ não con người. Bộ não là khí quan của ý
thức, còn ý thức là chức năng của bộ não. Hoạt động của bộ não có ảnh hưởng lớn
tới ý thức, điển hình là khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn.
Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người. Sự xuất hiện của ý
thức gắn liền với sự phát triển đặc tính của phản ánh, đặc tính này phát triển cùng
với sự phát triển của thế giới tự nhiên. Sự xuất hiện của con người và xã hội loài
người đưa lại hình thức của sự phản ánh, đó là sự phản ánh ý thức. Sự phản ánh ý
thức là một yếu tố quan trọng trong sự phát triển của con người. *Nguồn gốc xã hội
Bộ óc con người qua từng thời kì không ngừng tiến hóa theo đó mà ý thức
của con người ngày càng triển thông qua giao tiếp, các mối quan hệ xã hội và đặc biệt là lao động.
Lao động của con người là nguồn gốc vật chất có tính chất xã hội nhằm cải
tạo tự nhiên, thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích của bản thân con người. Nhờ
lao động mà xã hội con người không ngừng phát triển. Lao động là 6
phương thức tồn tại đầu tiên của con người, lao động cũng giúp
con người có mối liên kết với nhau trong xã hội, mối quan hệ này
lại nảy sinh một vấn đề trong giao tiếp để trao đổi kiến thức và tổ lOMoAR cPSD| 44985297
chức lao động. Sự ra đời của ngôn ngữ là kết quả tất yếu giúp con người giải quyết
vấn đề. Với sự ra đời của ngôn ngữ, những suy
nghĩ của con người có thể biểu hiện ra trực tiếp, trờ thành yếu tố
tác động lên con người và gây ra cảm giác. Nhờ có ngôn ngữ, con người có thể
truyền đạt kinh nghiệm, trao đổi về tư tưởng, tình
cảm cho nhau. Ngôn ngữ đã trở thành phương tiện không thể thiếu
giúp con người có thể đi sâu vào nghiên cứu bản chất của sự vật,
hiện tượng, đồng thời tổng kết được hoạt động của minh trong toàn bộ lịch sử
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vật chất và ý thức là những nguyên tố không thể thiếu trong sự hình
thành, phát triển của đời sống con người. Tuy vậy, cần phải có được làn ranh giữa
vật chất và ý thức, đồng thời cũng là câu trà lời rằng cái nào có trước, cái nào có
sau và cái nào chi phối cái nào. Không như vậy sẽ lẫn lộn giũa vật chất và ý thức và
cuối cùng sẽ rời xa quan điểm duy vật.
a. Vật chất quyết định ý thức
Định nghĩa về vật chất của Lê Nin đã khẳng định vật chất là thực tại khách
quan vào bộ não của con người thông qua tri thức và cảm giác. Thật vậy, vật chất là
nguồn gốc của ý thức và quyết định nội dung của ý thức. Vì nhân tố vật chất quy
định các nhân tố tinh thần có thể tham gia vào hoạt đông con người, tạo động lực
cho nhân tố tinh thần giúp cho con người quy định mục đích, chủ trương của con
người đề ra cho hoạt động của mình.
Khi vật chất thay đổi thì sớm muộn gì ý thức cũng thay đổi theo. Theo
dòng chảy của thời gian, vật chất của chúng ta không ngừng thay đổi, chuyển động
và nó phản chiếu vào trong bộ não của chúng ta khiến cho những suy nghĩ, nhìn
nhận về thế giới thay đổi theo. Vì vậy vật chất thay đổi khiến cho ý thức cũng thay đổi qua thời gian
b. Ý thức tác động lại vào vật chất. 7
Mặc dù phụ thuộc vào vật chất, ý thức lại có được tính sáng tạo, năng lOMoAR cPSD| 44985297
động cho nên thông qua hoạt động của con người, ý thức vẫn là yêu tố tác động
đến sự phát triển hay kìm hãm các điều kiện vật chất, góp phần thay đổi bộ mặt
thế giới khách quan. Tuy vậy thì sự tác động của ý thức vẫn phụ thuộc vào vật chất.
Vì vậy vật chất vẫn luôn quyết định ý thức
3. Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay.
a. Vận dụng mối quan hệ biện chứng vào kinh tế và chính trị.
Yếu tố vật chất nắm vai trò chủ chốt, yếu tố ý thức thì có tác dụng ngược
lại vật chất. Trong một số trường hợp nhất định ý thức đóng vai trò quan trọng
trong sự thành bại của con người. Vì quy luật thế giới bên ngoài không hề phụ
thuộc vào ý thức nên đòi hỏi ý thức phải thay đổi phù hợp với sự biến đổi của thế
giới nếu không thì sớm muộn sẽ bị đào thải. Xét tổng thể, ý chí tạo được ảnh
hưởng khi và chỉ khi nó thâm nhập vào xã hội hay tổ chức. Nếu đưa nó vào hoàn
cảnh nhất định thì kinh tế ( vật chất ) và chính trị ( ý thức ) có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Nếu lOMoAR cPSD| 44985297
một đất giàu có nhưng nền chính trị bất ổn: đấu tranh giai cấp, tranh chấp quyền
lực thì đất nước đó không thể phát triển, thậm chí lụi tàn. Ngược lại nếu quốc gia
có nền kinh tế kiệt quệ thì đường lối chính sách có tốt đến đâu thì người dân vẫn
sẽ khổ cực dẫn đến bất mãn đối với nhà nước gây ra những vụ đảo chính, lật đổ
chính quyền. Có thể thấy, kinh tế và chính trị gắn bó vô cùng chặt chẽ, có tác động
lớn đến đời sống xã hội.
Nền kinh tế là cơ sở để nhà nước ban hành những chính sách. Vì vậy để
ổn định chính trị thì việc phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng là việc hết sức
quan trọng. Dựa vào tình hình kinh tế, nhà nước có thể ban hành những chính
sách phát triển phù hợp, đem lại lợi ích kinh tế cao cho xã hội và nhân dân. Đồng
thời có những quyết sách ổn định chính trị hợp lí sẽ tạo không khí yên ấm, thoải
mái, tự do giúp cho các công ty, tổ chức, hoạt động kinh tế cống hiến, phát huy hết
khả năng của minh để đem lại lợi ích cho bản thân và của xã hội.
b. Vận dụng trong việc xây dựng nền kinh tế mới ở nước ta hiện nay.
*Các đại hội theo từng giai đoạn tiêu biểu và nội dung. 8
Sau giải phóng miền Nam năm 1975 Đại hội Đảng lần thứ IV đề ra những
chỉ tiêu kế hoạch năm 1976-1980 quá cao vượt quá khả năng của nền kinh tế.
Trong đó có việc đề ra việc xây thêm cơ sở mới về công nghiệp nặng, cơ khí và đặt
nhiệm vụ hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Những chủ
trương sai lầm cùng với việc quản lí yếu kém đã khiến nền kinh tế nước ta trở nên
kiệt quệ, ảnh hưởng xấu tới đời sống nhân dân. Đến năm 1980, rất nhiều mục tiêu
chỉ đặt được một nửa so với mức được đề ra, nền kinh tế tang trưởng cực kì chậm
chạp: tổng bình quân tang 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp thâm chí còn
giảm 0,15% so với năm 1975.
Đại hội Đảng lần thứ V vẫn chưa hoàn toàn tìm ra những nguyên nhân
cốt lõi trong sự trì trệ của nền kinh tế nước ta cũng như chưa có được những chính
sách toàn diện về đổi mới kinh tế. Trong năm 1981-1985 chúng ta chưa kiên quyết
khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
quản lí kinh tế, lại phạm những sai lầm mới trong lĩnh vực phân phối lưu thông.
Nhình chung, chúng ta chưa thể đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định được tình
hình kinh tế-xã hội đời sống nhân dân. lOMoAR cPSD| 44985297
Tại Đại hội lần thứ VI Đảng ta đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã
phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội, đề ra các
định hướng mới đặc biệt là đổi mới kinh tế, đã thực hiện mục tiêu của ba chương
trình kinh tế: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất, hình thành nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tiểu tư sản,
sản xuất hàng hoá và kinh tế tư bản tư nhân, đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, sử
dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Trong quá trình thực hiện theo đường
lối của Đại hội lần thứ VI, nhà nước và nhân dân đã từng bước khắc phục khó
khăn, kiên trì giải quyết những hạn chế trong tình hình kinh tế và xã hội nước ta.
Đại hội lần thứ VII đã đưa ra những báo cáo về tình hình kinh tế, chính trị
trong bốn năm qua như sau: những bước đầu công cuộc đã có được thành công
ban đầu và mở ra những thành tựu quan trọng: tình hình chính trị ổn định, nền
kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước,
nguồn lực sản xuất của xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát được kìm
chế bớt, đời sống vật chất và tinh thần của một bộ phận nhân dân có phần được
cải thiện. Qua dẫn chứng trên ta thấy được tác động qua lại giữa vật chất và ý thức
thông qua nền kinh tế và chính trị. Nhờ có đường lối 9
đúng đắn, sản xuất phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, khủng hoảng
giảm bớt góp phần ổn định tình hình chính trị của đất nước.
*Thành tựu đạt được
Lạm phát được đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống còn 17,5% năm 1992 và
còn 5,2% năm 1993. Tổng sản phẩm trong nước GDP tăng bình quân 8,2% (mức đề
ra cho năm 1991- 1995 là 5,5- 6,5%). Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối
toàn diện, sản lượng lương thực 5 năm qua tăng 26% so với 5 năm trước đó, tạo
điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển
dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề lương thực được giản quyết
tốt. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm 13,3 %
(mức kế hoạch là 7,5% - 8,5%). Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo
hướng đa dạng hoá và đa phương hoá, thị trường xuất nhập khẩu được củng cố và
mở rộng, nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh...tăng kim ngạch xuất khẩu
trong 5 năm 1991 - 1995 đạt trên 17 tỷ USD (kế hoạch là 12 - 15 tỷ USD). Ngoài ra
nông nghiệp ngày càng phát triển giúp cho đất nước ta vươn lên trở thành nước có
mức xuất khẩu gạo cao thứ ba thế giới. Đời sống nhân dân ngày càng được củng cố. lOMoAR cPSD| 44985297
c. Những hạn chế còn tồn tại.
Tuy thành tựu là vậy, Đảng ta vẫn mắc phải một số sai lầm: Vội vàng
trong việc cải tổ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ nền kinh tế đa thành phần; đẩy mạnh quá
mức trong việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì chế độ bao cấp, nhiều sai lệch
khi ban hành chính sách về giá cả. Nguyên nhân chủ yếu là do sự trì trệ trong tổ
chức hệ thống cán bộ làm kìm hãm sản xuất. Chế độ bao cấp khiến cho nhân dân
ta triệt tiêu đi động lực phát triển. d. Giải pháp
Tiếp tục tiếp thu và áp dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức của chủ
nghĩa Mác- Lênin, học hỏi những sai lầm trong quá khứ để không có lần tiếp theo
mắc phải. Ngoài ra còn phải nâng cao ý thức của cán bộ cũng như nâng cao chất
lượng bộ máy nhà nước 10 KẾT LUẬN
Xây dựng nhà nước chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn gặp nhiều trở ngại.
Những diễn biến phức tạp của thế giới, biến động trong đất nước đòi hỏi Đảng và
nhà nước ta có được những chính sách về kinh tế và chính trị đúng đắn, thông
minh, phù hợp trong bối cảnh tình hình thực tế thay đổi từng ngày, từng giờ. Việc
áp dụng thành công phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức áp dụng vào nền kinh tế, chính trị sẽ giúp nền
kinh tế Việt Nam cất cánh, nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế, góp
phần ổn định chính trị của đất nước. Đó là trách nhiệm không chỉ của Đảng mà còn
là của mỗi con người trong đất nước. lOMoAR cPSD| 44985297 11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO studocu.com thegioiluat.vn dichthuatadong.com lOMoAR cPSD| 44985297 12