



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61432759
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN TIÊN TIẾN, CLC VÀ POHE
Khoa: Digital Marketing
-------------------------------- BÀI TẬP LỚN
Môn: Triết học Mác-Lênin
Đề Tài: Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác – Lênin Về Sứ Mệnh Lịch Sử
Của Giai Cấp Công Nhân Và Sự Vận Dụng Của Đảng Ta Ở Việt Nam Hiện Nay
Họ và tên:......................................................
Mã sinh viên:.................................................
Lớp chuyên ngành:.......................................
Giáo viên hướng dẫn:...................................
Hà Nội, ngày…… tháng …… năm 2024 NỘI DUNG
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................3
PHẦN I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ SỨ MỆNH
LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN.......................................................4
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân..................4
1.1 Khái niệm và đặc điểm giai cấp công nhân............................................4
1.2 Nội dung sứ mệnh của lịch sử giai cấp công nhân.................................6
2. Điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. .7
2.1 Điều kiện khách quan.............................................................................7
2.2 Điều kiện chủ quan.................................................................................8
PHẦN 2: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN CỦA
ĐẢNG TA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................................9
1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam................................................9
1.1 Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam..........................................9
1.2 Nội dung sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam.....................11
2. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam...............................................12
2.1 Thành tựu.............................................................................................14
2.2 Hạn chế.................................................................................................14
2.3 Giải pháp..............................................................................................20
KẾT LUẬN.......................................................................................................22 LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử loài người chứng kiến sự xuất hiện của các phương thức sản xuất
mới; sự phát triển liên tục của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao và các chế độ
xã hội không ngừng thay thế lẫn nhau để con người thực hiện sứ mệnh: tiến tới
một xã hội tốt đẹp, văn minh, tiến bộ hơn. Giai cấp mang trong mình sứ mệnh
lịch sử ấy, những con người đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến và phương
thức sản xuất hiện đại, sẽ đi tiên phong “thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới”
chính là công nhân và nhân dân lao động.
Nghiên cứu về những vấn đề nêu trên, Chủ nghĩa xã hội khoa học – một
trong ba bộ phận của Chủ nghĩa Mác – Lênin đã nêu rõ một cách toàn diện và
đầy đủ những nguyên tắc căn bản, những điều kiện, nội dung , hình thức, phương
pháp đấu tranh của giai cấp công nhân để thực hiện chuyển biến từ chủ nghĩa tư
bản sang chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, sự thoái trào của Chủ nghĩa xã hội giữa sự lớn
mạnh của Chủ nghĩa tư bản trong nền công nghiệp hoá hiện đại hoá đầy tiêu cự lOMoAR cPSD| 61432759
và biến động lại khiến vấn đề làm sáng tỏ và hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân lại càng trở nên bức thiết. Sứ mệnh đó có vai trò vô cùng quan trọng,
tác động tích cực đến không chỉ hệ thống Chủ nghĩa xã hội mà còn ảnh hưởng
đến tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của toàn thế giới.
Nhận thức được rõ vai trò và tầm quan trọng của giai cấp công nhân, em
viết bài tiểu luận này để làm rõ hơn quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, qua đó
có thể hiểu rõ, liên hệ tới sứ mệnh của giai cấp công nhân ở Việt Nam và sự vận
dụng của Đảng ta trong thời ki hiện nay.
PHẦN I: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
1.1 Khái niệm và đặc điểm giai cấp công nhân
a) Khái niệm giai cấp công nhân:
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin : “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã
hội hình thành và phát triển của nền công nghiệp hiện đại ….Họ là người làm
thuê do không có tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động để sống và bị giai
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư, vì vậy lợi ích cơ bản của họ đối lập với lợi
ích cơ bản của giai cấp tư sản.”
Khi sử dụng khái niệm giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng
một số thuật ngữ khác nhau để biểu đạt khái niệm đó, như: giai cấp vô sản, giai
cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công
nghiệp,... Mặc dù vậy, về cơ bản những thuật ngữ này trước hết đều biểu thị một
khái niệm thống nhất, đó là chỉ giai cấp công nhân hiện đại và đưỡ xác định theo
hai phương diện cơ bản:
- Về phương diện kinh tế - xã hội:
Là con đẻ của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân với phương thức
lao động công nghiệp ngày càng hiện đại trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa: đó
là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có
tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
Mô tả quá trình phát triển của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã chỉ rõ: trong công trường thủ công và trong nghề thủ công, người công nhân
sử dụng công cụ của mình còn trong công xưởng thì người công nhân phải phục
vụ máy móc”. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, công nhân công nghiệp công xưởng là
bộ phận tiêu biểu cho giai cấp công nhân hiện đại.
Các ông nhấn mạnh rằng, “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng
với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản
thân nền đại công nghiệp” và “công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới,
giống như máy móc vậy”... “công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”.
- Về phương diện chính trị:
Từ lịch sử phát triển của Chủ nghĩa tư bản, giai cấp còn là sản phẩm xã hội
của quá trính phát triển tư bản chủ nghĩa, một xã hội có điều kiện tồn tại dựa trên
cơ sở chế độ làm thuê. Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã định nghĩa rằng, “giai cáp vô sản là giai cấp những công nhân làm
thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai
cấp cơ bản, chủ yếu đối lập với giai cấp tư sản là giai cấp bị giai cấptư sản tước
đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhàtư bản để sống, bị
bóc lột giá trị thặng dư. Họ là người được tự do về thân thể và có quyền bán sức
lao động tuỳ theo cung - cầu hàng hoá sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột
nặng nề, bị bần cùng hoá về vật chất và tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ thuộc vào
cung - cầu hàng hoá sức lao động, phụ thuộc vào kết quả sức lao động của chính
họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá trị thặng dư lại giai cấp tư sản chiếm đoạtđể sống”.
b) Đặc trưng của giai cấp công nhân
Những đặc điểm của giai cấp công nhân có thể khái quát thành mấy điểm chủ yếu sau đây:
- Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân là lao động bằng
phương thứccông nghiệp với đặc trưng công cụ lao động là máy móc,
tạo ra năng suất lao động cao, quá trình lao động mang tính chất xã hội hóa.
- Giai cấp công nhân là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp, làchủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Do đó, giai
cấp công nhân là đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương
thức sản xuất tiên tiến, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại.
- Nền sản xuất đại công nghiệp và phương thức sản xuất tiên
tiến đã rènluyện cho giai cấp công nhân những phẩm chất đặc biệt về
tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác và tâm lý lao động lOMoAR cPSD| 61432759
công nghiệp. Là giai cấp bị áp bức bóc lột bởi giai cấp tư sản và chủ
nghĩa tư bản, giai cấp công nhân trong quá trình trưởng thành của
mình, tự ý thức về mình là một giai cấp chống lại sự thống trị của chủ
nghĩa tư bản nên là một giai cấp cách mạng và có tinh thần cách mạng triệt để.
=> Những đặc điểm ấy chính là những phẩm chất cần thiết để giai cấp công
nhân là một giai cấp cách mạng và có vai trò lãnh đạo cách mạng.
1.2 Nội dung sứ mệnh của lịch sử giai cấp công nhân
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chính là những nhiệm vụ
mà giai cấp công nhận cần phải thực hiện với tư cách là tiên phong, đi đầu trong
cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế - xã hội công sản chủ nghĩa. Sự mệnh
đó chính là. Nhiệm vụ đó bao gồm lãnh đạo nhân dan lao động đấu tranh xoá bỏ
sự bóc lột của giai cấp tư sản, lật đổ chế độ chủ nghĩa tư bản, giải phóng công
nhân và nhân dân lao động khỏi sự sự lạc hậu, đói nghèo và xây dựng một xã hội
văn minh tiến bộ với cộng sản chủ nghĩa.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, khi nói về vai trò lịch sử của giai cấp
côngnhân, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ "... phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo
ra mộtlực lượng bị bụộc phải hoàn thành cuộc cách mạng ấy, nếu không thì sẽ bị
diệtvong"và "Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử
củagiai cấp vô sản hiện đại".
Sứ mệnh đó thể hiện ở ba nội dung cơ bản:
- Nội dung về kinh tế:
Giai cấp công nhân cũng là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới, tiên tiến
nhất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, đại biểu cho phương thức sản
xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát triển của lịch sử xã hội. Vai trò chủ thể của
giai cấp công nhân, trước hết là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất bằng
phương thức sản xuất xã hội hóa cao để sản xuất ra của cải vật chất ngày càng
nhiều đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội. Qua đó, giai cấp
công nhân tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.
Nhiệm vụ của chính của công nhân là giải phóng lực lượng sản xuất đã bị
kìm hãm lạc hậu trong nền tư bản chủ nghĩa. Từ đó có thể thúc đẩy, phát triển tạo
điều kiện cho sự xuất hiện của quan hệ sản xuất mới – Chủ nghĩa xã hội - Nội
dung chính trị - xã hội:
Với mục tiêu là lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư sản, công nhân dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản tiến hành cách mạng chính trị. Mục đích là để
giành lại quyền thống trị dành cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, thiết
lập chính quyền nhà nước mới và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước mới của công nhân và nhân dân lao động sẽ góp phần xây dựng và
phát triển nền chính trị dân chủ mới, tổ chức đời sống xã hội, phục vụ đời sống
và lợi ích của nhân dân lao động với chủ trương dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ.
- Nội dung văn hoá, tư tưởng:
Không chỉ chính trị mà, công nhân lao động còn xây dựng và cải tạo lại xã
hội trên cơ sở lĩnh vực văn hoá và tư tưởng của với hệ giá trị mới: công bằng, dân
chủ. Những cải cách bao gồm xoá bỏ những tư tưởng lỗi thời, lạc hậu, thiếu dân
chủ và đưa những tiến bộ trong tư tưởng, tâm lý và lối sống vào trong đời sống
người dân. Củng cố ý thức về giai công nhân và chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ
nghĩa xã hội và loại bỏ những ý thức hệ tư sản và tàn dư của hệ tư tưởng cũ.
=> Để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất
địnhphải tập hợp được các tầng lớp nhân dân lao động xung quanh nó, biến
hành cuộcđấu tranh cách mạng xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới về
mọi mặt kinh tế, chính trị và văn hóa, tư tưởng. Đó là một quá trình lịch sử
hết sức lâu dài và khó khăn.
2. Điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
2.1 Điều kiện khách quan
Thứ nhất, là do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực
lượng sản xuất hiện đại trong chủ nghĩa tư bản, vì vậy giai cấp công nhân là lực
lượng quyết định trong xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển và là lực lượng phá
vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Là giai cấp đủ điều kiện tổ chức và lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triển
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với tư cách là một chế
độ xã hội kiểu mới, không còn chế độ người áp bức, bóc lột người và hướng đến chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định
Công nhân không sở hữu tư liệu lao động và phải bán sức lao động mặc dù
là giai cấp sản xuất của cải chính của xã hội. Công nhân bị bóc lột, cùng cực nên lOMoAR cPSD| 61432759
có cùng lợi ích cơ bản với đa số nhân dân lao động, đối lập trực tiếp với lịch ích của giai cấp tư sản.
Bên cạnh đó, nền sản xuất đại công nghiệp đã rèn luyện giai cấp công nhân
những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng như: tính tổ chức
và kỷ luật, tự giác, đoàn kết trong cuộc đấu tranh tự giải mình và giải phóng xã
hội. Đồng thời, cùng với sự dẫn dắt của Đảng cộng sản và lý luận tiên tiến của
Chủ nghĩa Mác – Lênin thì công nhân là giai cấp cách mạng, tiến bộ đứng lên
xoá bỏ bóc lột và giải phóng công nhân và nhân dân lao động.
2.2 Điều kiện chủ quan
Thứ nhất, là sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân về số lượng
và chất lượng.
Quy mô nền công nghiệp càng phát triển thì số lượng công nhân ngày càng
nhiều. Đồng thời, sự phát triển về mặt lượng cũng phải gắn liền với mặt chất. Thể
hiện ở sự trưởng thành về ý thức chính trị của giai cấp cách mạng, giác ngộ được Chủ nghĩa Mác -Lênin.
Vì là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiết, chất lượng còn
thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học công nghệ; trình độ học vấn tay
nghề, văn hóa sản xuất, văn hóa lao động đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức,
v.v… Để phát triển giai cấp về cả số lượng lẫn chất lượng, theo chủ nghĩa Mác -
Lênin phải đặc biệt chú ý đến hai biện pháp cơ bản đấy chính là phát triển công
nghiệp - “tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết” và sự trưởng thành của Đảng Cộng
sản - hạt nhân chính trị quan trọng của giai cấp công nhân.
Thứ hai, Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai
cấp công nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình
Giai cấp cần một người dẫn đầu đó là Đảng Cộng sản – đội tiên phong đảm
nhận vai trò lãnh đạo cách mạng. Đảng chính là dấu hiệu của sự trưởng thành của
giai cấp từ giai cấp công nhân trở thành giai cấp cách mạng, chuyển cuộc đấu
tranh từ tự phát lên trình độ tự giác, nhằm thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Đảng Cộng sản là sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác – Lênin và phong trào
công nhân, là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc
và xã hội. Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội và lực lượng quan trọng nhất của
Đảng, cùng với sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp lao động khác, trở thành lực lượng cách mạng.
PHẦN 2: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN VỀ SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN CỦA ĐẢNG TA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
1.1 Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam
“Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang
phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công
hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp
hoặc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có tính chất công nghiệp”. -
Hội nghị lần thứ VI của Ban Chấp hành Trung ương khóa X -
Giai cấp công nhân Việt Nam trước hết mang những đặc điểm của giai cấp
công nhân nói chung. Có thể thấy giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất và
cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh lịch sử: xóa bỏ chủ
nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột,
nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân là một bộ phận của giai cấp công nhân quốc tế nên có
những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế nêu trên; ngoài ra, giai cấp
công nhân Việt Nam ra đời và phát triển trong điều kiện cụ thể của dân tộc Việt
Nam nên còn có những đặc điểm riêng, ảnh hưởng đến việc thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam: -
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước cả giai cấp tư sản Việt
Nam,là giai cấp đối kháng trực tiếp với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên
ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, một
thứ chủ nghĩa tư bản thực lợi không quan tâm mấy đến phát triển công nghiệp,
nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm. Mặc dù ra đời muộn, số lượng
ít, trình độ nghề nghiệp thấp chưa bằng giai cấp công nhân thế giới, còn mang
nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp công nhân Việt Nam
đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thực
hiện sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng dân tộc để giành độc lập dân tộc và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. -
Phần lớn những người công nhân nước ta vốn xuất thân từ nông dân
vàcác tầng lớp nhân dân lao động khác, nên có quan hệ mật thiết, tự nhiên với
nông dân và đông đảo nhân dân lao động. Chính vì vậy, giai cấp công nhân Việt
Nam sớm liên minh với nông dân, tạo thành khối liên minh công – nông và khối lOMoAR cPSD| 61432759
đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong
suốt quá trình cách mạng. Đây cũng là điều kiện cần thiết đảm bảo cho cách mạng
Việt Nam giành được thắng lợi. -
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau một thời gian ngắn thì
ĐảngCộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản đã đem yếu tố tự giác vào phong
trào công nhân, làm cho phong trào công nhân có một bước phát triển nhảy vọt
về chất. Giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trở thành lực lượng
chính trị độc lập, giành được quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Việt. -
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc
vàsớm có Đảng lãnh đạo nên không bị tác động bởi các khuynh hướng cơ hội chủ
nghĩa, cải lương, xét lại, không bị giai cấp tư sản đầu độc về tư tưởng nên luôn
luôn đoàn kết, thống nhất trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn địa chủ phong kiến tay sai. -
Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã tăng nhanh về
sốlượng và chất lượng, là giai cấp đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường. -
Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đa dạng về cơ cấu nghề
nghiệp,có mặt trong mọi thành phần kinh tế nhưng đội ngũ công nhân trong khu
vực kinh tế nhà nước là tiêu biểu,đóng vai trò nòng cốt, chủ đạo.
Công nhân tri thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến, và
công nhân trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp, học vấn, văn hóa,
được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất và thực tiễn xã hội, là lực lượng chủ đạo
trong cơ cấu giai cấp công nhân, trong lao động và phong trào công đoàn.
Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong bối
cảnh hiện nay, cùng với việc xây dựng, phát triển giai cấp công nhân lớn
mạnh, hiện đại, phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm
cho Đảng lãnh đạo, cầm quyền thực sự trong sạch vững mạnh. Điều đó nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và luôn giữ vững truyền thống yêu nước và đoàn kết
cùng với sự trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là điểm then chốt để thực
hiện thành công sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở Việt Nam.
1.2 Nội dung sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam
“Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam,
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Điều 4 Hiến pháp 2013
Bước vào thời kì đổi mới từ năm 1986, Đảng ta luôn xác định vai trò và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Với tư cách là “giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, lực
lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức”, Giai cấp công nhân là lực lượng nòng cốt của Đảng Cộng sản Việt
Nam, là lực lượng lãnh đạo cách mạng, giai cấp tiên phong, là lực lượng đi đầu
trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa được
thể hiện toàn diện trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội.
a) Nội dung kinh tế:
Giai cấp công nhân là nguồn nhân lực chủ yếu tham gia phát triển nên kinh
tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy khoa học công nghệ làm
động lực quan trọng. Với số lượng đông đảo, có mặt ở mọi hoạt động lĩnh vực
sản xuất và dịch vụ công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế, giai cấp công nhân
phát huy vai trò và trách nhiệm của lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó cũng chính là cơ sở, là vấn đề nổi bật
nhất để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Mục tiêu trong nhiều
năm tiếp theo sẽ là biến nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại với khoa
học – công nghệ phát triển. Đi đôi với đó, cần phải đảm bảo sự phát triển của nên
kinh tế tỉ thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Phát triển CNH – HĐH đồng nghĩa với sự phát triển về cả số lượng và chất
lượng của giai cấp công nhân, phát huy những điểm mạnh và phẩm chất của giai
cấp đồng thời khắc phụ những hạn chế, tồn đọng do hoàn cảnh lịch sử và xã hội sinh ra.
Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Giai cấp công nhân Việt Nam gắn liền với
công nghiệp hoá – hiện đại hoá. Sứ mệnh của giai cấp công nhân trên lĩnh vực
kinh tế gắn liền việc tạo ra những động lực phát triển trên toàn đất nước theo
hướng bền vững, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế. Là tiền đề cho sự phát triển
toàn diện và trưởng thành của liên minh công – nông – trí thức.
b) Nội dung chính trị:
Nội dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử GCCN là lãnh đạo thành
công sự nghiệp đổi mới, giải quyết các nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, xây dựng Đảng cầm quyền trong sạch vững mạnh.Giai cấp công lOMoAR cPSD| 61432759
nhân tiên phong trong công cuộc củng cố và phát triển cơ sở chính trị - xã hội của
Đảng. Giai cấp công nhân chủ động, tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đón Đảng,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa để bảo vệ nhân dân. Là một bộ phận của giai cấp
công nhân thế giới, giai cấp công nhân ở Việt nam là giai cấp tiên phong trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp ngăn chặn
sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến, tự chuyển hóa".
c) Nội dung văn hoá tư tưởng:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân còn là bảo vệ đậm đà bản sắc và
văn hoá của dân tộc, xây dựng hệ giá trị văn hoá và con người trong thời kì mới.
Kết hợp giáo dục dạo đức cách mạng, rèn luyện lối sống, tác phong công nghiệp,
văn minh, hiện đại, hoàn thiện nhân cách và đẩy lùi những tiêu cực trong văn hoá,
thủ tiêu những thế lực thù địch đang làm lung lay tư tưởng của Đảng. Đồng thời
phải giáo dục, tuyên truyền cho nhân dân đặt biệt là lớp trẻ về ý thức giai cấp,
tinh thần và tư tưởng chính trị để củng cố mối liên kết giữa công nhân và dân tộc.
2. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1 Sự vận dụng của Đảng
Thông qua Hội nghị trung ương 6 Khoá X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp
công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
Đảng đã đưa ra quan niệm khá đầy đủ về Giai cấp công nhân: “Giai cấp công
nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những
người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản
xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có
tính chất công nghiệp”. Nhận thức mới này đã điều chỉnh, thay thế cho những
quan niệm phiến diện và khá thịnh hành trong xã hội rằng: công nhân chỉ thuần
túy là người “lao động trực tiếp” bằng máy móc; rằng công nhân không bao hàm
trong nó lực lượng lao động trí óc. Điểm mới trong nhận thức lý luận này là thừa
nhận sự tồn tại của Giai cấp công nhân nước ta trong nhiều loại hình - thành phần
kinh tế; họ bao gồm cả lực lượng lao động chân tay và trí óc hoặc gồm cả 2 phương diện đó.
Với hai đặc trưng của nền kinh tế là môi trường kinh tế có nhiều thành
phần hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN và đẩy mạnh công
CNH – HĐH, Đảng nhận thức rõ được vai trò của giai cấp công nhân: “Chiến
lược xây dựng GCCN lớn mạnh phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc
tế”. Đây là chiến lược của Đảng, trách nhiệm của nhà nước, sự góp sức của các
chủ doanh nghiệp và vai trò chủ động của từng công nhân. Chiến lược đó liên
quan trực tiếp đến đường lối đẩy mạnh CNH, HĐH của Đảng, chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Bên cạnh đó, Đảng đã phân định rõ công nhân với tư cách là một giai cấp
có sứ mệnh lịch sử với dân tộc và công nhân với tư cách là người lao động trong
bối cảnh hiện nay và đồng thời hiểu rõ vai trò và sức ảnh hưởng của mình. Đảng
và Nhà nước, với những đường lối chính sách, mới là yếu tố quyết định nhất đến
sự phát triển của GCCN và sứ mệnh lịch sử của nó. Đây có thể xem là nhận thức
mới quan trọng nhất về xây dựng, phát triển công nhân nước ta.
Hội nghĩ cũng đã bước đầu làm rõ được nội dung làm rõ nội dung sứ mệnh
lịch sử của GCCN Việt Nam với dân tộc hiện nay, đồng thời có thêm nhiều phát
hiện rút ra từ quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của GCCN. Qua đó, Đảng đã
có những chính sách và đường lối phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất
nước và của giai cấp công nhân, đưa ra những phương hướng và mục tiêu cho
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội và đạt được những thành tựu nổi bật.
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã dành riêng một chuyên mục về việc giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, trong đó khẳng định:
“Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta. Trong điều
kiện hiện nay, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là
phải: - Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bất kỳ tình
huống khó khăn nào cũng không dao động, xa rời mục tiêu đó: -
Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
vàtư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát đầy đủ từ thực tiễn Việt Nam, trên cơ sở đó
xây dựng đường lối, chủ trương và các chính sách đúng đắn. -
Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhânphụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng. 17 - Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm,
ý thức tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên
theo quan điểm của giai cấp công nhân. -
Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại
đoànkết toàn dân. Chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân. -
Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức
mạnhdân tộc với sức mạnh thời đại”.
=> Đó là những định hướng đúng đắn và cần thiết cho việc giữ vững sứ
mệnh lịch sử và phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng
2.2 Thành tựu lOMoAR cPSD| 61432759
a) Sự phát triển về mặt chất và lượng của giai cấp công nhân
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, hiện nay, tổng số công nhân nước ta
chiếm tỷ lệ khoảng 13% số dân và 24% lực lượng lao động xã hội, bao gồm số
công nhân làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong
nước; đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài; số lao động giản đơn trong các
cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể. Dự báo đến năm 2020, giai cấp công nhân có
khoảng 20,5 triệu người. Công nhân trong doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh; ngược lại, công nhân trong
doanh nghiệp nhà nước ngày càng giảm về số lượng.
Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, chính trị của giai
cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Số công nhân có tri thức, nắm vững
khoa học - công nghệ tiên tiến tăng lên. Công nhân trong các khu công nghiệp,
các doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài được tiếp
xúc với máy móc, thiết bị tiên tiến, làm việc với các chuyên gia nước ngoài nên
được nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, rèn luyện tác phong công nghiệp,
phương pháp làm việc tiên tiến. Lớp công nhân trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn
nghề nghiệp ngay từ đầu, có trình độ học vấn, văn hóa, được rèn luyện trong thực
tiễn sản xuất hiện đại, sẽ là lực lượng lao động chủ đạo, có tác động tích cực đến
sản xuất công nghiệp, giá trị sản phẩm công nghiệp, gia tăng khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế trong tương lai… Kết quả thống kê cho thấy: về trình độ học vấn,
70,2% số công nhân có trình độ trung học phổ thông, 26,8% có trình độ trung học
cơ sở, 3,1% có trình độ tiểu học, 17,9% có trình độ trung cấp, 6,6% có trình độ
cao đẳng, 17,4% có trình độ đại học; về trình độ chuyên môn, hiện có 48% công
nhân được đào tạo tại doanh nghiệp.
b) Về kinh tế -
Giai cấp công nhân là nhân tố chủ lực trong công cuộc phát
triểnnền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công nhân là lực lượng lao động trực tiếp thúc đẩy “Sản xuất công nghiệp
từng bước phục hồi, giá trị gia tăng ngành công nghiệp, xây dựng tăng bình quân
6,9%/năm; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp
tăng… Giá trị ngành công nghiệp, xây dựng năm 2011 tăng 6,68%, năm 2012:
5,75%, năm 2013: 5,43%, năm 2014: 7,14%, năm 2015: 9,29%”. Giá trị ngành
công nghiệp hàng năm tăng cao, trong đó có công sức, trí tuệ của giai cấp công
nhân, đóng góp chủ yếu vào giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP), góp phần
quan trọng vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm thực hiện
đường lối đổi mới của Đảng.
Thống kê năm 2021 cho thấy cơ cấu GCCN ở nước ta trong ngành công
nghiệp chiếm đến 46,1%, thương mại dịch vụ chiếm 25,9%. Hằng năm, GCCN
đóng góp khoảng 60% tổng sản phẩm xã hội và bảo đảm hơn 70% ngân sách nhà
nước. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới dưới tác động của đại dịch
COVID-19, GCCN Việt Nam đã tiên phong, nòng cốt cùng nhân dân lao động,
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước, đã đạt được mục tiêu kép trong
năm 2020 là chống dịch thành công và tăng trưởng kinh tế đạt 2,91% - sứ tăng
trưởng dương hiếm có trên thế giới. -
Giai cấp công nhân tiên phong, đi đầu trong Công nghiệp hoá –
Hiện đạihoá đất nước.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tăng lên liên tục. Trong suốt quá
trình chuyển mình từ một nền kinh tế lạc hậu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường
hiện đại định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng
tăng trưởng trong khu vực và trên thế giới, với nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Nền kinh tế không chỉ tăng trưởng về quy mô, mà chất lượng tăng trưởng cũng
được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể.
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), GDP chỉ đạt mức tăng
trưởng bình quân 4,4%/năm, thì trong 05 năm tiếp theo (1991 - 1995), tăng trưởng
GDP bình quân là 8,2%, cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%, và thuộc
vào loại cao trong số các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1996 2000, tốc
độ tăng GDP bình quân của Việt Nam là 6,9%, tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên
90 thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á,
nhưng vẫn vào loại cao trong khu vực. GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt
mức 6,8%. Mặc dù năm 2020, 2021 kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch
COVID-19, nhưng nền kinh tế vẫn tăng trưởng dương, 2,91% năm 2020 và
2,56% năm 2021, là một trong những nước hiếm hoi có tăng trưởng dương trong
khu vực và trên thế giới. Năm 2022, mặc dù hậu quả nặng nề của dịch COVID-
19, nhưng với sự nỗ lực của toàn nền kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã đạt
mức tăng trưởng rất cao, 8,02% -
Ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong sản xuất và
laođộng để nâng cao năng suất và hiệu quả
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể
trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại vào các lĩnh vực đời sống, sản
xuất, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc
sống của người dân. Việc ứng dụng tự động hoá, trí tuệ nhân tạo và IoT vào sản
xuất cũng trở nên phổ biến hơn rất nhiều, góp phần làm tăng năng suất lao động một cách hiệu quả. lOMoAR cPSD| 61432759
Năng suất lao động tăng từ 3,45%/năm giai đoạn 2006 - 2010 lên
4,3%/năm giai đoạn 2011 - 2015, 5,8%/năm giai đoạn 2016 - 2020, đóng góp của
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 05 năm (2016 - 2020) đạt khoảng
45,2% (mục tiêu đề ra là 30 đến 35%). So với các nước trong khu vực, Việt Nam
đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao. -
Hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng
Gần 40 năm đổi mới cũng là chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực
của thị trường toàn cầu của Việt Nam. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ
đối tác chiến lược về kinh tế. Từ khi gia nhập WTO đến nay, Việt Nam đã thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện với nhiều nước, trong đó có tất cả các
nước P5 (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp, Anh) và hầu hết các nước chủ chốt trong
trong khu vực và trên thế giới; đã có trên 70 nước công nhận Việt Nam là nền
kinh tế thị trường. Việt Nam cũng là thành viên chủ động, tích cực và có trách
nhiệm cao trong các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã tham gia vào Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC), các tổ chức của Liên hợp quốc... đóng góp tích cực và đang trở
thành nước có vị thế và vai trò ngày càng cao ở khu vực, được cộng đồng quốc tế tôn trọng.
c) Về Chính trị - xã hội
- Chủ động, tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho
Đảng thực sự vững mạnh
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn mới hiện nay, là xây dựng
Đảng về tổ chức và con người. Xây dựng tổ chức Đảng, trước hết là xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đây là quan điểm có tính kế thừa, phát
triển dựa trên tinh thần của các kỳ Đại hội Đảng, đồng thời đáp ứng yêu cầu trong
tình hình mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị là nội dung cốt yếu của đổi mới chính trị, liên quan trực tiếp đến giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, tác động đến mọi mặt đời sống, quyết định tiền
đồ sự nghiệp cách mạng.
- Chính sách xã hội bảo vệ nhân dân:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua tại Đại hội VII của Đảng nêu rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn vì
hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của
Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người
trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết
hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa
cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6 - 1996), Đảng ta nhấn
mạnh: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển”. Đồng thời, Đại hội nêu
rõ:“Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà
nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp,
các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải
quyết những vấn đề xã hội”.
Quan tâm đẩy mạnh đối thoại, thương lượng tập thể, góp phần bảo đảm
chế độ, chính sách và từng bước nâng cao phúc lợi, lợi ích cho người lao động;
xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiến bộ. Chủ động, tích cực cùng
hệ thống chính trị giải quyết những vụ, việc liên quan đến quyền lợi, đời sống
của người lao động, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự. d) Về tư tưởng văn hoá -
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:
Đảng đã đề ra chủ trương giải phóng sức sáng tạo của nhân dân, tạo điều
kiện cho nhân dân tham gia xây dựng văn hóa. Chú trọng phát triển văn hóa
truyền thống, bảo tồn, khẳng định giá trị, bản sắc văn hóa Việt Nam. Đồng thời,
cải thiện đời sống văn hóa tinh thần qua nhiều hình thức. Trong tình hình kinh tế
hội nhập, Nhà nước cũng có những hành động về mở rộng giao lưu, hợp tác quốc
tế để tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại -
Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có đạo đức, tác
phong,văn minh, hiện đại:
Lao động qua đào tạo có chuyển dịch tích cực, tỷ lệ lao động qua đào tạo
tăng từ 40% (năm 2010) lên 65% (năm 2020). Chỉ số phát triển con người (HDI)
của Việt Nam được cải thiện, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người
trung bình cao. Nhiều phong trào, cuộc vận động về văn hóa đạt kết quả tích cực.
Hệ thống thông tin đại chúng phát triển mạnh mẽ. -
Đấu tranh tư tưởng, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin; chống lại các
thếlực thù địch; củng cố ý thức giai cấp, bản lĩnh chính trị, chủ nghĩa yêu nước: lOMoAR cPSD| 61432759
Đảng ta đã có nhiều hoạt động tuyên truyền, giáo dục chính trị, chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được triển khai đầy đủ, có kế hoạch tới
toàn thể nhân dân. Thường xuyên tổ chức trao đổi, đối thoại với công nhân lao
động và doanh nghiệp nắm bắt tình hình tư tưởng, định hướng dư luận xã hội.
Tích cực đấu tranh, phê phán, uốn nắn nhận thức lệch lạc, biểu hiện sai trái trong
cán bộ, đoàn viên công đoàn, công nhân lao động. 2.2 Hạn chế
Tuy đã đạt được nhiều thành tựu, song vẫn còn tồn đọng một số bất cập,
hạn chế mà Đảng gặp phải và cần có những biện pháp giải quyết và khắc phục.
a) Hạn chế của giai cấp công nhân:
Lợi ích: Lợi ích và vai trò của một bộ phận công nhân chưa được phát huy
đầy đủ. Giai cấp công nhân về bản chất là người làm chủ đất nước, thông qua
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình hội
nhập quốc tế đanglàm cho “địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện
đầy đủ”. Vai trò làm chủ sản xuất của một bộ phận công nhân chưa được phát
huy. Phần lớn công nhân nước tahiện nay vẫn là lao động làm công ăn lương. Ðịa
vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy đủ.Tỷ lệ đảng viên và cán
bộ lãnh đạo xuất thân từ công nhân còn thấp. Một bộ phận công nhân chưa thiết
tha phấn đấu vào Ðảng và tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội.
Lợi ích của một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những
thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình
Số lượng và chất lượng: Giai cấp công nhân cũng có sự suy giảm về mặt
chất và chưa đồng đều về mặt lượng. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế đang tạo ra một
nhu cầu mới về nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế lại chưa tương thích với quá trình chuyển dịch cơ cấu
lao động. Thêm vào đó, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được
yêu cầu về trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; thiếu nghiêm trọng
các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; tác phong
công nghiệp và kỷ luật lao động còn nhiều hạn chế; đa phần công nhân từ nông
dân, chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, một bộ phận công nhân chậm thích
nghi với cơ chế thị trường.
Đạo đức, lập trường chính trị và tu tưởng cách mạng: Không ít công
nhân còn chưa nhận thức đầy đủ để thể hiện bản chất và vị trí của mình. Một số
công nhân trẻ còn bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội, buông lỏng rèn luyện, sống
buông thả, phai nhạt lý tưởng, suy thoái về đạo đức, lối sống xa rời bản chất tốt
đẹp của giai cấp công nhân. Nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ ảnh hưởng
nghiêm trọngđến vai trò tiên phong của giai cấp công nhân nước ta trong điều
kiện hội nhập quốc tếhiện nay. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, tác động tiêu
cực của hội nhập kinh tế và internet gây ảnh hưởng không nhỏ đến Lập trường
giai cấp, bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách mạng của một bộ phận công nhân.
Thu nhập: Nhìn chung người công nhân vẫn phải chịu lương thấp, trong
khicác chế độ, chính sách không được bảo đảm, khối lượng công việc và tính chất
lao động nhiều và vất vả hơn, quan hệ giữa người lao động với người sử dụng lao
động theo mệnh lệnh và chấp hành, tính chất bóc lột sức lao động được thể hiện
rõ. Kết quả khảo sát vào cuối năm 2017 cho thấy: 51,3% người lao động có thu
nhập vừa đủ trang trải cuộc sống; 20,6% cho biết phải chi tiêu tằn tiện, kham khổ;
12,0% cho biết thu nhập không thể đủ sống và chỉ có 16,1% người lao động là có
thể có tích lũy từ thu nhập.
b) Hạn chế của Đảng ta
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Một trong những cách lãnh đạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý cán bộ,
đảng viên cần luôn tâm niệm là: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của
Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”(4). Tuy nhiên, trong
việc hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước vẫn còn có những bất cập so với yêu cầu này. Một số chủ trương, nghị quyết
của các cấp ủy do các cơ quan tham mưu đề xuất chưa thực sự được nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn kỹ lưỡng; chưa đánh giá, dự báo những tác động, ảnh hưởng
một cách đầy đủ, khoa học.
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Tiếp đến, Văn
kiện Đại hội XII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình
đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước”. Văn kiện Đại hội
XII của Đảng còn nhấn mạnh: “Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận
chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của công tác tư tưởng như
thiếu sắc bén, chưa thuyết phục... Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục
nhấn mạnh những hạn chế, bất cập này. lOMoAR cPSD| 61432759
Thứ ba, hạn chế, bất cập về cán bộ và công tác cán bộ, đảng viên của Đảng.
Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém;
nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp;... trình độ
ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn
nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận
không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó,
ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ
cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang
tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Không ít cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước
thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở trong cơ chế, chính
sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước,
gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình
trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy
bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội,... trong đó có cả cán bộ
cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.
2.3 Giải pháp và phương hướng
- Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. KẾT LUẬN
Qua việc phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng
ta có thể thấy tầm quan trọng không thể phủ nhận của giai cấp công nhân trong
việc xây dựng và phát triển xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khéo léo vận
dụng và phát huy lý thuyết Mác-Lênin trong việc giáo dục và vận động giai cấp
công nhân, đưa họ trở thành đội quân tiên phong trong công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, vẫn còn những thách thức cần vượt qua, bao gồm
việc cải thiện điều kiện làm việc và bảo đảm quyền lợi cho công nhân, nâng cao
chất lượng giáo dục và đào tạo nhằm tạo điều kiện cho họ tiếp tục phát huy sức
mạnh, tiếp tục thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Những cải tiến và phát triển
trong tương lai sẽ không ngừng khẳng định vai trò và tầm quan trọng của giai cấp
công nhân trong xã hội, như Mác-Lênin đã nhìn thấy. Chúng ta cũng cần tiếp tục
nghiên cứu và thảo luận về chủ đề này để nắm bắt đúng diễn biến của thời đại,
phục vụ tốt công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước.
Trong lần viết này bài tiểu luận của em chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết. Em
kính mong nhận được nhiều ý kiến phê bình của thầy giáo để em có thể hoàn
thiện tốt hơn trong những lần viết sau. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp
đỡ của thầy vì đã giúp em hoàn thành tốt bài tiểu luận này ạ Danh mục tham khảo
1.Cách mạng công nghiệp 4.0 - Cơ hội và thách thức của giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay - Tạp chí Cộng sản - Trần Thị Thanh Bình 2.
Vai trò, đặc điểm giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước – Tạp chí điện tử Lý luận Chính trị - TS Trần Thị Hương 3.
Thực Tiễn Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Ở Việt Nam Qua Gần 40 Năm Đổi Mới –
Học viên Chính trị khu vực II 4.
Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước | Tư liệu văn kiện Đảng (dangcongsan.vn) 5.
Thủ tướng: Cần nâng cao mức sống, cải thiện điều kiện làm việc cho công nhân -
Nhịp sống kinh tế Việt Nam & Thế giới (vneconomy.vn) 6.
Giai cấp công nhân tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội | Thời báo Tài chính
Việt Nam (thoibaotaichinhvietnam.vn) 7.
Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng
trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới – Tạp chí cộng sản 8.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn mới – Báo Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Lâm đồng 9.
Thực trạng tiền lương, thu nhập, đời sống của người lao động Việt Nam (laodongcongdoan.vn) 10.
Một số giải pháp xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Tạp chí Cộng sản Chú thích: GCCN: giai cấp công nhân CNH: Công nghiệp hoá HĐH: Hiện đại hoá