-
Thông tin
-
Quiz
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử vận dụng tư tưởng “lấy dân làm gốc” trong quá trình phát triển ở việt nam hiện nay | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Đây là một đề tài quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn của nhiều cuộc đấu tranh cách mạng trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là ..Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử vận dụng tư tưởng “lấy dân làm gốc” trong quá trình phát triển ở việt nam hiện nay | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Đây là một đề tài quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn của nhiều cuộc đấu tranh cách mạng trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là ..Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
TRƯỜNG ĐH SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
This Photo by Unknown Author is li
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA QUẦN
CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “LẤY
DÂN LÀM GỐC” TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
GVHD: TS. PHẠM THỊ LAN SVTH: 1. LÂM VĂN DỈ 23110191 2. NGUYỄN THÀNH TIN 23110340 3. PHAN ĐÌNH DUẨN 23110192 4. TRƯƠNG CÔNG BÌNH 23110184
5. NINH THỊ MỸ HẠNH -NC-ND 23110210 licensed under CC BY Author is This Photo by Unknown
Mã lớp học: LLCT130105_23_1_34
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2023
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KÌ I, NĂM HỌC 2023-2024 Nhóm số 3.2
Tên đề tài: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA
QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG
“LẤY DÂN LÀM GỐC” TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY STT HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH TỶ LỆ % HOÀN VIÊN THÀNH 1 Lâm Văn Dỉ 23110191 100% 2 Nguyễn Thành Tin 23110340 100% 3 Phan Đình Duẩn 23110192 100% 4 Trương Công Bình 23110184 100% 5 Ninh Thị Mỹ Hạnh 23110210 100%
_________________________________________________________________
Nhận xét của giảng viên
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
................................................................................................................................. Ngày tháng năm 2023
Điểm của giảng viên MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
2.Mục tiêu nghiên cứu.....................................................................................1
3. Phương pháp nghiên cứu............................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ VAI
TRÒ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ....................2
1.1 Quan hệ giữa cá nhân và xã hội...........................................................2
1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử..............4
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “LẤY DÂN LÀM GỐC”
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............9
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Lấy dân làm gốc”..................................9
2.2. Thực trạng về vấn đề vận dụng tư tưởng “Lấy dân làm gốc” trong
quá trình phát triển ở Việt Nam hiện nay...............................................12
2.3. Giải pháp để vận dụng tư tưởng “Lấy dân làm gốc”......................19
KẾT LUẬN........................................................................................................26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................27 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đây là một đề tài quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử đã
được kiểm nghiệm qua thực tiễn của nhiều cuộc đấu tranh cách mạng trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng là một quan điểm có giá trị to lớn, đã góp phần quan trọng vào thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc của nhân dân Việt Nam. Đề tài này còn phù hợp với yêu cầu thực tiễn của
công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu
rộng, việc phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong quá trình phát triển
đất nước là một yêu cầu tất yếu, nhằm huy động được mọi nguồn lực, sức mạnh
của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc. Đây là một đề tài có tính mới, cần được nghiên cứu và
phát triển thêm. Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
và tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu là khảo sát các chính sách và quan điểm của Đảng
và Nhà nước về tính quần chúng nhân dân và tư tưởng lấy dân làm gốc.
Nghiên cứu cũng sẽ đánh giá hiệu quả của việc thực hiện quan điểm này ở
Việt Nam từ xưa đến nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của chính sách quần chúng nhân dân. Mục tiêu của nghiên cứu là giúp mọi
người nhận thức được tầm quan trọng của quần chúng nhân dân và tinh thần
đoàn kết toàn dân, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội hiện nay của Việt Nam.
Kết quả của nghiên cứu sẽ giúp mỗi cá nhân tự giác hơn trong việc phát triển đất nước. 1
3. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu toàn bộ hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và áp dụng
nó một cách sáng tạo trong hoạt động nhận thức và thực tiễn để giải quyết các
vấn đề của đời sống xã hội, điều kiện tiên quyết là nắm vững những nội dung
cơ bản về nguyên lý sự phát triển của triết học Mác - Lênin. Bài tiểu luận sử
dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp với các
phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: lôgic lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh... NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ VAI TRÒ
CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN TRONG LỊCH SỬ
1.1. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Con người, xét về thực thể sinh học lẫn thực thể xã hội, vừa mang bản chất
loài lẫn tính đặc thù cá thể; vừa là một vũ trụ thu nhỏ, riêng biệt, độc đáo, lại
vừa mang đặc điểm chung, phổ biến của loài. Sự thống nhất giữa cái chung
và cái riêng trong con người khiến cho nó ở đỉnh cao của sự phát triển, trở
thành “trung tâm” của vũ trụ, “con người là hoa của đất”. Ở động vật, sự
thống nhất giữa cái chung của loài và cái riêng của cá thể, dù ở trình độ cao
thì cũng chỉ ở phương diện sinh vật. Trong khi đó, ở con người sự thống
nhất ấy không chỉ ở trình độ cao nhất về phương diện sinh vật mà cả ở
phương diện xã hội. Con người là một hệ thống chỉnh thể thống nhất cá thể
- loài, mang cả những thuộc tính cá thể, đơn nhất, lẫn những thuộc tính
chung, phổ biến của loài; bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã
hội; là đại diện cho loài, cho xã hội, cho nhân loại, cho lịch sử loài người.
Trong con người, do vậy, luôn có những cái chung toàn nhân loại, như các
giá trị chung, nhu cầu chung, lợi ích chung, v.v... Con người cũng là đại
biểu của một xã hội cụ thể, một thời kỳ lịch sử xác định, có tính đặc thù, với
các quan hệ xã hội xác định. Các quan hệ xã hội kết tinh trong mỗi con
người luôn là quan hệ xã hội cụ thể của một thời đại, một gia đình, một
nhóm xã hội, một cộng đồng, một tập đoàn, một giai cấp, một quốc gia - dân
tộc xác định. Trong mỗi người còn có cả những cái riêng, cái đơn nhất, đặc
thù của cá thể, cá nhân từ kinh nghiệm, tâm lý, trí tuệ, v.v... Do những điều
kiện sống, do đặc điểm sinh học quy định. Nhờ đó, mỗi con người là một cá
thể, cá nhân riêng biệt, khác biệt nhau. Cá nhân và xã hội không tách rời
nhau. Xã hội do các cá nhân cụ thể hợp thành, mỗi cá nhân là một phần tử
của xã hội sống và hoạt động trong xã hội đó. Khi mới sinh ra, chưa có ý 2
thức, chưa có các quan hệ xã hội thì con người mới chỉ là cá thể. Chỉ khi cá
thể đó giao tiếp xã hội, có những quan hệ xã hội xác định, có ý thức mới trở
thành cá nhân. Cá nhân không thể tách rời xã hội. Quan hệ cá nhân - xã hội
là tất yếu, là tiền đề, điều kiện tồn tại và phát triển của cả cá nhân lẫn xã hội.
Đương nhiên, quan hệ ấy phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào trình
độ phát triển xã hội và của từng cá nhân, đặc biệt là phụ thuộc vào bản chất
của xã hội. Quan hệ cá nhân - xã hội là khác nhau trong xã hội có phân chia
giai cấp và xã hội không phân chia giai cấp. Sự thống nhất và mâu thuẫn
giữa cá nhân và xã hội là một phạm trù lịch sử, phụ thuộc vào từng giai đoạn
lịch sử khác nhau. Sự thống nhất cá nhân và xã hội còn thể hiện ở một góc
độ khác trong quan hệ con người giai cấp và con người nhân loại. Quan hệ
con người giai cấp và con người nhân loại chỉ tồn tại trong xã hội có phân
chia giai cấp, do vậy nó có tính lịch sử. Mỗi con người cá nhân trong xã hội
có giai cấp đều mang tính giai cấp do nó luôn là thành viên của một giai cấp,
tầng lớp xã hội xác định. Trong các quan hệ xã hội mà con người sống và
hoạt động luôn có quan hệ giai cấp và các quan hệ đó luôn đóng vai trò
quyết định, chi phối các hành vi và hoạt động của nó, đặc biệt, quy định lợi
ích và hoạt động thực hiện các lợi ích ấy. Mặt khác, mỗi cá nhân, dù thuộc
về giai cấp nào cũng đều mang tính nhân loại. Nhân loại là cộng đồng người
phổ biến rộng rãi nhất, được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử nhân
loại. Tính nhân loại được thể hiện trong các giá trị chung toàn nhân loại,
trong những quy tắc, chuẩn mực chung xuất hiện trên nền tảng lợi ích
chung, từ bản chất người của các cá nhân tạo nên cộng đồng nhân loại. Tính
giai cấp và tính nhân loại trong mỗi con người vừa thống nhất vừa khác biệt,
thậm chí mâu thuẫn nhau. Tính nhân loại là vĩnh hằng, là nền tảng của cuộc
sống ở mọi con người, dù khác biệt màu da, quốc tịch, giai cấp, tộc người,
hay giới tính, độ tuổi, học 210 vấn, v.v... Chỉ khi nào không còn tồn tại nhân
loại thì khi đó tính nhân loại mới mất đi. Nhưng, ở mỗi giai đoạn lịch sử
khác nhau lại tồn tại các giai cấp khác nhau. Các giai cấp và quan hệ của
chúng biến đổi thường xuyên do các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội luôn
thay đổi. Con người với tư cách là những chủ thể xã hội luôn có những hoạt
động để cải biến điều kiện khách quan tạo nên những điều kiện sinh hoạt
thuận lợi hơn cho mình. Chính điều đó đã làm cho các điều kiện sinh sống
của con người luôn biến đổi, các lực lượng sản xuất luôn phát triển, xã hội
luôn thay đổi theo chiều hướng tiến bộ. Nhưng, trong các giai cấp đang đấu
tranh với nhau, có giai cấp đại diện cho sự phát triển tiến bộ, có giai cấp lại
là lực lượng cản trở sự phát triển tiến bộ ấy. Tính giai cấp trong những con
người đại biểu cho giai cấp đang cản trở sự phát triển ấy tất nhiên mâu thuẫn 3
với tính nhân loại. Mỗi con người đều sinh ra, lớn lên trong một cộng đồng
quốc gia, dân tộc xác định. Do những điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa, xã
hội và chính trị khác nhau nên trong mỗi cộng đồng quốc gia, dân tộc cũng
hình thành những giá trị, phẩm chất, đặc điểm đặc thù của mình. Con người
tất yếu mang trong mình những điểm đặc thù đó, dù họ muốn hay không, dù
ý thức được điều đó hay không. Do vậy, trong mỗi con người cá nhân luôn
luôn mang trong mình cả những cái riêng biệt với tư cách là cá nhân, vừa
mang trong mình cả những cái đặc thù của quốc gia, dân tộc, vừa mang cả
tính giai cấp lẫn tính nhân loại. Với tư cách là chủ thể hoạt động sự gắn kết,
tác động biện chứng lẫn nhau giữa các phương diện, khía cạnh đó trong mỗi
con người là luôn biến động, biện chứng, khách quan, tất yếu. Theo quan
điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, tính giai cấp và tính dân tộc
mang tính lịch sử sẽ mất dần theo sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Nhưng
tính nhân loại và cá nhân sẽ là vĩnh viễn. Trong khi lịch sử nhân loại chưa
đạt đến trình độ phát triển đó thì sự thống nhất giữa tính cá nhân, tính giai
cấp, tính dân tộc và tính nhân loại là mục tiêu, yêu cầu và tiêu chuẩn của
tiến bộ xã hội. Giải quyết đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh khách
quan mối quan hệ con người cá nhân, con người giai cấp, con người dân
tộc, con người nhân loại luôn là đòi hỏi của hoạt động thực tiễn. Các quan
điểm trên đây về con người có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng. Trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn phải luôn chú ý giải quyết đúng đắn mối
quan hệ xã hội - cá nhân, phải tránh khuynh hướng đề cao quá mức
(mặt/cái) cá nhân hoặc (mặt/cái) xã hội. Nếu đặt cá nhân lên trên xã hội, chỉ
thấy cá nhân mà không thấy xã hội, đem cá nhân đối lập với xã hội, hoặc
ngược lại, chỉ đề cao xã hội mà bỏ quên cá nhân, không nhận thức đúng sự
phát triển của xã hội là sự kết hợp hoạt động của các cá nhân, thì đều sai lầm
và có thể dẫn đến những hệ lụy khó lường cho cả xã hội lẫn cá nhân. Hơn
nữa, trong đời sống xã hội khi xem xét con người phải đặt trong tổng thể các
quan hệ xã hội, bởi trong tính hiện thực, bản chất của con người là tổng thể
các quan hệ xã hội. Điều này cũng gắn liền với nguyên tắc lịch sử - cụ thể và
nguyên tắc toàn diện. Sẽ là sai lầm nếu chỉ nhìn vào một mặt/khía
cạnh/phương diện của một con người để đánh giá bản chất của người đó.
Xem xét một con người phải đặt con người đó trong tổng thể các quan hệ của chính người đó.
1.2. Vai trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử
Đây là một trong những nội dung quan trọng của triết học Mác. Nội dung
này được triết học Mác luận giải một cách khoa học trên cơ sở quán triệt sâu 4
sắc chủ nghĩa duy vật biện chứng và toàn bộ các nội dung khác của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, là sự vận dụng nhất quán chủ nghĩa duy vật và
phương pháp biện chứng duy vật vào lý luận về vai trò của con người trong
tiến trình lịch sử. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, vấn đề này đã được đề
cập theo các lập trường tư tưởng khác nhau. Các tôn giáo đều cho rằng lịch
sử vận động của xã hội là do Thượng đế, Chúa trời sắp đặt, các cá nhân
buộc phải tuân thủ ý chí tối cao. Số phận con người, sự hoạt động của họ là
do các thần linh, Thượng đế, Đấng Tối cao quyết định. Các trào lưu duy tâm
cho rằng lịch sử xã hội là do các bậc vua chúa, các vĩ nhân, những người đặc
biệt có tài cao, sức lớn điều khiển, còn quần chúng nhân dân chỉ là những
đám đông ô hợp, chịu sự điều khiển của các bậc vua chúa, các vĩ nhân, của
những người đặc biệt đó. Họ chỉ là phương tiện, “con rối” trong tay của
những người này. Các nhà duy vật trước C. Mác thường phủ nhận vai trò
của Thượng đế, thần linh, Đấng Tối cao và khẳng định rằng sự biến đổi của
xã hội là do một nhân tố xã hội xác định nào đó quyết định, như đạo đức,
tình yêu thương, những người có đầu óc phê phán hoặc sớm nhận thức được
chân lý. Nhưng, do những nguyên nhân khác nhau, họ cũng đã rơi vào duy
tâm khi tuyệt đối hóa vai trò của các nhân tố đó. Theo quan điểm triết học
Mác - Lênin, xã hội biến đổi nhờ hoạt động của toàn thể quần chúng nhân
dân dưới sự lãnh đạo của các tổ chức hoặc cá nhân nhằm thực hiện một mục
đích nào đó. Mối quan hệ giữa vai trò của quần chúng nhân dân với cá nhân
chính là quan hệ giữa vai trò của nhân dân lao động với cá nhân lãnh tụ/vĩ
nhân. Một mặt, quan hệ này thể hiện một phần nội dung quan hệ giữa cá
nhân và xã hội. Mặt khác, lại chứa đựng những nội dung mới, khác biệt, bởi
trong quan hệ này chính là quan hệ với những cá nhân đặc biệt, cá nhân lãnh
tụ/vĩ nhân. Quần chúng nhân dân là thuật ngữ chỉ tập hợp đông đảo những
con người hoạt động trong một không gian và thời gian xác định, bao gồm
nhiều thành phần, tầng lớp xã hội và giai cấp đang hoạt động trong một xã
hội xác định. Đó có thể là toàn bộ quần chúng nhân dân của một quốc gia,
một khu vực lãnh thổ xác định. Họ có chung lợi ích cơ bản liên hiệp với
nhau, chịu sự lãnh đạo của một tổ chức, một đảng phái, cá nhân xác định để
thực hiện những mục tiêu kinh tế, chính trị, văn hóa hay xã hội xác định của
một thời kỳ lịch sử nhất định. Nội hàm của khái niệm quần chúng nhân dân
bao gồm: Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần là
lực lượng căn bản, chủ chốt; toàn thể dân cư đang chống lại những kẻ áp
bức, bóc lột thống trị và đối kháng với nhân dân; những người đang có các
hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần
vào sự biến đổi xã hội. Với nội dung đó quần chúng nhân dân là một phạm 5
trù lịch sử thay đổi tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể của các
quốc gia, khu vực. Cá nhân chính là con người cụ thể đang hoạt động trong
một xã hội xác định thể hiện tính đơn nhất với tư cách là cá thể về phương
diện sinh học, với tư cách là nhân cách về phương diện xã hội. Khác với
khái niệm con người dùng để chỉ tính phổ biến về bản chất người trong mỗi
cá nhân, khái niệm cá nhân nhấn mạnh tính đặc thù riêng biệt của mỗi cá thể
về phương diện xã hội. Cá nhân là một chỉnh thể vừa mang tính đơn nhất, cá
biệt, riêng biệt lại vừa có tính phổ biến, có đời sống riêng, có nguyện vọng,
nhu cầu và lợi ích riêng. Nhưng cá nhân cũng bao hàm tính chung, phổ biến,
chứa đựng các quan hệ xã hội và những nhận thức chung giúp cho việc thực
hiện các chức năng xã hội và cá nhân trong cuộc đời của họ và mang tính
chất lịch sử - cụ thể của đời sống của họ. Do đó, cá nhân bao giờ cũng mang
bản chất xã hội, yếu tố xã hội là đặc trưng căn bản để tạo nên cá nhân do cá
nhân luôn phải sống và hoạt động trong các nhóm khác nhau, các cộng đồng
và các tập đoàn xã hội có tính lịch sử. Trong số các cá nhân ở những thời kỳ
lịch sử nhất định, trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, xác định xuất
hiện những cá nhân kiệt xuất, trở thành những người lãnh đạo quần chúng
nhân dân nhằm thực hiện một mục tiêu xác định. Đó là những lãnh tụ hay vĩ
nhân. Ngoài các phẩm chất cá nhân lãnh tụ/vĩ nhân là những cá nhân kiệt
xuất, xuất hiện trong phong trào quần chúng nhân dân, nhận thức được một
cách đúng đắn, nhanh nhạy, kịp thời những yêu cầu, các quy luật, những vấn
đề căn bản nhất của một lĩnh vực hoạt động nhất định của đời sống xã hội
hoặc là kinh tế, hoặc là chính trị, hoặc là văn hóa, khoa học, nghệ thuật,
v.v... Họ dám quên mình vì lợi ích của quần chúng nhân dân, có năng lực
nhận thức và tổ chức hoạt động thực tiễn. Lãnh tụ còn là người có những
phẩm chất xã hội, như được quần chúng nhân dân tín nhiệm, gắn bó mật
thiết với nhân dân, có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất
nhận thức, ý chí và hành động của nhân dân, có năng lực tổ chức quần
chúng nhân dân thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà thời đại đặt ra. Các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã luận giải và luận chứng một
cách đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò của lãnh tụ và vai trò của quần
chúng nhân dân trong sự phát triển xã hội. Quần chúng nhân dân là chủ thể
sáng tạo chân chính, là động lực phát triển của lịch sử. Vai trò đó của quần
chúng nhân dân được thể hiện ở các nội dung sau đây: Yếu tố căn bản và
quyết định của lực lượng sản xuất là quần chúng nhân dân lao động. Đó là
yếu tố động lực nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất, làm cho
phương thức sản xuất vận động và phát triển, thúc đẩy xã hội phát triển. Đó
là lực lượng cơ bản của xã hội sản xuất ra toàn bộ của cải vật chất, là tiền đề 6
và cơ sở cho sự tồn tại, vận động và phát triển của mọi xã hội, trong mọi
thời kỳ lịch sử. Trong mọi cuộc cách mạng xã hội cũng như ở các giai đoạn
biến động của xã hội, quần chúng nhân dân luôn là lực lượng chủ yếu, cơ
bản và quyết định mọi thắng lợi của các cuộc cách mạng và những chuyển
biến của đời sống xã hội. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, bắt đầu từ sự phát triển của các
lực lượng sản xuất, đến một giai đoạn phát triển nhất định nó mâu thuẫn với
các quan hệ sản xuất, làm xuất hiện các cuộc cách mạng xã hội. Như vậy,
nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất
của quần chúng nhân dân. Họ thực sự là chủ thể, lực lượng căn bản và chủ
chốt, là động lực cơ bản của mọi quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
khoa học và công nghệ, và của mọi cuộc cách mạng xã hội. - Toàn bộ các
giá trị văn hóa, tinh thần và đời sống tinh thần nói chung đều do quần chúng
nhân dân sáng tạo ra. Những sáng tạo trực tiếp của quần chúng nhân dân
trong lĩnh vực này là điều kiện, tiền đề, là nguồn lực thúc đẩy sự phát triển
của văn hóa, tinh thần. Hoạt động phong phú, đa dạng của quần chúng nhân
dân trong thực tiễn là nguồn mạch cảm hứng vô tận, là chất liệu không bao
giờ cạn kiệt, là nguồn tài nguyên bất tận cho mọi sáng tạo tinh thần. Quần
chúng nhân dân cũng là người gạn lọc, lưu giữ, truyền bá và phổ biến các
giá trị tinh thần làm cho nó được bảo tồn vĩnh viễn. Tùy thuộc vào những
điều kiện lịch sử khác nhau mà vai trò của quần chúng nhân dân cũng được
thể hiện khác nhau. Xã hội càng công bằng, dân chủ, tự do, bình đẳng thì
càng phát huy được vai trò của cá nhân và của quần chúng nhân dân nói
chung. Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ đóng vai trò hết
sức to lớn, vô cùng quan trọng. Khi lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần phải
giải quyết thì từ trong quần chúng nhân dân sẽ xuất hiện những lãnh tụ để
giải quyết những nhiệm vụ đó của lịch sử. Mọi phong trào đều sẽ thất bại
nếu chưa tìm ra cho mình được những lãnh tụ xứng đáng. “Trong lịch sử,
chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào
tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu
tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào”. Lãnh tụ hay cá
nhân kiệt xuất phải nhận thức đúng đắn được các quy luật khách quan của
đời sống xã hội, hiểu biết sâu sắc các xu thế phát triển của quốc gia, dân tộc,
của thời đại và của phong trào; phải có kế hoạch, chương trình, biện pháp và
chiến lược hoạt động cho phong trào quần chúng nhân dân và cho bản thân
phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể; đồng thời lãnh tụ cũng
phải thuyết phục được quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động
của họ, tập hợp và tổ chức lực lượng để thực hiện thành công các kế hoạch, 7
chương trình, chiến lược và các mục tiêu đã được xác định. Hoạt động của
lãnh tụ có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của phong trào quần
chúng nhân dân, từ đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển xã hội.
Hoạt động của lãnh tụ sẽ thúc đẩy sự phát triển xã hội, nếu họ hành động
theo các quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, và ngược lại, sẽ kìm
hãm sự phát triển xã hội hoặc tạo nên những sự vận động quanh co, phức tạp
cho xã hội. Lãnh tụ cũng có vai trò to lớn đối với sự tồn tại, hoạt động của
các tổ chức quần chúng nhân dân mà họ là những người tổ chức hoặc sáng
lập và điều hành. Các lãnh tụ gắn với những thời đại lịch sử nhất định và
những phong trào cụ thể, do vậy, họ chỉ có thể hoàn thành được những
nhiệm vụ của thời đại và phong trào đó. Quan hệ giữa lãnh tụ với quần
chúng nhân dân là quan hệ thống nhất, biện chứng thể hiện trên các nội dung
sau đây: Mục đích và lợi ích của quần chúng nhân dân và lãnh tụ là thống
nhất. Đó là điểm then chốt và căn bản quyết định sự thành bại của phong
trào và sự xuất hiện của lãnh tụ. Lợi ích của họ có thể biểu hiện trên nhiều
khía cạnh khác nhau, nhưng lợi ích luôn là cầu nối, liên kết, là mắt xích
quyết định, là động lực để quần chúng nhân dân và lãnh tụ có thể kết thành
khối xã hội thống nhất về ý chí và hành động. Tuy nhiên, lợi ích của họ luôn
vận động, biến đổi không ngừng phụ thuộc vào địa vị lịch sử, bối cảnh
khách quan mà phong trào quần chúng nhân dân và lãnh tụ của họ đang tồn
tại, hoạt động trong đó, phụ thuộc vào năng lực nhận thức và vận dụng các
quy luật khách quan để thực hiện các lợi ích đó. Quần chúng nhân dân và
phong trào của họ tạo nên các lãnh tụ, những điều kiện, tiền đề khách quan
để các lãnh tụ xuất hiện và hoàn thành các nhiệm vụ mà lịch sử đặt ra cho
họ. Lãnh tụ là sản phẩm của thời đại, của cộng đồng, của phong trào. Sự
xuất hiện của họ và khả năng giải quyết được các nhiệm vụ của lịch sử
nhanh hoặc chậm, nhiều hoặc ít sẽ thúc đẩy sự vận động, phát triển của
phong trào quần chúng nhân dân. Trong mối quan hệ thống nhất biện chứng
giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vai
trò quyết định của quần chúng nhân dân, đồng thời đánh giá cao vai trò của
lãnh tụ. Quần chúng nhân dân là lực lượng đóng vai trò quyết định đối với
sự phát triển của lịch sử xã hội, là động lực của sự phát triển đó. Lãnh tụ là
người dẫn dắt, định hướng cho phong trào, thúc đẩy phong trào phát triển,
do đó thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội. Quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ có ý
nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Lãnh tụ có vai trò quan trọng,
nhưng không thể tuyệt đối hóa vai trò của họ dẫn đến tệ sùng bái cá nhân,
thần thánh hóa lãnh tụ, coi nhẹ quần chúng nhân dân, hạn chế việc phát huy 8
tính năng động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, phải chống lại tệ sùng
bái cá nhân. Ngược lại, việc tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân,
xem nhẹ vai trò của các cá nhân và lãnh tụ sẽ dẫn đến hạn chế, xem thường
các sáng kiến cá nhân, những sáng tạo của quần chúng nhân dân, không phát
huy được sức mạnh sáng tạo của họ. Quần chúng nhân dân luôn là người
thầy vĩ đại của các cá nhân, lãnh tụ. Kết hợp hài hòa, hợp lý, khoa học vai
trò của quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong từng điều kiện cụ thể xác định
sẽ tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phong trào và sự vận động, phát triển của
cộng đồng, xã hội nói chung.
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG “LẤY DÂN LÀM GỐC” TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Lấy dân làm gốc”
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý
giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta giành thắng lợi” [4; tr.88]. Bao trùm toàn bộ tư tưởng của Hồ
Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân với mong muốn là nước nhà được
độc lập, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc. Đó chính là những nội
dung quan trọng trong tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Tư tưởng “lấy dân làm
gốc” của Hồ Chí Minh xuất phát từ thực tiễn lịch sử của cách mạng Việt
Nam, cũng như các tư tưởng khác, nó không phải tự nhiên mà có, không
phải hình thành trong ngày một, ngày hai mà đó là một quá trình lâu dài tìm
tòi, xác lập và có sự kế thừa, phát triển, hoàn thiện các tư tưởng trước đó,
gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng phong phú của Người. Tư tưởng
đó cũng là sự kế thừa tư tưởng lấy dân làm gốc trong truyền thống lịch sử
của dân tộc, tiếp thu tư tưởng “Dĩ dân vi bản” của Nho giáo, tư tưởng Tam
dân của Tôn Trung Sơn, đặc biệt là tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử
cộng với quá trình hoạt động thực tiễn phong phú của Người đã góp phần
hình thành nên tư tưởng của Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc”.
*Chủ nghĩa Mác - Lênin tiền đề lý luận cơ bản:
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bản chất tư
tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với
chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là 9
cái cẩm nang thần kỳ, không những là kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi
sáng con đường chúng ta đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản” [10; tr.128].Theo Người “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều nhưng chủ chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là
chủ nghĩa Lênin” [2;tr.268]. Hồ Chí Minh đã kế thừa lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin về vai trò của quần chúng của nhân dân trong lịch sử. Theo chủ
nghĩa Mác - Lênin, quá trình vận động và phát triển của lịch sử diễn ra thông
qua hoạt động của đông đảo quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của một
cá nhân hay một tổ chức nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình. Căn
cứ vào điều kiện lịch sử và nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời đại mà quần chúng
nhân dân bao gồm những thành phần, tầng lớp và các giai cấp xã hội khác
nhau. Như vậy, quần chúng nhân dân là một bộ phận có chung lợi ích căn
bản, bao gồm những thành phần, những tần lớp và những giai cấp, liên kết
lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức, đảng phái nhằm
giải quyết những vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội của một thời đại nhất
định. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin khái niệm quần chúng được xác định bởi
các nội dung: Một là, những người tiến hành sản xuất ra của cải vật chất và
các giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân
dân. Hai là, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức,
bóclột, đối kháng với nhân dân. Ba là, những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc
đảy sự tiến bộ xã hội. Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, quần chúng nhân dân là
một phạm trù lịch sử, vận động biến đổi theo sự phát triển của lịch sử. Khi
nói về vai trò của quần chúng nhân dân, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng
định: Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì,
mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người chỉ được chứng minh
thông sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng nhân dân. Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử; giai cấp vô
sản muốn thực hiện được vai trò lãnh đạo của một cá nhân hay một tổ chức
nhằm thực hiện mục đích và lợi ích của mình. Căn cứ vào điều kiện lịch sử
và nhiệm vụ đặt ra của mỗi thời đại mà quần chúng nhân dân bao gồm
những thành phần, tầng lớp và các giai cấp xã hội khác nhau. Như vậy, quần
chúng nhân dân là một bộ phận có chung lợi ích căn bản, bao gồm những
thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới
sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức, đảng phái nhằm giải quyết những vấn
đề kinh tế - kinh tế - chính trị - xã hội của một thời đại nhất định. Hồ Chí
Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là vì học thuyết này đã chỉ ra cho các
dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. V.I. Lênin cho rằng, sự liên minh
giai cấp, trước hết là liên minh công - nông là hết sức cần thiết đảm bảo cho 10
sự thắng lợi của cách mạng vô sản, rằng nếu không có sự đồng tình và ủng
hộ của đa số người dân lao động đối với đội ngũ tiên phong của nó, tức giai
cấp vô sản thì cách mạng không thể thực hiện được. Chủ nghĩa Mác Lênin
không những đã chỉ ra vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử mà còn
chỉ ra vị trí của khối liên minh công - nông trong cách mạng vô sản thì cách
mạng không thể thực hiện được. Chủ nghĩa Mác - Lênin không những đã chỉ
ra vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí của khối
liên minh công nông trong cách mạng vô sản. Đó là những quan điểm lý
luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học trong sự đánh giá
chính xác các yếu tố tích cực cũng như hạn chế trong các di sản truyền
thống. Nó có vai trò quyết định đối với sự phát triển và hoàn thiện tư tưởng
Hồ Chí Minh về “lấy dân làm gốc”, giúp cho Người nhận thức được rằng:
“cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chư không phải là việc của một hai
người” và vận dụng quan điểm đó vào sự nghiệp cách mạng của nước ta.
* Nội dung quan điểm “lấy dân làm gốc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Quan niệm của Hồ Chí Minh về “Dân”:
“Nhân dân” vượt qua các quan niệm về “dân” trong khuôn khổ truyền thống,
Hồ Chí Minh đã có những quan niệm về “dân”, “nhân dân” hết sức mới mẻ
và sáng tạo. Trong tư tưởng của Người không có con người, nhân dân hàm ý
mà bao giờ Người cũng nói đến con người, nhân dân với tính lịch sử cụ thể.
Tùy theo từng thời điểm, gắn liền với từng thời kỳ cách mạng và quan niệm
về “dân”, “nhân dân” có nội dung khác nhau và được xem xét trong mối
quan hệ nhiều chiều. Nhân dân trước hết là một cộng đồng người, mỗi cá
nhân là thành viên ở trong cộng đồng đó. Cá nhân sẽ không tồn tại được nếu
không sống trong cộng đồng, hoạt động vì lợi ích chung của cộng đồng.
Người thường sử dụng cụm từ “con Lạc, cháu Hồng” để chỉ về người dân
Việt Nam.Trong những 20 năm, khái niệm “dân”, “nhân dân” của Hồ Chí
Minh hàm chứa trong đó có “người dân bản xứ”, “người bản xứ bị áp bức”
[12;tr.38], “người da vàng”, “người da đen”, “người lao động bản xứ”,
“người bị bóc lột”…để nói về dân của các quốc gia đã bị mất độc lập, tự do.
Đó là những người dân bị mất nước, bị nô dịch, không có quyền pháp lý
cùng khổ”… để chỉ những người bị bóc lột ngay trên đất nước mình, họ là
những người bị mất tự do, không có việc làm, đói nghèo, bị hành hạ, đầu
độc cho dốt nát, họ không chỉ là một nhóm người, một tầng lớp nào của xã
hội mà cả cộng đồng các dân tộc thuộc địa bị bọn thực dân coi là các dân tộc
ngu dốt cần được “khai hóa văn minh” nhưng thực ra là “làm cho dân ngu để
dễ trị” [12; tr. 99].Hồ Chí Minh đã khắc họa thân phận của người dân mất 11
nước, họ bao gồm cả những nhân vật thuộc tầng lớp trên như các tri thức
phong kiến, đại thần từng là lãnh tụ phong kiến như: Vua Hàm Nghi, vua
Thành Thái, vua Duy Tân… Đồng thời xem xét người dân với lực lượng đối
lập là kẻ thống trị, những tên thực dân. Sau cách mạng tháng Tám 1945, khái
niệm “nhân dân” của Hồ Chí Minh lại có những bước phát triển hơn, Người
thường sử dụng từ “đồng bào”, “dân tộc”, “quốc dân”, “quần chúng nhân
dân” để nói về khái niệm nhân dân. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp quốc Mỹ và tay sai cùng với công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc, khái niệm “nhân dân” của Hồ Chí Minh lại được bổ sung thêm và
phong phú hơn như: “Đồng bào”, “lao động trí óc”, “lao động chân tay”,
“công nhân, nông dân tập thể”. Ngoài ra, Người còn sử dụng các cụm từ:
“Người chủ tập thể”, “chủ nhân của xã hội” … để chỉ khái niệm nhân dân,
đưa nhân dân đến vị chủ nhân thực sự của nước nhà, “dân là chủ”. Với lòng
yêu thương nhân dân vô bờ bến, Hồ Chí Minh tiếp cận khái niệm Dân, Nhân
dân với lòng kính trọng, yêu thương, mang đậm nét nhân văn dưới ánh sáng
của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân dân, là
quần chúng nhân dân, là quần chúng lao động, là tất cả “bọn trừ gian bán
nước, bọn phát xít, thực dân là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ,
còn đối với rất cả những người khác ta phải kiên quyết yêu quý, kính trọng,
giúp đỡ” [4; tr.151]. Chữ “Dân” mà Người nói là “Dân ta”,“dân là chủ”,
“dân làm chủ”, là toàn dân Việt Nam không phân biệt trai gái, giàu nghèo,
tôn giáo, dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, chỉ trừ bọn tay sai cho đế
quốc, thực dân, bọn phản bội lợi ích của Tổ quốc, đi ngược với con đường
độc lập dân tộc và chủ ngĩa xã hội.Về mối quan hệ dân - nước, Hồ Chí Minh
đã có quan niệm hết sức tiến bộ, vượt qua các tư tưởng về Dân đã có trong
truyền thống. Đó không phải là “con dân”, “thần dân”, “dân đen”, cũng
không phải là “kẻ tiểu nhân” cũng không phải là “dân bản” mà là “dân” với
đầy đủ quyền và nghĩa vụ của nó, có dân quyền, nhân quyền tức dân là chủ,
dân chủ. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đặt nhân dân ở vị trí tối thượng “Trong
bầu trời không có gì quý bằng nhân dân” [18; tr.276]. Trong quan hệ chính
trị, xã hội, Người xác định “địa vị cao nhất là dân” [6; tr.515], “Mọi quyền
hành và lực lượng đều có ở nơi dân” [15; tr.689]. Trên cơ sở kế thừa những
quan điểm tiến bộ trong truyền thống dân tộc Việt Nam, những tinh hoa văn hóa của nhân loại.
2.2. Thực trạng về vấn đề vận dụng tư tưởng “Lấy dân làm gốc” trong quá
trình phát triển ở Việt Nam hiện nay *Thành tựu: 12
Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta được hun đúc qua
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Từ rất sớm, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc xây dựng,
củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn
giáo tập hợp đoàn kết trong Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, tạo nên
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc thắng lợi trong lịch sử trong Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và các cuộc kháng chiến cứu nước xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân đang tiếp
tục phát huy cao độ hơn khi vận dụng tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, đã trở thành động lực trong công cuộc đổi mới công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến
lược, là bài học lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Uỷ ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Huỳnh Đàm khẳng định: đại đoàn kết dân tộc
trong mặt trận thống nhất là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách
mạng của Đảng cộng sảng Việt Nam, là truyền thống quý báu trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, “Đại đoàn kết” là truyền thống ngàn năm của dân tộc ta, là đường lối
xuyên suốt của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực, vĩ đại
của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Nhân dân đã thực sự được làm chủ và được tạo điều kiện để phát huy quyền
làm chủ của mình. Trải qua 29 năm tiến hành công cuộc đổi mới với những
thành công mà Đảng và Nhà nước đã đạt được trong đó không thể không kể
đến đó là đã phát huy được quyền làm chủ của nhân dân. Điều nay được thể
hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng và Chính phủ về các đường lối, chủ
trương, chính sách đã đưa ra cho nhân dân. Nhân dân đã được thực hiện
quyền làm chủ của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống như kinh tế,
văn hóa, xã hội, chính trị an ninh quốc phòng. Thứ nhất, trên lĩnh vực kinh tế
Nhân dân được tự do phát triển kinh tế dưới sự quản lý của Nhà nước. Đảng
và Nhà nước đã quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ để người dân có thể có điều
kiện phát triển kinh tế như tạo điều kiện cho người dân vay vốn ngân hàng
với lãi suất thấp để người dân an tâm đầu tư vốn làm ăn trong các ngành
nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, từ đó đã giúp kinh tế gia đình
được ổn định giúp nền kinh tế nước nhà ngày càng đi lên.Thứ hai, về chính
trị - xã hội Nhân dân đã được thực sự phát huy quyền làm chủ của mình
thông qua các kỳ Đại hội, người dân được tham gia ứng cử bản thân vào bộ
máy của Nhà nước hay đề cử người mình tin tưởng để đứng lên nắm giữ các
trọng trách trong xã hội. Mọi công dân trong xã hội khi đủ 18 tuổi trở lên là 13
có thể tham gia bầu cử trong các các kỳ Đại hội để chọn ra những người
thực sự có tài vào cơ quan bộ máy của Nhà nước. Không những thế, nhân
dân còn có quyền đóng góp ý kiến của mình hay có quyền được khiếu nại,
bãi miễn các quan chức nhà nước không làm tròn nhiệm vụ khi người dân giao phó trọng trách.
Đảng và Nhà nước đã nhận và phát huy vai trò to lớn của nhân dân
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân
dân như Nguyễn Trãi đã nói: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là
dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”. Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, và
quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò
sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.Trong thành quả chung của đất
nước và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc có sự đóng góp to lớn của
các giai cấp, các tầng lớp nhân dân. Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng
phát triển với 11 triệu người, chiếm hơn 25,8% lực lượng lao động xã hội, có
mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, giữ vai trò nòng cốt tiếp thu và làm
chủ khoa học, công nghệ tiên tiến, góp phần quan trọng vào việc hình thành
các ngành công nghiệp hiện đại và sự tăng trưởng của nền kinh tế. Giai cấp
nông dân Việt Nam với gần 20 triệu người, chiếm hơn 47% lực lượng lao
động xã hội, có truyền thống cần cù, sáng tạo, vượt khó; tích cực ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần, góp phần xây dựng nông thôn mới. Trong lúc
kinh tế khó khăn, nông dân, nông nghiệp đã góp phần quan trọng ổn định
đời sống xã hội, hỗ trợ đắc lực cho công nghiệp, dịch vụ phát triển. Đội ngũ
trí thức những năm qua phát triển nhanh, với 4,9 triệu người, chiếm hơn
11,5% lực lượng lao động xã hội, đi đầu trong các hoạt động khoa học và
công nghệ, văn hóa, xã hội, giáo dục và đào tạo, phát triển kinh tế tri thức,
tạo ra nhiều công trình, sản phẩm khoa học có giá trị cao, góp phần đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đội ngũ công
chức, viên chức cả nước có hơn 2,4 triệu người, chiếm 5,6% lực lượng lao
động xã hội, đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục khó khăn, phấn
đấu hoàn thành nhiệm vụ, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực
và hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng nhu cầu chăm sóc y tế, giáo dục đào
tạo và văn hóa của nhân dân.Thanh niên Việt Nam với hơn 26 triệu người,
chiếm 29% dân số cả nước, là lực lượng đông đảo, có tiềm năng to lớn, đã
phát huy vai trò năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, tiếp cận nhanh với
những tri thức của thời đại, có ý thức phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, đóng góp tích cực vào sự 14
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phụ nữ Việt Nam với hơn 45 triệu
người, chiếm hơn 50% dân số và lao động nữ chiếm hơn 47% lực lượng lao
động xã hội, đã phát huy truyền thống “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang”, đề cao tự trọng, tự tin, nỗ lực trong học tập, lao động, khắc phục khó
khăn, xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Phụ nữ luôn
quan tâm tới bình đẳng giới, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, giải quyết việc làm và
nâng cao thu nhập. Cựu chiến binh Việt Nam với hơn 2,7 triệu hội viên, tiếp
tục phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, nêu cao tinh thần đoàn kết, tích
cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, giữ gìn an ninh trật tự, giúp nhau
làm kinh tế, cải thiện đời sống, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền trong sạch, vững mạnh; cùng với cựu thanh niên xung phong luôn nêu
gương sáng cho thế hệ trẻ. Các lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục phát huy
truyền thống trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với Đảng và chế độ, là lực
lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ vững thế trận an
ninh nhân dân, sẵn sàngchiến đấu hy sinh bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc
gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam có
khoảng 2 triệu người, hoạt động trong hơn 346.000 doanh nghiệp, giữ vai trò
nòng cốt trong phát triển kinh tế, tạo việc làm, góp phần xóa đói giảm
nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế. Người cao tuổi Việt Nam với hơn 12 triệu người, chiếm
hơn 13% dân số cả nước, có vị trí, vai trò quan trọng trong gia đình và xã
hội, luôn nêu cao tinh thần “tuổi cao - gương sáng”, làm trụ cột về đời sống
tinh thần, giáo dục, động viên con cháu hăng hái lao động, học tập, chấp
hành pháp luật, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng nếp sống
văn minh. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hơn 13 triệu người, chiếm
khoảng 14,4% dân số cả nước, ngày càng có nhiều đóng góp trong sự nghiệp
phát triển kinh tế, giữ gìn, phát huy bản sắc và sự đa dạng văn hóa của các
dân tộc, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Đồng bào tín đồ các tôn giáo khoảng
24 triệu người, chiếm gần 27% dân số cả nước, tiếp tục phát huy truyền
thống gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, “sống tốt đời đẹp đạo”, tham gia các
phong trào thi đua yêu nước, nỗ lực trong sản xuất, kinh doanh, hoạt động
nhân đạo, từ thiện, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các
tôn giáo, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước. Trước những nhu
cầu phong phú và lợi ích thiết thực của các tầng lớp nhân dân, nhiều tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, hội quần chúng đã hình thành và phát
triển đa đạng, có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt
trận Tổ quốc cùng Nhà nước và xã hội từng bước tạo điều kiện phát huy, đáp
ứng những nguyện vọng chính đáng, tăng cường đồng thuận xã hội, thu hẹp 15
những diễn biến phân tâm, cùng nhau đoàn kết, khắc phục khó khăn, ổn định và phát triển.
Công tác dân vận phát huy hiệu quả ngày càng cao
Công tác dân vận có vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ đến việc xây
dựng, củng cố và nâng cao vị trí của tổ chức cơ sở Đảng nói riêng, và là
nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách
mạng và sự tồn vong của Đảng ta nói chung. Bởi, suy cho cùng, công tác
dân vận thực chất là tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, thực
hiện đại đoàn kết dân tộc. Ở các địa phương, hội đồng nhân dân, ủy ban
nhân dân các cấp đã ban hành nhiều văn bản để tổ chức triển khai thực hiệc
các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo cải thiện đời
sống của nhân dân; mở rộng dân chủ trong nhân dân; đẩy mạnh cải cách
hành chính, giảm bớt các thủ tục phiền hà với nhân dân, xây dựng quy chế
tiếp dân; giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân và chấn chỉnh phong
cách làm việc của cán bộ, công chức; tôn trọng, dân chủ, công khai, minh
bạch với nhân dân, hạn chế và ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực, tham
nhũng, thờ ơ, vô trách nhiệm với nhân dân của cán bộ, công chức. Các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận đã được các cấp ủy, tổ chức
Đảng ở Trung ương và các địa phương chỉ đạo tổ chức học tập, quán triệt và
thực hiện. Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng chính phủ, Đảng đoàn Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các bộ,
ngành ở Trung ương và cấp ủy, chính quyền địa phương đã chủ động thực
hiện các nghị quyết, chủ trương đó; có kế hoạch và hướng dẫn chỉ đạo học
tập, quán triệt tới cán bộ, đảng viên và nhân dân, gắn với việc tổ chức thực
hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đơn vị. Các
cơ quan chức năng ở Trung ương và cấp ủy, chính quyền các cấp đã tăng
cường công tác kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chủ
trương, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận. Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức đoàn thể ở Trung ương hàng năm đã tổ chức nhiều đoàn kiểm tra, giám
sát, đôn đốc việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng trên các
lĩnh vữ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,... liên quan
đến đời sống của nhân dân; qua đó, báo cáo với Bộ Chính trị, Ban bí thư,
Quốc hội, Chính phủ về những ưu điểm, hạn chế trong việc tổ chức thực
hiện các chủ trương, nghị quyết đó. Các địa phương đã tổ chức các đoàn
kiểm traliên ngành do ban thường vụ tỉnh ủy, thành ủy chủ trì, giám sát việc
quán triệt, triển khai việc thực hiện các nghị quyết và các chương trình phát
triển kinh tế - xã hội trọng điểm ở địa phương; đôn đốc các cấp thực hiện và 16
vận động nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Đảng luôn
chăm lo bố trí cán bộ, bảo đảm các điều kiện hoạt động cho Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Đã có nhiều hình thức hoạt động nhằm mở rộng dân chủ, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, tham gia giám sát, phản biện, xây dựng Đảng, chính
quyền; góp phần bảo đảm quốc phòng - an ninh; tham gia hòa giải, giải
quyết mâu thuẫn trong xã hội, trong nội bộ nhân dân, góp phần ổn định
chính trị ở cơ sở. Các hình thức hoạt động, như “Ngày hội đại đoàn kết toàn
dân”; giám sát cộng đồng, thăm dò tín nhiệm cán bộ chủ chốt ở cơ sở…; đã
thực sự có hiệu quả và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng tăng
cường lãnh đạo lực lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận. Các nghị
quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác
quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận an ninh nhân dân đều thể hiện rõ
quan điểm, đường lối, chủ trương cuả Đảng về công tác dân vận. Quân ủy
Trung ương và Đảng ủy công an Trung ương đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị
để lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân, các đơn vị, mọi cán bộ, sĩ quan, chiếnsĩ luôn
coi trọng và thường xuyên làm tốt công tác dân vận. Các đơn vị quân đội,
công an, bộ đội biên phòng đã phối hợp tốt với cấp ủy, chính quyền địa
phương phát động, tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào
làm tốt công tác quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; đi sâu cơ sở (“ba
cùng” với dân), giúp nhân dân phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa,
cảnh giác, đấu tranh với âm mưu thâm độc của kẻ thù, đấu tranh
phòng ,chống tội phạm, các tệ nạn xã hội; tham gia xây dựng các tổ chức
trong hệt hống chính trị ở cơ sở vững mạnh, xây dựng thế trận lòng dân, an
ninh nhân dân; là lực lượng nòng cốt trong phòng, chống và giải quyết các
hậu quả của thiên tai, bão lụt, nhất là ở các vùng có nhiều đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng sâu, vùng biên giới, hải đảo. Sự lãnh đạo của các cấp ủy, tổ
chức đảng đối với tổ chức hội quần chúng được tăng cường; cùng với đó,
công tác quản lý nhà nước, hệ thống văn bản pháp luật về hội tiếp tục được
hoàn thiện. Các hội quần chúng phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về
hình thức tổ chức, hoạt động, từng bước gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội của địa phương, của đất nước; góp phần tích cực vào việc xây dựng,
củng cố, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, Đảng luôn quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo tranh thủ các nguồn vốn viện trợ, sự ủng hộ, giúp đỡ của các tổ 17