Quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về việc giải quyết các vấn đề tôn giáo, qua đó làm rõ chính sách của đảng ta về vấn đề tôn giáo | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Tôn giáo là một phần của đời sống con người bởi nó là một hiện tượng tinh thần của xã hội. Nó là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử xác định. Khi cuộc sống có quá nhiều khó khăn, con người cần có một điểm tựa để dựa vào và vực dậy trước những khó khăn đó. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KĨ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TRIẾT LUẬN MÔN HỌC
TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Đề tài: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO, QUA ĐÓ LÀM
RÕ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO GVHD: MÃ MÔN HỌC: THỰC HIỆN:
Sinh viên thực hiện:
TP. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2022
DANH SÁCH NHÓM THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2022-2023
NHÓM SỐ: 9 (Lớp thứ 7 tiết 7-10)
Tên đề tài: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –LÊNIN VỀ VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO, QUA ĐÓ LÀM RÕ CHÍNH SÁCH CỦA
ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO STT
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MÃ SỐ SINH VIÊN TỶ LỆ HOÀN THÀNH 01 Bùi Lê Na 22128044 100% 02 Lương Quỳnh Như 22128059 100% 03 Trần Thị Như Quỳnh 22128065 100%
Nhận xét của Giáo viên
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
Ngày...........tháng.........năm 2022 Giáo viên chấm điểm LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến trường Đại học
Sư Phạm Kỹ thuật TP.HCM đã đưa môn học Triết học Mác-Lênin vào chương
trình giảng dạy. Chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Đoàn
Đức Hiếu đã có những bài giảng hay, kiến thức bổ ích và những kỹ năng để làm hành trang cho tương lai.
Môn học Triết học Mác-Lênin là một môn học cực kỳ thú vị và gắn liền
với cuộc sống thường ngày. Sau khi kết thúc môn học này chúng em tin rằng
bản thân có thể nắm vững những kiến thức này và áp dụng chúng vào cuộc sống
thực tiễn. Tuy vậy, dù rằng đã có những cố gắng và nổ lực hết sức mình nhưng
chúng em vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót trong bài tiểu luận này.
Mong thầy sẽ có những góp ý để bài tiểu luận của chúng em sẽ được hoàn thành
một cách chỉn chu nhất. Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy. MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.............................................................................1
3. Nội dung nghiên cứu.............................................................................2
4. Kết quả nghiên cứu...............................................................................2 B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO.......................................3
1. Lịch sử hình thành thuật ngữ “Tôn giáo” và khái niệm “Tôn giáo”3
2. Bản chất, nguồn gốc, tính chất, chức năng của tôn giáo và các hình
thức tôn giáo trong lịch sử............................................................................4
3. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.............8
4. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo.....................................................................................10
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN........................11
1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam..............................................................11
2. Những chính sách cụ thể đối với tôn giáo ở Việt Nam.......................16
C. KẾT LUẬN...............................................................................................21
D. TÀI LIỆU KHAM KHẢO.......................................................................22 A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một phần của đời sống con người bởi nó là một hiện tượng tinh
thần của xã hội. Nó là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại
xã hội trong những giai đoạn lịch sử xác định. Khi cuộc sống có quá nhiều khó
khăn, con người cần có một điểm tựa để dựa vào và vực dậy trước những khó
khăn đó. Tôn giáo ra đời để nâng đỡ tâm hồn con người, đưa con người thoát ra
những vực thẳm của thực tại xã hội. Có nhiều tôn giáo khác nhau cùng tồn tại,
song về bản chất, những tôn giáo ra đời đều để hướng tới những mục tiêu sống ý
nghĩa và có giá trị tốt đẹp. Ở nước ta, chủ nghĩa cộng sản không phủ nhận đi tôn
giáo mà dung hòa tôn giáo trong đời sống, chính trị, xã hội. Tuy vậy, vẫn có một
số những vấn đề cần giải quyết trong trong những chính sách của nước ta về tôn
giáo. Chính vì thế, nhóm em quyết định chọn đề tài “QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC –LÊ NIN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TÔN
GIÁO, QUA ĐÓ LÀM RÕ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ
TÔN GIÁO” để nghiên cứu và thực hiện tiểu luận này để mỗi thành viên trong
nhóm sẽ có thêm những kiến thức về vấn đề tôn giáo và các chính sách của
Đảng ta về vấn đề này.
2. Mục tiêu nghiên cứu a) Mục tiêu chung
Dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mac –Lenin để vận dụng nó vào
các chính sách về tôn giáo của Đảng và nhà nước ta. b) Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở quan điểm liên quan đến những nguyên nhân ảnh
hưởng đến những vấn đề còn tồn tại về tôn giáo ở nước ta hiện nay. 1
- Xác định và phân tích những quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lê nin về vấn đề tôn giáo
- Tìm hiểu những chính sách về tôn giáo của Đảng và nhà nước ta.
3. Nội dung nghiên cứu
Nhóm chúng em nghiên cứu về đề tài “QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC –LÊNIN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO, QUA
ĐÓ LÀM RÕ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO”
Nội dung nghiên cứu gồm 2 chương và phần kết luận trình bày quan điểm của nhóm.
Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VIỆC GIẢI
QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
Chương 2: CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO THEO
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
4. Kết quả nghiên cứu
Hiểu được bản chất và nguồn gốc cũng như các vấn đề liên quan đến tôn
giáo. Nắm được những kiến thức về các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về việc giải quyết vấn đề tôn giáo qua đó vận dụng các quan điểm này để hiểu
hơn về các Chính sách của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. 2 B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊ NIN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
1. Lịch sử hình thành thuật ngữ “Tôn giáo” và khái niệm “Tôn giáo”
- “Tôn giáo” là một thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước
ngoài vào từ cuối thế kỷ XIX. Xét về nội dung, thuật ngữ Tôn giáo khó có thể
hàm chứa được tất cả nội dung đầy đủ của nó từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây.
- Thuật ngữ “Tôn giáo” vốn có nguồn gốc từ phương Tây và bản thân nó
cũng có một quá trình biến đổi nội dung và khi khái niệm này trở thành phổ
quát trên toàn thế giới thì lại vấp phải những khái niệm truyền thống không
tương ứng của những cư dân thuộc các nền văn minh khác, vì vậy trên thực tế
đã xuất hiện rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về tôn giáo của nhiều
dân tộc và nhiều tác giả trên thế giới.
- “Tôn giáo” bắt nguồn từ thuật ngữ “religion” (Tiếng Anh) và“religion”
lại xuất phát từ thuật ngữ “legere” (Tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm
sức mạnh siêu nhiên. Vào đầu công nguyên, sau khi đạo Kitô xuất hiện, đế chế
Roma yêu cầu phải có một tôn giáo chung và muốn xóa bỏ các tôn giáo trước
đó cho nên lúc này khái niệm “religion” chỉ mới là riêng của đạo Kitô. Bởi lẽ,
đương thời những đạo khác Kitô đều bị coi là tà đạo. Đến thế kỷ XVI, với sự
ra đời của đạo Tin Lành - tách ra từ Công giáo – trên diễn đàn khoa học và
thần học châu Âu, “religion” mới trở thành một thuật ngữ chỉ hai tôn giáo thờ
cùng một chúa. Với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản ra khỏi phạm vi châu
Âu, với sự tiếp xúc với các tôn giáo thuộc các nền văn minh khác Kitô giáo,
biểu hiện rất đa dạng, thuật ngữ “religion” được dùng nhằm chỉ các hình thức
tôn giáo khác nhau trên thế giới. 3
- Thuật ngữ “religion” được dịch thành “Tông giáo” đầu tiên xuất hiện ở
Nhật Bản vào đầu thế kỷ XVIII vào sau đó du nhập vào Trung Hoa. Tuy nhiên,
ở Trung Hoa, vào thế kỷ XIII, thuật ngữ Tông giáo lại bao hàm một ý nghĩa
hoàn toàn khác: nó nhằm chỉ đạo Phật (Giáo: đó là lời thuyết giảng của Đức
Phật, Tông: lời của các đệ tử Đức Phật).
- Thuật ngữ Tông giáo được du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX
và được đăng trên các báo, nhưng do kỵ húy của vua Thiệu Trị nên được gọi là “Tôn giáo”.
Như vậy, thuật ngữ tôn giáo ban đầu được sử dụng ở châu Âu nhằm chỉ
một tôn giáo sau đó thuật ngữ này lại làm nhiệm vụ chỉ những tôn giáo.
2. Bản chất, nguồn gốc, tính chất, chức năng của tôn giáo và các
hình thức tôn giáo trong lịch sử
2.1. Bản chất của tôn giáo
- Tôn giáo là một hiện tượng xã hội - văn hoá do con người sáng tạo ra.
Tôn giáo hay thánh thần không sáng tạo ra con người mà chính con người đã
sáng tạo ra tôn giáo vì mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ,
nguyện vọng, suy nghĩ của họ. Nhưng, sau khi sáng tạo ra tôn giáo, con người
lại bị lệ thuộc vào tôn giáo, tuyệt đối hoá và phục tùng tôn giáo vô điều kiện.
C.Mác: “Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con người chưa tìm
được bản thân mình hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa.”
- Về phương diện thế giới quan, nói chung, các tôn giáo mang thế giới
quan duy tâm, có sự khác biệt với thế giới quan duy vật biện chứng, khoa học
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mac-Lênin và tôn giáo khác nhau về thế
giới quan, về cách nhìn nhận thế giới và con người. Trong thực tiễn, hững
người cộng sản có lập trường mác xít luôn tôn trọng quyền tự do tí ngưỡng,
theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân, không bao giờ có thái độ xem
thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. 4
2.2. Nguồn gốc của tôn giáo
- Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội
Trong xã hội công xã nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất chưa phát triển,
trước thiên nhiên hùng vĩ tác động và chi phối khiến cho con người cảm thấy
yếu đuối và bất lực, không giải thích được, nên con người đã gán cho tự nhiên
những sức mạnh, quyền lực thần bí. Khi xã hội xuất hiện các giai cấp đối
kháng, có áp bức bất công, do không giải thích được nguồn gốc của sự phân
hoá giai cấp và áp bức bóc lột bất công, tội ác v.v..., cộng với lo sợ trước sự
thống trị của các lực lượng xã hội, con người trông chờ vào sự giải phóng của
một lực lượng siêu nhiên ngoài trần thế. - Nguồn gốc nhận thức
Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người về tự nhiên,
xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Khi mà khoảng cách giữa “biết”
và “chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà khoa học chưa giải thích được,
thì điều đó thường được giải thích thông qua lăng kính các tôn giáo. Ngay cả
những vấn đề đã được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí thấp,
chưa thể nhận thức đầy đủ, thì đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho tôn giáo ra
đời, tồn tại và phát triển. Thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo chính là
sự tuyệt đối hoá, sự cường điệu mặt chủ thể của nhân thức con người, biên cái
nội dung khách quan thành cải siêu nhiên, thần thái. - Nguồn gốc tâm lý
Sự sợ hãi trước những hiện tượng tự nhiên, xã hội, hay trong những lúc ốm
đau, bệnh tật, ngay cả những may, rủi bất ngờ xảy ra, hoặc tâm lý muốn được
bình yên khi làm một việc lớn, con người cũng dễ tìm đến với tôn giáo. Thậm
chí, cả những tình cảm tích cực như tình yêu, lòng biết ơn, lòng kính trọng đối
với những người có công với nước, với dân cũng dễ dẫn con người đến với tôn giáo. 5
2.3. Tính chất của tôn giáo
- Tính lịch sử của tôn giáo
Tôn giáo có sự hình thành, tồn tại và phát triển và có khả năng biến đổi
trong những giai đoạn lịch sử nhất định để thích nghi với nhiều chế độ chính trị
- xã hội. Khi các điều kiện kinh tế – xã hội, lịch sử thay đổi, tôn giáo cũng có
sự thay đổi theo. Trong quá trình vận động của các tôn giáo, chính các điều
kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể đã làm cho các tôn giáo bị phân liệt, chia
tách thành nhiều tôn giáo, hệ phái khác nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đến một giai đoạn lịch sử nào đó, khi khoa học và giáo dục giúp
cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất các hiện tượng tự
nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời sống xã
hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi người.
- Tính quần chúng của tôn giáo
Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ rất
đông đảo (gần 3/4 dân số thế giới), mà còn thể hiện ở chỗ, các tôn giáo là nơi
sinh hoạt văn hoá, tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Dù tôn
giáo hướng con người vào niềm tin hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song
nó luôn luôn phản ánh khát vọng của những người lao động về một xã hội tự
do, bình đẳng, bác ái. Mặt khác, nhiều tôn giáo có tính nhân văn, nhân đạo
thiện, vì vậy, được nhiều người ở các tầng lớp khác nhau trong xã hội, đặc biệt
là quần chúng lao động, tin theo.
- Tính chính trị của tôn giáo
Tính chất chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai
cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích giai cấp. Trước hết, do tôn giáo là
sản phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi ích, nguyện vọng
của các giai cấp khác nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc,
nên tôn giáo mang tính chính trị. Mặt khác, khi các giai cấp bóc lột, thống trị
sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp mình, chống lại các giai cấp
lao động và tiến bộ xã hội, tôn giáo mang tính chính trị tiêu cực, phản tiến bộ. 6
- Tính chất đối lập với khoa học
Tôn giáo phản ánh hư ảo thế giới hiện thực vào đầu óc con người, giải
thích một cách duy tâm, thần bí những thực tại xã hội mà con người đang gặp
phải. Vì vậy, tôn giáo mang tính chất duy tâm, đối lập với chủ nghĩa duy vật biện chứng khoa học.
Trong thời đại cách mạng công nghệ phát triển nhanh chóng hiện nay,
tôn giáo có sử dụng những thành tựu của khoa học để phát triển tôn giáo, đồng
thời vẫn tìm cách giải thích sai lệch những tiến bộ khoa học, kỹ thuật, gieo vào
đầu óc con người những định mệnh không thể cưỡng lại...
2.4.Chức năng của tôn giáo
- Chức năng thế giới quan
Mỗi tôn giáo, để trở thành một tôn giáo đích thực đều phải giải đáp câu
hỏi: Thế giới này (kể cả tự nhiên và xã hội) là gì? Do đâu mà có? Vận hành
theo những quy luật nào? Đằng sau cái thế giới hữu hình này là gì? Có thể
nhận thức được không? v.v... Dù phản ánh hư ảo thế giới khách quan, nhưng
tôn giáo luôn có kỳ vọng đáp ứng nhu cầu của con người về nhận thức thế giới:
tự nhiên, xã hội và chính con người.
- Chức năng đền bù hư ảo
Con người trong thế giới đời thường luôn bị sức ép của những sức mạnh tự
nhiên cũng như xã hội (sự bóc lột giai cấp) không tìm được lời giải đáp chính
xác về nguyên nhân của những bất bình đẳng xã hội và biện pháp khắc phục
nó, cũng như bất lực trong cuộc đấu tranh giai cấp, phải sống trong nỗi lo sự
khốn cùng, bất hạnh, trong khi chưa được soi sáng bởi một chân lý – chân lý
cách mạng – có thể tìm thấy trong tôn giáo những giải đáp làm nguôi ngoai đi
những khổ đau và ấp ủ một hi vọng hư ảo. Sự đền bù hư ảo của tôn giáo,
nhưng lại có tác dụng hiện thực, bởi nhờ có nó mà con người trong những lúc
khổ đau tuyệt vọng nhất vẫn được an ủi và vẫn nuôi hy vọng vượt qua, hạn chế
được những hành vi vô nghĩa hoặc tai hại cho đồng loại. 7 - Chức năng điều chỉnh
Tôn giáo đã tạo nên hệ thống những chuẩn mực giá trị đạo đức. Qua những
điều cấm kỵ, răn dạy đã điều chỉnh hành vi của mỗi tín đồ trong đời sống cộng đồng. - Chức năng liên kết
Tôn giáo có khả năng liên kết những con người cùng tín ngưỡng. Họ có
chung một niềm tin, cùng bị ràng buộc bới giáo lý, giáo luật, cùng thực hiện
một số nghi thức tôn giáo và những điểm tương đồng khác. Sự liên kết giữa
các cộng đồng cùng tôn giáo rất chặt chẽ và lâu bền. Tuy nhiên, bên cạnh chức
năng liên kết, tôn giáo cũng có khả năng bị phân ly vì sự khác biệt tín ngưỡng.
3. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, tôn giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu sau: - Nguyên nhân nhận thức
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ
nghĩa vẫn còn nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học
chưa lý giải được, trong khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng
cao. Do đó, trước những sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con
người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân
dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh. - Nguyên nhân kinh tế
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại
nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp
xã hội. Trong đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần
giữa các nhóm dân cư còn tồn tại phổ biến. Do đó, những yếu tố may rủi, ngẫu 8
nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con người dễ trở nên thụ
động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên. - Nguyên nhân tâm lý
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành
niềm tin, lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một số bộ phận đông đảo
quần chúng nhân dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi
mạnh mẽ về kinh tế, chính trị - xã hội, song tôn giáo vẫn không thể biến đổi
ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh tế - xã hội mà nó phản ánh.
Điều đó cho thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý
thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của tồn tại xã hội,
trong đó ý thức tôn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền vững nhất
trong đời sống tinh thần của mỗi con người, của xã hội.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội
Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa
xã hội, với chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Đó là những giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện... đáp
ứng được nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong
một chừng mực nhất định, tôn giáo có sức thu hút mạnh mẽ đối với một bộ
phận quần chúng nhân dân. Mặt khác, những thế lực phản động lợi dụng tôn
giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp xây đựng chủ nghĩa xã hội. - Nguyên nhân văn hóa
Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã
đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và
trong một mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong
cách, lối sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng, về phương diện sinh hoạt văn
hóa, tôn giáo thường được thực hiện dưới hình thức là những nghi lễ tín
ngưỡng cùng với những lời răn theo chuẩn mực đạo đức phù hợp với quan
niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt văn hóa có tính chất tín ngưỡng, 9
tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu
văn hóa tinh thần, tình cảm của họ.
4. Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc
giải quyết vấn đề tôn giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những
vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận
trọng, cụ thể và chuẩn xác, có tính nguyên tắc với những phương thức sinh
hoạt theo quan điểm của chủ ngnĩa Mác - Lênin.
- Một là, giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã
hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ
nghĩa Mác - Lênin và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau về thế giới quan,
nhân sinh quan và con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc
phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
- Hai là, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.Khi
tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì nhà
nước xã hội chủ nghĩa phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của mọi công nhân. Công dân có tôn giáo hay không có tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau,
cần phát huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi
phạm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.
- Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người
không có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo
với những người không theo Tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo
vệ đất nước. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng tôn giáo. 10
- Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tử tưởng trong vấn đề tôn giáo.
Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội, khắc phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt
chính trị là sự lợi dạng tôn giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại
sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh loại bỏ
mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, vừa
phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thậr trọng và phải có sách lược phù hợp với thực tế.
- Năm là, phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo
đối với đời sống xã hội cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội,
giáo sĩ, giáo dân về các lĩnh vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó,
cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, đánh giá và giải quyết
những vẩn đề liên quan đến tôn giáo. Người mácxít phải biết chú ý đến toàn bộ
tình hình cụ thể - đó là điều mà V.I. Lênin đã từng nhắc nhở khi giải quyết vấn
đề tôn giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có quan điểm và phương thức
ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể khi giải quyết các vấn đề tôn giáo.
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN
ĐỀ TÔN GIÁO THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
1. Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam
- Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí
địa lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi
trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc
thâm nhập các luồng văn hóa, các tôn giáo trên thế giới. Chính vì vậy người
dân Việt Nam có truyền thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các 11
dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng
gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình.
- Các tôn giáo: Nhà nước Việt Nam đã công nhận và cấp đăng kí hoạt động
cho 38 tổ chức, hệ phái tôn giáo và 01 pháp tu hành thuộc 13 tôn giáo, với trên
24 triệu tín đồ (chiếm khoảng 27% dân số cả nước), 83.000 chức sắc, 250.000
chức việc, 46 trường đào tạo chức sắc tôn giáo (tương đương từ bậc trung cấp
đến trên đại học), 25 ngàn cơ sở thờ tự.
- Việt Nam có các tôn giáo lớn như: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Hòa Hảo, Cao Đài.
Phật giáo: Đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ những năm đầu
Công nguyên. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, Phật giáo Việt Nam có bước phát
triển mới cùng với nền độc lập của dân tộc. Thời Lý-Trần (từ đầu thế kỷ XI
đến cuối thế kỷ XIV) là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo ở Việt Nam. Vua Trần
Nhân Tông là người sáng lập ra Thiền phái Trúc lâm Yên tử mang bản sắc Việt
Nam với tinh thần sáng tạo, dung hợp và nhập thế. Phật giáo Nam Tông truyền
vào phía nam của Việt Nam từ thế kỷ IV sau Công nguyên. Tín đồ Phật giáo
Nam Tông chủ yếu là đồng bào Khơ-me, tập trung ở đồng bằng sông Cửu
Long nên gọi là Phật giáo Nam Tông Khơ-me. Phật giáo hiện nay ở Việt Nam
có khoảng hơn 11 triệu tín đồ, trên 17.000 cơ sở thờ tự, gần 47.000 chức sắc,
04 Học viện Phật giáo, 09 lớp Cao đẳng Phật học, 31 trường Trung cấp...
Công giáo: Nhiều nhà nghiên cứu sử học công giáo lấy năm 1533 là
thời mốc đánh dấu việc truyền đạo Công giáo vào Việt Nam. Từ năm 1533 đến
1614 chủ yếu là các giáo sĩ dòng Phan-xi-cô thuộc Bồ Đào Nha và dòng Đa
minh thuộc Tây Ban Nha đi theo những thuyền buôn vào Việt Nam. Từ năm
1615 đến năm 1665, các giáo sĩ dòng Tên thuộc Bồ Đào Nha từ Ma-cao
(Macau, Trung Quốc) vào Việt Nam hoạt động ở cả Đàng Trong (nam sông
Gianh), Đàng Ngoài (bắc sông Gianh). Hiện nay, Công giáo có khoảng 6,5 12
triệu tín đồ; 42 Giám mục, khoảng 4.000 linh mục, hơn 100 dòng tu, tu hội, tu
đoàn với hơn 17.000 tu sỹ; có 26 giáo phận, 07 Đại Chủng viện.
Tin Lành: Đạo Tin lành có mặt tại Việt Nam muộn hơn so với các tôn
giáo du nhập từ bên ngoài, vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do tổ
chức Liên hiệp Phúc âm Truyền giáo (The Christian and Missionary Alliance-
CMA) truyền vào. Năm 1911 được xem là thời mốc xác nhận việc truyền đạo
Tin lành vào Việt Nam. Hiện đạo Tin Lành có khoảng 1,5 triệu tín đồ thuộc 10
tổ chức, hệ phái; khoảng 3.000 chức sắc; gần 400 cơ sở thờ tự; 01 Viện Thánh
kinh thần học và 01 trường Kinh thánh.
Đạo Hồi: Ở Việt Nam, tín đồ đạo Hồi chủ yếu là người Chăm. Theo
tư liệu lịch sử, người Chăm đã biết đến đạo Hồi từ thế kỷ X-XI. Có hai khối
người Chăm theo đạo Hồi: một là, khối người Chăm theo đạo Hồi ở Ninh
Thuận, Bình Thuận là khối Hồi giáo cũ hay còn gọi là Chăm Bà-ni; hai là, khối
người Chăm theo đạo Hồi ở Châu Đốc (An Giang), thành phố Hồ Chí Minh,
Tây Ninh, Đồng Nai là khối đạo Hồi mới hay còn gọi là Chăm Islam. Hiện nay
Đạo Hồi ở Việt Nam có khoảng trên 80.000 tín đồ, 89 cơ sở thờ tự, 1.062 chức
sắc, chức việc, 07 tổ chức Hồi giáo được Nhà nước công nhận.
Đạo Cao Đài: Là một tôn giáo bản địa. Giữa tháng 11/1926 (ngày
15/10 năm Bính Dần), những chức sắc đầu tiên của đạo Cao đài tổ chức lễ khai
đạo tại chùa Gò Kén-Tây Ninh chính thức cho ra mắt đạo Cao đài. Hiện nay,
đạo Cao Đài có khoảng 2,5 triệu tín đồ thuộc 10 hệ phái, 01 pháp môn tu hành,
trên 10.000 chức sắc, hơn 1.200 cơ sở thờ tự hoạt động ở 37 tỉnh, thành phố.
Phật giáo Hòa Hảo: Là một tôn giáo bản địa do ông Huỳnh Phú Sổ
làm lễ khai đạo vào ngày 18/5 năm Kỷ Mão (ngày 4/7/1939) tại làng Hòa Hảo,
tỉnh An Giang. Hiện nay Phật giáo Hòa Hảo có khoảng 1,3 triệu tín đồ, trong
đó có 2.528 chức việc, 94 chùa ở 20 tỉnh, thành phố. 13
- Các tôn giáo khác ở Việt Nam gồm Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam,
Cộng đồng Tôn giáo Baha’i Việt Nam, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, Minh Sư đạo, Minh Lý đạo, Bàlamôn với tổng số gần 1.3 triệu tín đồ;
ngoài ra, còn có khoảng 20 tổ chức Cao đài độc lập, khoảng 40 nhóm, hệ phái Tin lành…
- Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân.
Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến 80-
85%, của Cao Đài, Phật giáo, Hòa Hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%. Là
người lao động, người nông dân, tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam rất cần cù
trong lao động sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn lịch sử,
tín đồ các tôn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những chiến thắng to lớn của dân tộc.
- Theo thống kê chưa đầy đủ cho thấy Việt Nam có khoảng 95% dân số có
đời sống tín ngưỡng, tôn giáo (trong hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ
biến là thờ cúng ông bà tổ tiên và tín ngưỡng thờ Mẫu).Tính đến nay, cả nước
có khoảng 45.000 cơ sở tín ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ
sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế
giới. Hàng năm, Việt Nam có gần 13.000 lễ hội, gồm 5 loại: lễ hội dân gian, lễ
hội lịch sử cách mạng, lễ hội tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn
hóa - thể thao và ngành nghề.
- Tín đồ tôn giáo hoàn tàon tự do trong việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo,
bày tỏ và thực hành đức tin tôn giáo của mình. Chức sắc, nhà tu hành các tôn
giáo được sự tự do trong việc thực hành các hoạt động tôn giáo theo giáo luật.
Việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc được thực hiện theo quy
định giáo hội. Các tổ chức tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân
trong những năm qua đều có sự phát triển về số lượng cơ sở giáo hội, về tín đồ,
chức sắc nhà tu hành, về việc xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở thờ tự, đảm 14
bảo kinh sách, các hoạt động tôn giáo theo hiến chương, điều lệ và giáo lý,
giáo luật. Các chức sắc, nhà tu hành được tham gia học tập, đào tạo ở trong
nước và nước ngoài hoặc tham gia các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài. Nhiều
tổ chức tôn giáo nước ngoài đã giao lưu với các tổ chức tôn giáo Việt Nam.
- Việt Nam là một nước đa tôn giáo, nhưng cộng đồng các tôn giáo ở Việt
Nam luôn gắn bó với dân tộc; đồng thời, là nhân tố xã hội và văn hoá tích cực
góp phần làm cho nền văn hoá Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Việt
Nam còn là một đất nước rất ôn hoà trong quan hệ giữa các tôn giáo, có truyền
thống đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Việc chung sống hoà bình và bao dung giữa các tôn giáo cùng với tính
nhân ái, nhân bản của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức tranh
sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam: thuần tuý nhưng phong phú,
đan xen nhưng không mâu thuẫn. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, quan hệ
tích cực và mang tính xây dựng giữa các tôn giáo và Nhà nước đã được thể
hiện rất rõ và ngày càng được củng cố. Đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó có
đoàn kết hoà hợp các tôn giáo là nguồn sức mạnh và là nhân tố quyết định bảo
đảm cho mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Tôn giáo ở Việt Nam trong những năm qua cho thấy, các tôn giáo ở nước
ta được hoạt động tự do trong khuôn khổ pháp luật, được Nhà nước tạo điều
kiện đáp ứng những nhu cầu tôn giáo chính đáng như: tự do sinh hoạt tôn giáo,
bảo hộ nơi thờ tự; có trường đào tạo chức sắc tôn giáo, được đưa đi đào tạo ở
nước ngoài; có kinh sách, ấn phẩm tôn giáo; được giao lưu quốc tế; các tín đồ
hoàn toàn tự do sinh hoạt tín ngưỡng tại gia đình và nơi thờ tự hợp pháp...
Ngoài việc các tổ chức, cá nhân các tôn giáo được tạo điều kiện sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo khuôn khổ pháp luật, các tôn giáo ở Việt Nam còn được
giao lưu quốc tế mà không bị cản trở. Hiện nay cả nước có 22.195 cơ sở thờ tự
các loại, trong đó có nhiều cơ sở được xây dựng mới và trùng tu rất khang 15
trang. Những ngày lễ lớn của các tôn giáo được tổ chức trọng thể ở mọi miền
đất nước... đã thu hút hàng triệu tín đồ; có lễ hội diễn ra với sự tham gia của
hàng trăm nghìn người mà vẫn được tổ chức chu đáo, an toàn.
- Tình hình hoạt động tôn giáo ở Việt Nam còn có những diễn biến phức
tạp, tiềm ẩn các yếu tố có thể gây mất ổn định:
+ Hoạt động của các “hiện tượng tôn giáo mới” đã gây ra những ảnh
hưởng nhất định về kinh tế. Trước hết là tổn thất về kinh tế cho chính bản thân
những “tín đồ” theo “hiện tượng tôn giáo mới”. Nhiều người theo các “hiện
tượng tôn giáo mới” đã phải bỏ công việc để tham gia hoạt động của “đạo”;
một số người có sức khỏe yếu, bệnh tật hiểm nghèo tìm đến với các “hiện
tượng tôn giáo mới” để nuôi hy vọng chữa khỏi bệnh nên đã phải bỏ ra kinh phí lớn.
+ Việc in ấn kinh sách, xây sửa nơi thờ tự, nghi lễ thờ cúng gây phiền
hà, tốn kém công sức, tiền bạc của nhân dân. Đồng thời, họ còn tổ chức các
cuộc viếng thăm, hành hương, tham quan,… kết hợp với sinh hoạt tôn giáo trái
phép ở nơi công cộng, gây tốn kém tiền của, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự an toàn xã hội.
+ Nhận thức của những người theo “hiện tượng tôn giáo mới” đôi khi
thái quá và sai lệch về Đảng và Nhà nước. Do đó, họ dễ bị các thế lực xấu lợi
dụng, xúi giục, dẫn đến hành vi chống đối, làm mất uy tín của Đảng… gây
phương hại sự ổn định chính trị, ảnh hưởng đến khối đoàn kết cộng đồng các
dân tộc; đến sự lãnh đạo, quản lý xã hội của Đảng, Nhà nước.
2. Những chính sách cụ thể đối với tôn giáo ở Việt Nam
- Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến các hoạt động
tôn giáo và ban hành những chủ trương, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các
tôn giáo hoạt động đúng tôn chỉ mục đích và Hiến pháp, pháp luật. Quan điểm 16