lOMoARcPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
================
BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN
Đề: Quan điểm của chủ nghũa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay
Sinh viên:
Mã sinh viên:
Lớp:
lOMoARcPSD| 44985297
Page 2 of 29
MỤC LỤC
I. Phần mở đầu…………………………………………………………3 II.
Vật chất và ý thức …………………………………..……………….. 3
1.Vật chất ….…………………………………………………….3
1.1. Vật chất là gì?..……………………..……………….……3
1.2. Ý nghĩa của vật chất……………….……………..........…5
1.3. Phương thức tồn tại của vật chất………………...….……7
1.4. Tính thống nhất vật chất của thế giới……………………..9
2.Ý thức………………………………………………………….10
2.1. Ý thức là gì?......................................................................10
2.2. Nguồn gốc của ý thức……………….……..……………11
2.3. Bản chất của ý thức ……………………………………..14
2.4. Cấu trúc của ý thức …………….………………...……15
2.5. Các cấp độ của ý thức…………………………………..16
2.6. Vai trò của ý thức…………………………..…………..18 III. Mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức ...…………………..………….19
1.Vai trò của vật chất và ý thức đối với nhau…………..….……..19
1.1. Vai trò của vật chất với ý thức………………..….……..19
1.2. Vai trò của ý thức với vật chất ………………………….20
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức………………..…….…....21
2.1. Vật chất quyết định ý thức …………………..…………22
2.2. Ý thức quyết định vật chất ……………………..………22
2.3. Ý nghĩa của phương pháp luận …………………...…….23
IV. Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay.……………………………...…..24
V. Tài liệu tham khảo……………………...………………………...….28
I, Phần mở đầu
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng.
Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất
lOMoARcPSD| 44985297
Page 3 of 29
và ý thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đề về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác - Lênin là đúng và
đầy đủ đó là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định sự
ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, chúng ta sẽ đi sâu vào đề tài
luận:” Quan điểm của chủ nghũa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay.
II, Vật chất và ý thức
1. Vật chất
1.1 Vật chất là gì?
- Vật chất với các hình thức tồn tại cụ thể của mang đến đặc điểm trong
phạm trù triết học. Vật chất không chỉ được nhìn nhận với tính chất liệt kê.
Nó còn mang đến ý nghĩa trong phân biệt với ý thức là cái ra đời sau đó.
Khi đó, với các chứng minh sự ra đời của vật chất là trước tiên và không
phụ thuộc vào cảm giác. Với thời điểm hiện tại, các quan điểm này vẫn
còn nguyên giá trị. Trong đó, các vật chất trong dạng tồn tại của nó là cơ
sở và tiền đề để xây dựng các quan điểm duy vật về xã hội.
- Định nghĩa vật chất của Lê nin:
- Vật chất phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Đưa ra khái niệm:
- Vật chất được phản ánh với hình thức tồn tại cụ thể của nó. Dùng để chỉ
thực tại khách quan phản ánh qua cảm giác. Khi đó, vật chất mang đến hình
thức chứa đựng cụ thể dạng tồn tại hữu hình. Từ khái niệm này,
thể thấy được với tính chất tồn tại được chứng minh. Từ đó, đánh giá được
lOMoARcPSD| 44985297
Page 4 of 29
đưa ra ddàng với các dạng tồn tại đó được xác định vật chất hay
không.
- Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái thể gây nên cảm
giác con người. Con người thông qua cảm giác để đánh giá về sự tồn tại
của vật chất. Cũng như khẳng định được, phân biệt được giữa vật chất và ý
thức. Hai khái niệm này tách rời nhau, mang đến các dạng tồn tại khác
hoàn toàn. Khi trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con
người. Vật chất i được ý thức phản ánh bằng cảm giác thỏa mãn với
khái niệm trên.
- Vật chất với tư cách phạm trù triết học theo nghiên cứu. kết quả của
sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn
của các sự vật, hiện tượng. Khi đó, hướng đến các giải thích cho sự tồn
tại bên cạnh ý nghĩa trong xác định. Nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô
tận, không sinh ra, không mất đi. Vật chất dạng tồn tại cố định hoặc
không, nhưng được đảm bảo cho cảm giác phản ánh. o Thứ nhất: Vật
chất là phạm trù triết học
- Thông thường chúng ta nhắc đến hình dung về vật chất như một vật dụng,
một tài sản của con người… Tuy nhiên, vật chất trong định nghĩa vật chất
của Lênin kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính,
những mối liên hệ vốn của các sự vật, hiện tượng nên phản ánh cái
chung, hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; do đó không thể đồng
nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
o Thứ hai: Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan
- Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức không
phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính
bản của vật chất, tiêu chuẩn để phân biệt cái vật chất, cái không
lOMoARcPSD| 44985297
Page 5 of 29
phải vật chất. Con người nhận thức được hay không nhận thức được
vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.
o Thứ ba: Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác
- Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi
trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con
người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản
ánh.
1.2 Ý nghĩa của vật chất
Từ định nghĩa được tìm hiểu trên chúng ta thể rút ra những ý nghĩa của vật
chất như sau:
Tóm lại, định nghĩa vật chất của Lênin ở trên có những ý nghĩa sau:
Phát hiện vật chất có trước và ý thức có sau.
Có thể thấy với các vận động và phát triển của ý thức mới thấy được vật chất
dang tồn tại. Bởi vậy mà các nhà duy tâm cho rằng ý thức có trước. Nhưng thực
tế là từ khi nhận thức được thì họ mới thấy được các tồn tại của vật chất. Bản
chất phải là vật chất có trước khi hình thành ý thức.
Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức con người. Tuy nhiên
vẫn mang đến các tính chất tồn tại song song và tác động lẫn nhau. Khi con
người có nhu cầu ăn, ở, mặc,… con người đã dùng ý thức để sử dụng vật chất.
Từ đó mà vật chất chính là nguồn gốc sâu xa dẫn đến các phát triển nền tảng của
ý thức. Phải có các cơ sở đó mới có ý thức của con người vận động.
Ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Với cơ sở và nền
tảng từ những cảm giác đối với vật chất. Con người có khả năng nhận thức thế
lOMoARcPSD| 44985297
Page 6 of 29
giới. Từ đó mà phát triển nhận thức cũng như mang đến các ứng dụng đối với vật
chất sẵn có. Dần dần họ sử dụng vật chất cho các nhu cầu cao hơn của mình.
Bác bỏ quan điểm duy tâm.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất
với sự phát hiện vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý
thức là nguồn gốc khách quan của cảm giác. Khi mà quan điểm duy tâm mang
đến các khẳng định cho sự xuất hiện và tác động của ý thức đến vật chất. Tất cả
là sai về mặt bản chất khi giải thích đối với nguồn gốc theo các nghiên cứu khoa
học. Với các cơ sở như thế nào, ý thức phải dựa trên nền tảng của vật chất làm
cơ sở. Từ đó mà hình thành các nhu cầu cao hơn đối với tồn tại của vật chất. Với
định nghĩa vật chất, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là
vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là
con người có thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại,
chụp lại, phản ánh của con người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật
chất của Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về
xã hội.
Khắc phục hạn chế trong quan điểm đưa ra của c nhà khoa học trước đó:
Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật
chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Khi mà các nội dung trong chủ nghĩa duy
vật cũng chưa đưa ra nguồn gốc, tính chất và dạng tồn tại của vật chất. Cùng với
sự tồn tại độc lập và có trước của vật chất so với ý thức.
Bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại khách
quan. Đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật
chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành. Từ đó khắc phục
được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó. Cung cấp căn
cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
Tính đúng đắn.
lOMoARcPSD| 44985297
Page 7 of 29
Bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy vật (CNDV) tầm thường về vật chất, coi ý
thức là một dạng vật chất. Bởi về bản chất, ý thức có các tồn tại độc lập, với tính
chất riêng. Không thỏa mãn cho khái niệm vật chất được Lênin kết luận. Định
nghĩa này đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch sử thành một thể thống
nhất. Khẳng định đối với dạng tồn tại và vận động của vật chất. Vật chất trong
tự nhiên, vật chất trong xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất mà thôi,
đều là thực tại khách quan.
Việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất chính là thuộc tính tồn tại khách
quan đã giúp cho chúng ta có thể phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa
phạm trù vật chất với phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành. Từ đó khắc
phục được những hạn chế trong các quan niệm của những nhà triết học trước đó.
Cung cấp căn cứ khoa học để xác định được những gì thuộc và không thuộc về
vật chất.
Lênin đã giải quyết triệt để được vấn đề cơ bản của triết học, đó là vật chất là cái
có trước và ý thức là cái có sau, vật chất quyết định cho ý thức. Qua đó có thể
thấy rằng con người có thể nhận thức được thế giới quan thông qua sự sao chép,
chụp lại và phản ánh đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của Lênin
đã tạo ra cơ sở nền tảng, tiền đề để có thể xây dựng quan niệm duy vật về xã hội
1.3 Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động phương thức tồn
tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu
một phương thức tồn tại của vật chất, một thuộc tính cố hữu của vật chất – t
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí
trong không gian “mọi sthay đổi mọi quá trình diễn ra trong trụ”,
lOMoARcPSD| 44985297
Page 8 of 29
vận động “là một phương thức tồn tại của vật chất, một thuộc tính cố hữu của
vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn
tại cụ thể của mình; vận động của vật chất tự thân vận động; và, sự tồn tại của
vật chất luôn gắn liền với vật chất.
Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học,
vận động sinh học và vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự tthấp đến cao tương
ứng với trình dộ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất
song chúng không tồn tại biệt lập mà mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó:
hình thức vận động cao xuất hiện trên sở các hình thức vận động thấp bao
hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi
sự vật có thể nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân bao giờ
cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất có. Bằng việc phân
loại các hình thức vận động bản, Ăngghen đã đặt sở cho việc phân loại, phân
ngành, hợp ngành khoa học. tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất
của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh
đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận
động khác trong quá trình nhận thức.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu
của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định vận động vĩnh
viễn. Điều này không nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng
im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ hiện tượng tương đối, tạm thời
thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im là tương đối đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất
định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong
một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động.
Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại
lOMoARcPSD| 44985297
Page 9 of 29
trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định,
ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng,
ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu
của sự vật.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính
nhất định và tồn tại trong những mối tương quan nhất định với những dạng vật
chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. mặt khác, sự
tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp
chuyển hóa,…Những hình thức tồn tại như vậy được gọi thời gian. Ăngghen
viết: “Các hình thức bản của mọi tồn tại không gian thời gian; tồn tại ngoài
thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian”. Như vậy, vật chất,
không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại ngoài không
gian và thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ngoài vật chất vận
động.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian,
thời gian những nh chất chung như những tính chất của vật chất, đó tính
khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.
Ngoài ra, không gian thuộc tính ba chiều còn thời gian chỉ một chiều. tính
ba chiều của không gian và một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về
quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
1.4 Tính thống nhất vật chất của thế giới
lOMoARcPSD| 44985297
Page 10 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
Thế giới vật chất thể hiện hết sức phong phú đa dạng, song những dạng biểu hiện
của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới thống nhất với nhau.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
Chỉ có một thế giới duy nhất thế giới vật chất; thế giới vật chất cái
trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, tận, hạn, không sinh ra, không mất
đi.
Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật
chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của
những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật
chất không khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi chuyển
hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra từ
việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học cuộc sống hiện
thực của con người kiểm nghiệm. không chỉ định hướng cho con người giải
thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho con người tiếp tục nhận
thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật.
2. Ý thức
2.1 Ý thức là gì?
Theo tâm lý học thì ý thức được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất
chỉ con người. Ý thức được hiểu theo định nghĩa của triết học MácLenin
một phạm trù song song với phạm trù vật chất.
Ý thức là trạng thái ý thức về một i đó. Cụ thể hơn, đó khả năng trực
tiếp biết nhận thức, cảm nhận hoặc nhận thức được các sự kiện. Một định nghĩa
khác mô tả nó là trạng thái trong đó chủ thể nhận thức được một số thông tin khi
thông tin đó trực tiếp có sẵn để thực hiện theo hướng của một loạt các hành động.
lOMoARcPSD| 44985297
Page 11 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
Ý thức được xác định một khái niệm tương đối. thể tập trung vào một
trạng thái bên trong, chẳng hạn như cảm giác nội tạng, hoặc vào các skiện bên
ngoài bằng cách nhận thức cảm tính. tương tự như cảm nhận một i đó,
một quá trình phân biệt với quan sát và nhận thức (bao gồm một quá trình cơ bản
làm quen với các mục mà chúng ta nhận thức được).
Ý thức hoặc “cảm nhận” thể được tả một cái đó xảy ra khi não được
kích hoạt theo những cách nhất định, chẳng hạn như khi màu đỏ là những gì được
nhìn thấy sau khi ng mạc được kích thích bởi sóng ánh ng. Việc hình thành
khái niệm này được đặt ra trong bối cảnh khó khăn trong việc phát triển một định
nghĩa phân tích về nhận thức hoặc nhận thức cảm tính.
Ý thức cũng được kết hợp với ý thức theo nghĩa khái niệm này biểu thị một kinh
nghiệm bản như cảm giác hoặc trực giác đi kèm với kinh nghiệm về hiện tượng.
Cụ thể, điều này được gọi ý thức về kinh nghiệm. Đối với ý thức, đã được
mặc định là phải trải qua các cấp độ thay đổi liên tục.
Những ý kiến phổ biến về ý thức cho rằng hiện tượng tả một điều kiện nhận
thức về bản thân (tự nhận thức). thuyết hệ thống hiện đại, cung cấp những hiểu
biết sâu sắc về cách thế giới hoạt động thông qua sự hiểu biết rằng tất cả các hệ
thống đều tuân theo các quy tắc của hệ thống, tiếp cận sự tự nhận thức trong tầm
hiểu biết của nó về cách thức hoạt động của các hệ thống sống phức tạp lớn. Theo
Gregory Bateson, ý thức động lực của sự tự tchức nhận thức điều cốt
yếu trong stồn tại của quá trình này. thuyết hệ thống hiện đại cho rằng con
người, với cách hệ thống sống, không chỉ nhận thức vmôi trường còn
nhận thức về bản thân, đặc biệt là với khả năng logic và tò mò.
Những nỗ lực để mô tả ý thức bằng các thuật ngữ thần kinh đã tập trung vào việc
tả các mạng lưới trong não phát triển nhận thức về trình độ được phát triển bởi
các mạng lưới khác. Khi nhận thức cung cấp các tài liệu từ đó người ta phát
triển các ý tưởng chủ quan về kinh nghiệm của họ, người ta nói rằng người ta nhận
lOMoARcPSD| 44985297
Page 12 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
thức được trạng thái nhận thức của chính mình. Tổ chức nhận thức về trải nghiệm
bên trong của chính mình được giao một vai trò trung tâm trong việc tự điều chỉnh.
2.2 Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Lenin thì trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn
gốc, bản chất của ý thức là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Triết học duy vật biện chứng
khẳng định, ý thức của con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. o
Mặt tự nhiên
Theo quan điểm của triết học Marx-Lenin, ý thức là một thuộc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người
và không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ
không có ý thức. Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ
não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm
của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp,
gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ
nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể
trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện
không điều kiện.
Cũng theo chủ nghĩa Marx-Lenin, hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở
hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt
động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị
rối loạn. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới
bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Phản
ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là năng
lOMoARcPSD| 44985297
Page 13 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống
vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của
vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp:
1. Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, th
hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá.
2. Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu sinh
cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới
sinh vật.
3. Phản ánh ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực,
ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự
xuất hiện của con người.
o Mặt xã hội.
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết định
cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động,
ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
Sau lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó là hai sức kích thích
chủ yếu của sự chuyển biến bộ não loài vật thành bộ não loài người, từ
tâm lý động vật thành ý thức
- E
ngelsLà hoạt động đặc thù
của con người, là hoạt động
bản chất người. Đó là hoạt
động chủ động, sáng tạo, có
mục đích. Lao động đem lại
cho con người dáng đi thẳng
đứng, giải phóng hai tay.
lOMoARcPSD| 44985297
Page 14 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
Điều này cùng với chế độ ăn
có thịt đã thực sự có ý nghĩa
quyết định đối với quá trình
chuyển hoá từ vượn thành
người, từ tâm lý động vật
thành ý thức.
Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài
người, và như thế đến một mức độ và trên một ý nghĩa nào đó, chúng
ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người
- E
ngels Việc chế tạo ra công cụ
lao động có ý nghĩa to lớn là
con người đã có ý thức về
mục đích của hoạt động biến
đổi thế giới. Thực chất của
hoạt động lao động là tác
động vào thế giới khách
quan, làm biến đổi thế giới
nhằm thỏa mãn nhu cầu của
con người. Nhờ có lao động,
bộ não con người được phát
triển và ngày càng hoàn
thiện, làm cho khả năng tư
duy trừu tượng của con
người ngày càng cao. Cũng
là lao động ngay từ đầu đã
liên kết con người lại với
lOMoARcPSD| 44985297
Page 15 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
nhau trong mối liên hệ tất
yếu, khách quan. Mối liên hệ
đó không ngừng được củng
cố và phát triển đến mức làm
nảy sinh ở họ một nhu cầu
"cần thiết phải nói với nhau
một cái gì đó". Và ngôn ngữ
xuất hiện.
Theo quan điểm của triết học Marx-Lenin thì ngôn ngữ là phương tiện để con
người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư
duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát
triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người.
2.3 Bản chất của ý thức
Ý thức, nói một cách đơn giản nhất, là sự gửi gắm hay nhận thức về sự tồn tại bên
trong bên ngoài. Bất chấp hàng thiên niên kỷ phân tích, định nghĩa, giải thích
và tranh luận của các triết gia và nhà khoa học, ý thức vẫn còn là điều khó hiểu và
gây tranh cãi, là “khía cạnh quen thuộc nhất và [cũng] bí ẩn nhất trong cuộc sống
của chúng ta”. lẽ khái niệm duy nhất được đồng ý rộng i về chủ đề này
trực giác rằng ý thức tồn tại.
Các ý kiến khác nhau về những gì chính xác cần được nghiên cứu và giải thích là
ý thức. Đôi khi, nó đồng nghĩa với tâm trí, và những lúc khác, một khía cạnh của
tâm trí. Trong quá khứ, đó “cuộc sống bên trong” của một người, thế giới của
nội tâm, của suy nghĩ, trí tưởng tượng hành động riêng tư. Ngày nay, thường
bao gồm bất kỳ loại nhận thức, kinh nghiệm, cảm giác hoặc nhận thức nào.
thể nhận thức, nhận thức về nhận thức, hoặc nhận thức vbản thân liên
tục thay đổi hoặc không. Có thể có các cấp độ hoặc trật tự ý thức khác nhau, hoặc
lOMoARcPSD| 44985297
Page 16 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
các loại ý thức khác nhau, hoặc chỉ một loại với các tính năng khác nhau. Các câu
hỏi khác bao gồm liệu chỉ con người có ý thức, tất cả các loài động vật, hay thậm
chí toàn bộ trụ. Phạm vi nghiên cứu, quan niệm suy đoán khác nhau làm dấy
lên nghi ngờ về việc liệu có đúng câu hỏi được đặt ra hay không Đối với bản chất
của ý thức đã được nhận định bằng nhiều ý kiến quan điểm khác nhau, và chưa
có nhận định chung về bản chất của ý thức.
Theo triết học duy tâm quan niệm: Ý thức một thực thể độc lập, thực tại duy
nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật
chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất”.
Theo các nhà triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức
sự phản ánh sự vật đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên sở luận
phản ánh: “về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan”.
Do đó, để hiểu về bản chất của ý thức cần dựa trên các yếu tố sau:
Thứ nhất, vât chất ý thức được chúng ta thừa nhận nhưng giữa chúng sự
khác nhau mang tính đối lập. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh, còn ý thức
sự phản ánh, cái phản ánh. Ý thức hiện thực chủ quan, hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Trong khi đó, vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài và độc
lập với ý thức.
+Thứ hai, những hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan đó chính là ý thứ.
+ Thứ ba ý thức là một hiện tượng xã hội.
2.4 Cấu trúc của ý thức
Ý thức là một cấu trúc tâm lí phức tạp bao gồm nhiều mặt, là một chỉnh thể mang
lại cho thế giới tâm hồn của con người một chất lượng mới. Trong ý thức có ba
mặt thống nhất hữu cơ với nhau, điều khiển hoạt động có ý thức của con người.
o Mặt nhận thức
lOMoARcPSD| 44985297
Page 17 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
Các quá trình nhận thức cảm tính mang lại những tài liệu đầu tiên cho ý thức là tầng
bậc thấp Của ý thức.
Quá trình nhân thức lí tính là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức của ý thức, đem
lai cho con người những hiểu biết bản chất, khái quát về thực tại khách quan.
Đây nội dung rất bản của ý thức hạt nhân của ý thức, giúp con người
hình dung ra trước kết quả của hoạt động hoạch định kế hoạch hành vi. o
Mặt thái độ của ý thức
Mặt thái độ của ý thức nói lên thái đô lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá
của chủ thể đối với thế giới.
o Mặt năng động của ý thức
Ý thức điều khiển, điều chỉnh hoạt đông của con người, làm cho hoạt động của
Con người có ý thức. Đó là quá trình con người vận dụng những hiểu biết và tỏ
thái độ của mình nhằm thích nghi, cải tạo thế giới và cải biến cả bản thân. Mặt
khác, ý thức nảy sinh và phát triển trong hoạt động. Cấu trúc của hoạt động quy
định cấu trúc của ý thức. Vì thế nhu cầu, hứng thú, động cơ, ý chí… đều có vị trí
nhất định trong cấu trúc của ý thức.
2.5 Các cấp độ của ý thức
Căn cứ vào tính tự giác, mức độ sáng tỏ, phạm vi bao quát của tâm lí, người ta phân
chia các hiện tượng tâm lí của con người thành ba cấp độ:
Cấp độ chưa ý thức;
Cấp độ ý thức và tự ý thức;
Cấp độ ý thức nhóm và ý thức tập thể.
- Cấp độ chưa ý thức
Trong cuộc sống, cùng với các hiện tượng tâm có ý thức, chúng ta thường gặp
những hiện tượng tâm lí chưa có ý thức diễn ra chi phối hoạt động của con người.
dụ: người mắc chứng mộng du vừa ngủ vừa đi trên mái nhà, người say rượu
nói ra những điều không ý thức, người bị thôi miên, người bị động kinh…
thường những hành động không ý thức (chưa ý thức). Hiện tượng tâm
lOMoARcPSD| 44985297
Page 18 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
“không có ý thức” này khác với từ “vô ý thức” (vô ý thức tổ Chức, vô ý thức tập
thể) mà ta vẫn dùng hàng ngày. ở đây người vô ý thức thể hiện sự thiếu ý thức tôn
trọng tổ chức, tôn trọng kỉ luật, quy định chung của tập thể, anh ta rất có ý thức về
việc làm sai trái của mình. Hiện tượng tâm lí không ý thức, chưa nhận thức được,
trong tâm lí học gọi là vô thức.
thức hiện tượng tâm lí tầng bậc chưa ý thức, nơi ý thức không thực
hiện chức năng của mình. thức bao gồm nhiều hiện tượng tâm lí khác nhau của
tầng không (chưa) ý thức: thức tầng bản năng thức (bản năng dinh dưỡng.
tự vệ sinh dục) tiềm tàng ở tầng sâu, dưới ý thức, mang tính bẩm sinh, di truyền.
Vô thức còn bao gồm cả những hiện tượng tâm lí dưới ngưỡng ý thức (dưới
ý thức hay tiền ý thức).
dụ: lúc ta cảm thấy thinh thích một cái đó, nhưng không hiểu sao;
hoặc lúc thích, lúc không thích, khi gặp điều kiện thì bộc lộ ý thích. khi
không có điều kiện thì thôi.
Hiện tượng m thế. Hiện tượng tâm dưới ý thức, hướng tâm sẵn sàng
chờ đón, tiếp nhận một điều đó, ảnh hưởng đến tính linh hoạt tính ổn
định của hoạt động. Cũng lúc tâm thế phát triển xâm nhập cả vào tầng ý
thức. dụ: tâm thế yêu đương của đôi bạn trẻ đang say nhau, tâm thế
nghỉ ngơi của người cao tuổi…
Có những loại hiện tượng tâm lí vốn là có ý thức nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần
chuyển thành dưới ý thức. Chẳng hạn một số xảo, thói quen con người do
được luyện tập đã thành thục trở thành “tiềm thức”, một dạng tiềm tàng sâu lắng
của ý thức Tiềm thức thường trực chỉ đạo hành động, lời nói, suy nghĩ… của một
người tới mức độ không cần ý thức tham gia.
- Cấp độ ý thức và tự ý thức
cấp độ ý thức nđã nói trên, con người nhận thức, tỏ thái độ có chủ tâm
và dư kiến trước được hành vi của mình, làm cho hành vi trở nên ý thức.
ý thức thể hiện trong ý chí, trong chú ý (sẽ trình bày sau ở phần sau).
lOMoARcPSD| 44985297
Page 19 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
Tư ý thức là mức độ Phát triển cao của ý thức. Tự ý thức bắt đầu hình thành
từ tuổi lên ba. Thông thường, tý thức biểu hiện ở các mặt sau: + Cá nhân tự
nhận thức về bản thân nh tbên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế
các quan hệ xã hội.
+ có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá; + Tự
điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác; +
Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.
- Cấp độ ý thức nhóm và ý thức tập thể
Trong mối quan hệ giao tiếp hoạt động, ý thức của nhân sPhát triển dần
đến cấp độ ý thức xã hội, ý thức nhóm, ý thức tập thể (ví dụ: ý thức về gia đình, ý
thức về dòng họ, ý thức dân tộc, ý thức nghề nghiệp…). Trong cuộc sống, khi con
người hành động, hoạt động với ý thức cộng đồng, ý thức tập thể, mỗi con người
có thêm sức mạnh tinh thần mới mà người đó chưa bao giờ có được khi anh ta chỉ
hoạt động với ý thức cá nhân riêng lẻ.
Tóm lại, các cấp độ khác nhau của ý thức luôn tác động lẫn nhau, chuyển hóa và
bổ sung cho nhau làm tăng tính đa dạng và sức mạnh của ý thức. Ý thức thống
nhất với hoạt động; hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động. ý thức chỉ
đạo, điều khiển, điều chỉnh hoạt động, làm cho hoạt động có ý thức.
2.6 Vai trò của ý thức
Vai trò của ý thức có một tầm quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống và khẳng
định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý thức chỉ
là sản phẩm, là sự phản ánh chân thật về thế giới khách quan. Và hành động của
con người chỉ xuất phát từ những yếu tố tác động của thế giới khách quan. Điều
này đã tạo cho con người sự thông minh, nhạy bén để có thể ứng phó kịp thời
với tác động của môi trường xung quanh. Từ đó giúp tạo bên các giá trị thực tiễn
cho đời sống xã hội, nhiều công trình kiến trúc được tạo nên, nhiều phát minh
khoa học được hình thành do ý thức của con người dự đoán được những thiên
tai, hay những thay đổi của tương lai ....
lOMoARcPSD| 44985297
Page 20 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý thức tự
nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện tư
tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Nghĩa là con người muốn thực hiện quy
luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải
có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ
đạo các hoạt động của con người, có thể quyết định làm cho con người hành động
đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất
định.
Do vậy, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng
cải tạo thế giới có hiệu quả. Vì thế, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.
II. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ
này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý
thức, song ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
1. Vai trò của vật chất và ý thức đối với nhau
1.1 Vai trò của vật chất với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức sản phẩm của một dạng vật chất tổ chức cao bộ óc người nên chỉ
khi con người mới ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới
vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất,
sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát
triển hết sức lâu dài của khoa học vgiới tự nhiên; là một bằng chứng khoa học
chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ================ BÀI TẬP LỚN
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC LÊ-NIN
Đề: Quan điểm của chủ nghũa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay Sinh viên: Mã sinh viên: Lớp: lOMoAR cPSD| 44985297 MỤC LỤC
I. Phần mở đầu…………………………………………………………3 II.
Vật chất và ý thức …………………………………..……………….. 3
1.Vật chất ….…………………………………………………….3
1.1. Vật chất là gì?..……………………..……………….……3
1.2. Ý nghĩa của vật chất……………….……………..........…5
1.3. Phương thức tồn tại của vật chất………………...….……7
1.4. Tính thống nhất vật chất của thế giới……………………..9
2.Ý thức………………………………………………………….10
2.1. Ý thức là gì?......................................................................10
2.2. Nguồn gốc của ý thức……………….……..……………11
2.3. Bản chất của ý thức ……………………………………..14
2.4. Cấu trúc của ý thức …………….………………...……15
2.5. Các cấp độ của ý thức…………………………………..16
2.6. Vai trò của ý thức…………………………..…………..18 III. Mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức ...…………………..………….19
1.Vai trò của vật chất và ý thức đối với nhau…………..….……..19
1.1. Vai trò của vật chất với ý thức………………..….……..19
1.2. Vai trò của ý thức với vật chất ………………………….20
2. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức………………..…….…....21
2.1. Vật chất quyết định ý thức …………………..…………22
2.2. Ý thức quyết định vật chất ……………………..………22
2.3. Ý nghĩa của phương pháp luận …………………...…….23
IV. Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay.……………………………...…..24
V. Tài liệu tham khảo……………………...………………………...….28 I, Phần mở đầu
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng.
Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật chất Page 2 of 29 lOMoAR cPSD| 44985297
và ý thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đề về mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác - Lênin là đúng và
đầy đủ đó là vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định sự
ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật chất.
Với mong muốn tìm hiểu thêm về vấn đề này, chúng ta sẽ đi sâu vào đề tài lý
luận:” Quan điểm của chủ nghũa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay”.
II, Vật chất và ý thức 1. Vật chất 1.1 Vật chất là gì?
- Vật chất với các hình thức tồn tại cụ thể của nó mang đến đặc điểm trong
phạm trù triết học. Vật chất không chỉ được nhìn nhận với tính chất liệt kê.
Nó còn mang đến ý nghĩa trong phân biệt với ý thức là cái ra đời sau đó.
Khi đó, với các chứng minh sự ra đời của vật chất là trước tiên và không
phụ thuộc vào cảm giác. Với thời điểm hiện tại, các quan điểm này vẫn
còn nguyên giá trị. Trong đó, các vật chất trong dạng tồn tại của nó là cơ
sở và tiền đề để xây dựng các quan điểm duy vật về xã hội.
- Định nghĩa vật chất của Lê nin:
- “Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem
lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Đưa ra khái niệm:
- Vật chất được phản ánh với hình thức tồn tại cụ thể của nó. Dùng để chỉ
thực tại khách quan phản ánh qua cảm giác. Khi đó, vật chất mang đến hình
thức chứa đựng cụ thể và có dạng tồn tại hữu hình. Từ khái niệm này, có
thể thấy được với tính chất tồn tại được chứng minh. Từ đó, đánh giá được Page 3 of 29 lOMoAR cPSD| 44985297
đưa ra dễ dàng với các dạng tồn tại đó có được xác định là vật chất hay không.
- Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm
giác ở con người. Con người thông qua cảm giác để đánh giá về sự tồn tại
của vật chất. Cũng như khẳng định được, phân biệt được giữa vật chất và ý
thức. Hai khái niệm này tách rời nhau, và mang đến các dạng tồn tại khác
hoàn toàn. Khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con
người. Vật chất là cái được ý thức phản ánh bằng cảm giác thỏa mãn với khái niệm trên.
- Vật chất với tư cách là phạm trù triết học theo nghiên cứu. Là kết quả của
sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn
có của các sự vật, hiện tượng. Khi đó, hướng đến các giải thích cho sự tồn
tại bên cạnh ý nghĩa trong xác định. Nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô
tận, không sinh ra, không mất đi. Vật chất có dạng tồn tại cố định hoặc
không, nhưng được đảm bảo cho cảm giác phản ánh. o Thứ nhất: Vật
chất là phạm trù triết học
- Thông thường chúng ta nhắc đến và hình dung về vật chất như một vật dụng,
một tài sản của con người… Tuy nhiên, vật chất trong định nghĩa vật chất
của Lênin là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính,
những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái
chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; do đó không thể đồng
nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
o Thứ hai: Vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan
- Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không
phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ
bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không Page 4 of 29 lOMoAR cPSD| 44985297
phải là vật chất. Con người có nhận thức được hay không nhận thức được
vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.
o Thứ ba: Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác
- Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó
trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con
người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
1.2 Ý nghĩa của vật chất
Từ định nghĩa được tìm hiểu ở trên chúng ta có thể rút ra những ý nghĩa của vật chất như sau:
Tóm lại, định nghĩa vật chất của Lênin ở trên có những ý nghĩa sau:
– Phát hiện vật chất có trước và ý thức có sau.
Có thể thấy với các vận động và phát triển của ý thức mới thấy được vật chất
dang tồn tại. Bởi vậy mà các nhà duy tâm cho rằng ý thức có trước. Nhưng thực
tế là từ khi nhận thức được thì họ mới thấy được các tồn tại của vật chất. Bản
chất phải là vật chất có trước khi hình thành ý thức.
Vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức con người. Tuy nhiên
vẫn mang đến các tính chất tồn tại song song và tác động lẫn nhau. Khi con
người có nhu cầu ăn, ở, mặc,… con người đã dùng ý thức để sử dụng vật chất.
Từ đó mà vật chất chính là nguồn gốc sâu xa dẫn đến các phát triển nền tảng của
ý thức. Phải có các cơ sở đó mới có ý thức của con người vận động.
Ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách quan đó. Với cơ sở và nền
tảng từ những cảm giác đối với vật chất. Con người có khả năng nhận thức thế Page 5 of 29 lOMoAR cPSD| 44985297
giới. Từ đó mà phát triển nhận thức cũng như mang đến các ứng dụng đối với vật
chất sẵn có. Dần dần họ sử dụng vật chất cho các nhu cầu cao hơn của mình.
– Bác bỏ quan điểm duy tâm.
Định nghĩa vật chất của Lênin đã bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất
với sự phát hiện vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất là nguồn gốc của ý
thức là nguồn gốc khách quan của cảm giác. Khi mà quan điểm duy tâm mang
đến các khẳng định cho sự xuất hiện và tác động của ý thức đến vật chất. Tất cả
là sai về mặt bản chất khi giải thích đối với nguồn gốc theo các nghiên cứu khoa
học. Với các cơ sở như thế nào, ý thức phải dựa trên nền tảng của vật chất làm
cơ sở. Từ đó mà hình thành các nhu cầu cao hơn đối với tồn tại của vật chất. Với
định nghĩa vật chất, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là
vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là
con người có thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại,
chụp lại, phản ánh của con người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật
chất của Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội.
– Khắc phục hạn chế trong quan điểm đưa ra của các nhà khoa học trước đó:
Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật
chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Khi mà các nội dung trong chủ nghĩa duy
vật cũng chưa đưa ra nguồn gốc, tính chất và dạng tồn tại của vật chất. Cùng với
sự tồn tại độc lập và có trước của vật chất so với ý thức.
Bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại khách
quan. Đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật
chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành. Từ đó khắc phục
được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó. Cung cấp căn
cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
– Tính đúng đắn. Page 6 of 29 lOMoAR cPSD| 44985297
Bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy vật (CNDV) tầm thường về vật chất, coi ý
thức là một dạng vật chất. Bởi về bản chất, ý thức có các tồn tại độc lập, với tính
chất riêng. Không thỏa mãn cho khái niệm vật chất được Lênin kết luận. Định
nghĩa này đã liên kết CNDV biện chứng với CNDV lịch sử thành một thể thống
nhất. Khẳng định đối với dạng tồn tại và vận động của vật chất. Vật chất trong
tự nhiên, vật chất trong xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất mà thôi,
đều là thực tại khách quan.
Việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất chính là thuộc tính tồn tại khách
quan đã giúp cho chúng ta có thể phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa
phạm trù vật chất với phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành. Từ đó khắc
phục được những hạn chế trong các quan niệm của những nhà triết học trước đó.
Cung cấp căn cứ khoa học để xác định được những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
Lênin đã giải quyết triệt để được vấn đề cơ bản của triết học, đó là vật chất là cái
có trước và ý thức là cái có sau, vật chất quyết định cho ý thức. Qua đó có thể
thấy rằng con người có thể nhận thức được thế giới quan thông qua sự sao chép,
chụp lại và phản ánh đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của Lênin
đã tạo ra cơ sở nền tảng, tiền đề để có thể xây dựng quan niệm duy vật về xã hội 1.3
Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn
tại của vật chất; không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Ăngghen định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, – tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì
bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay
đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
Theo quan niệm của Ăngghen: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí
trong không gian mà là “mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ”, Page 7 of 29 lOMoAR cPSD| 44985297
vận động “là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của
vật chất” nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn
tại cụ thể của mình; vận động của vật chất là tự thân vận động; và, sự tồn tại của
vật chất luôn gắn liền với vật chất.
Dựa trên thành tựu khoa học trong thời đại mình, Ăngghen đã phân chia vận động
thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học,
vận động sinh học và vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao tương
ứng với trình dộ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất
song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó:
hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp và bao
hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình, mỗi
sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ
cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có. Bằng việc phân
loại các hình thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại, phân
ngành, hợp ngành khoa học. tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất
của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh
đồng các hình thức vận động hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận
động khác trong quá trình nhận thức.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố hữu
của vật chất; chủ nghĩa duy vật biện chứng cũ đã khẳng định vận động là vĩnh
viễn. Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng
im, cân bằng; song đứng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và
thực chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất
định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong
một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động.
Đứng im là tam thời vì đứng im không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại Page 8 of 29 lOMoAR cPSD| 44985297
trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số quan hệ nhất định,
ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng,
ổn định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự vật.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất:
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính
nhất định và tồn tại trong những mối tương quan nhất định với những dạng vật
chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. mặt khác, sự
tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp
và chuyển hóa,…Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian. Ăngghen
viết: “Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài
thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian”. Như vậy, vật chất,
không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại ngoài không
gian và thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ngoài vật chất vận động.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian,
thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính
khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.
Ngoài ra, không gian có thuộc tính ba chiều còn thời gian chỉ có một chiều. tính
ba chiều của không gian và một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về
quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
1.4 Tính thống nhất vật chất của thế giới Page 9 of 29 lOMoAR cPSD| 44985297
Thế giới vật chất thể hiện hết sức phong phú đa dạng, song những dạng biểu hiện
của thế giới vật chất đều phản ánh bản chất của thế giới và thống nhất với nhau.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó: •
Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có
trước, tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. •
Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi. •
Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật
chất, có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của
những quy luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật
chất không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển
hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra từ
việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học và cuộc sống hiện
thực của con người kiểm nghiệm. Nó không chỉ định hướng cho con người giải
thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho con người tiếp tục nhận
thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp quy luật. 2. Ý thức 2.1 Ý thức là gì?
Theo tâm lý học thì ý thức được định nghĩa là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất
chỉ có ở con người. Ý thức được hiểu theo định nghĩa của triết học MácLenin là
một phạm trù song song với phạm trù vật chất.
Ý thức là trạng thái có ý thức về một cái gì đó. Cụ thể hơn, đó là khả năng trực
tiếp biết và nhận thức, cảm nhận hoặc nhận thức được các sự kiện. Một định nghĩa
khác mô tả nó là trạng thái trong đó chủ thể nhận thức được một số thông tin khi
thông tin đó trực tiếp có sẵn để thực hiện theo hướng của một loạt các hành động. Page 10 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
Ý thức được xác định là một khái niệm tương đối. Nó có thể tập trung vào một
trạng thái bên trong, chẳng hạn như cảm giác nội tạng, hoặc vào các sự kiện bên
ngoài bằng cách nhận thức cảm tính. Nó tương tự như cảm nhận một cái gì đó,
một quá trình phân biệt với quan sát và nhận thức (bao gồm một quá trình cơ bản
làm quen với các mục mà chúng ta nhận thức được).
Ý thức hoặc “cảm nhận” có thể được mô tả là một cái gì đó xảy ra khi não được
kích hoạt theo những cách nhất định, chẳng hạn như khi màu đỏ là những gì được
nhìn thấy sau khi võng mạc được kích thích bởi sóng ánh sáng. Việc hình thành
khái niệm này được đặt ra trong bối cảnh khó khăn trong việc phát triển một định
nghĩa phân tích về nhận thức hoặc nhận thức cảm tính.
Ý thức cũng được kết hợp với ý thức theo nghĩa là khái niệm này biểu thị một kinh
nghiệm cơ bản như cảm giác hoặc trực giác đi kèm với kinh nghiệm về hiện tượng.
Cụ thể, điều này được gọi là ý thức về kinh nghiệm. Đối với ý thức, nó đã được
mặc định là phải trải qua các cấp độ thay đổi liên tục.
Những ý kiến phổ biến về ý thức cho rằng hiện tượng mô tả một điều kiện nhận
thức về bản thân (tự nhận thức). Lý thuyết hệ thống hiện đại, cung cấp những hiểu
biết sâu sắc về cách thế giới hoạt động thông qua sự hiểu biết rằng tất cả các hệ
thống đều tuân theo các quy tắc của hệ thống, tiếp cận sự tự nhận thức trong tầm
hiểu biết của nó về cách thức hoạt động của các hệ thống sống phức tạp lớn. Theo
Gregory Bateson, ý thức là động lực của sự tự tổ chức và nhận thức là điều cốt
yếu trong sự tồn tại của quá trình này. Lý thuyết hệ thống hiện đại cho rằng con
người, với tư cách là hệ thống sống, không chỉ nhận thức về môi trường mà còn
nhận thức về bản thân, đặc biệt là với khả năng logic và tò mò.
Những nỗ lực để mô tả ý thức bằng các thuật ngữ thần kinh đã tập trung vào việc
mô tả các mạng lưới trong não phát triển nhận thức về trình độ được phát triển bởi
các mạng lưới khác. Khi nhận thức cung cấp các tài liệu mà từ đó người ta phát
triển các ý tưởng chủ quan về kinh nghiệm của họ, người ta nói rằng người ta nhận Page 11 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
thức được trạng thái nhận thức của chính mình. Tổ chức nhận thức về trải nghiệm
bên trong của chính mình được giao một vai trò trung tâm trong việc tự điều chỉnh.
2.2 Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm của chủ nghĩa Lenin thì trong lịch sử triết học, vấn đề nguồn
gốc, bản chất của ý thức là một trong những vấn đề trung tâm của cuộc đấu tranh
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Triết học duy vật biện chứng
khẳng định, ý thức của con người có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. o Mặt tự nhiên
Theo quan điểm của triết học Marx-Lenin, ý thức là một thuộc tính của một dạng
vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
não người. Nếu không có sự tác động của thế giới khách quan vào bộ não người
và không có bộ não người với tính cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ
không có ý thức. Bộ não người và sự tác động của thế giới khách quan vào bộ
não người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là thuộc tính của một dạng
vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người hiện đại là sản phẩm
của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp,
gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ
nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể
trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện.
Cũng theo chủ nghĩa Marx-Lenin, hoạt động ý thức con người diễn ra trên cơ sở
hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người. Sự phụ thuộc của ý thức vào hoạt
động của bộ óc thể hiện ở chỗ khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị
rối loạn. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc người mà không có sự tác động của thế giới
bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức. Phản
ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Phản ánh là năng Page 12 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
lực giữ lại, tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác.
Trong quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của
vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp: 1.
Phản ánh vật lý: Là hình thức phản ánh đơn giản nhất ở giới vô sinh, thể
hiện qua các quá trình biến đổi cơ, lý, hoá. 2.
Phản ánh sinh học: Là những phản ánh trong sinh giới trong giới hữu sinh
cũng có nhiều hình thức khác nhau ứng với mỗi trình độ phát triển của thế giới sinh vật. 3.
Phản ánh ý thức: là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực,
ý thức chỉ nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự
xuất hiện của con người. o Mặt xã hội.
Để ý thức có thể ra đời, bên những nguồn gốc tự nhiên thì điều kiện quyết định
cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò của lao động,
ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.
Sau lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ đó là hai sức kích thích
chủ yếu của sự chuyển biến bộ não loài vật thành bộ não loài người, từ
tâm lý động vật thành ý thức - E
ngelsLà hoạt động đặc thù
của con người, là hoạt động
bản chất người. Đó là hoạt
động chủ động, sáng tạo, có
mục đích. Lao động đem lại
cho con người dáng đi thẳng
đứng, giải phóng hai tay. Page 13 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
Điều này cùng với chế độ ăn
có thịt đã thực sự có ý nghĩa
quyết định đối với quá trình
chuyển hoá từ vượn thành
người, từ tâm lý động vật thành ý thức.
Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài
người, và như thế đến một mức độ và trên một ý nghĩa nào đó, chúng
ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người - E
ngels Việc chế tạo ra công cụ
lao động có ý nghĩa to lớn là
con người đã có ý thức về
mục đích của hoạt động biến
đổi thế giới. Thực chất của
hoạt động lao động là tác
động vào thế giới khách
quan, làm biến đổi thế giới
nhằm thỏa mãn nhu cầu của
con người. Nhờ có lao động,
bộ não con người được phát triển và ngày càng hoàn
thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con
người ngày càng cao. Cũng
là lao động ngay từ đầu đã
liên kết con người lại với Page 14 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
nhau trong mối liên hệ tất
yếu, khách quan. Mối liên hệ
đó không ngừng được củng
cố và phát triển đến mức làm
nảy sinh ở họ một nhu cầu
"cần thiết phải nói với nhau
một cái gì đó". Và ngôn ngữ xuất hiện.
Theo quan điểm của triết học Marx-Lenin thì ngôn ngữ là phương tiện để con
người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư
duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát
triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người.
2.3 Bản chất của ý thức
Ý thức, nói một cách đơn giản nhất, là sự gửi gắm hay nhận thức về sự tồn tại bên
trong và bên ngoài. Bất chấp hàng thiên niên kỷ phân tích, định nghĩa, giải thích
và tranh luận của các triết gia và nhà khoa học, ý thức vẫn còn là điều khó hiểu và
gây tranh cãi, là “khía cạnh quen thuộc nhất và [cũng] bí ẩn nhất trong cuộc sống
của chúng ta”. Có lẽ khái niệm duy nhất được đồng ý rộng rãi về chủ đề này là
trực giác rằng ý thức tồn tại.
Các ý kiến khác nhau về những gì chính xác cần được nghiên cứu và giải thích là
ý thức. Đôi khi, nó đồng nghĩa với tâm trí, và những lúc khác, một khía cạnh của
tâm trí. Trong quá khứ, đó là “cuộc sống bên trong” của một người, thế giới của
nội tâm, của suy nghĩ, trí tưởng tượng và hành động riêng tư. Ngày nay, nó thường
bao gồm bất kỳ loại nhận thức, kinh nghiệm, cảm giác hoặc nhận thức nào.
Nó có thể là nhận thức, nhận thức về nhận thức, hoặc nhận thức về bản thân liên
tục thay đổi hoặc không. Có thể có các cấp độ hoặc trật tự ý thức khác nhau, hoặc Page 15 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
các loại ý thức khác nhau, hoặc chỉ một loại với các tính năng khác nhau. Các câu
hỏi khác bao gồm liệu chỉ con người có ý thức, tất cả các loài động vật, hay thậm
chí toàn bộ vũ trụ. Phạm vi nghiên cứu, quan niệm và suy đoán khác nhau làm dấy
lên nghi ngờ về việc liệu có đúng câu hỏi được đặt ra hay không Đối với bản chất
của ý thức đã được nhận định bằng nhiều ý kiến và quan điểm khác nhau, và chưa
có nhận định chung về bản chất của ý thức.
Theo triết học duy tâm quan niệm: ” Ý thức là một thực thể độc lập, là thực tại duy
nhất, từ đó cường điệu tính năng động của ý thức đến mức coi ý thức sinh ra vật
chất chứ không phải là sự phản ánh của vật chất”.
Theo các nhà triết học duy vật đều thừa nhận vật chất tồn tại khách quan và ý thức
là sự phản ánh sự vật đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lý luận
phản ánh: “về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong
bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của
thế giới khách quan”.
Do đó, để hiểu về bản chất của ý thức cần dựa trên các yếu tố sau:
– Thứ nhất, vât chất và ý thức được chúng ta thừa nhận nhưng giữa chúng có sự
khác nhau mang tính đối lập. Trong đó, vật chất là cái được phản ánh, còn ý thức
là sự phản ánh, là cái phản ánh. Ý thức là hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Trong khi đó, vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài và độc lập với ý thức.
+Thứ hai, những hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan đó chính là ý thứ.
+ Thứ ba ý thức là một hiện tượng xã hội.
2.4 Cấu trúc của ý thức
Ý thức là một cấu trúc tâm lí phức tạp bao gồm nhiều mặt, là một chỉnh thể mang
lại cho thế giới tâm hồn của con người một chất lượng mới. Trong ý thức có ba
mặt thống nhất hữu cơ với nhau, điều khiển hoạt động có ý thức của con người.
o Mặt nhận thức Page 16 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
Các quá trình nhận thức cảm tính mang lại những tài liệu đầu tiên cho ý thức là tầng bậc thấp Của ý thức.
Quá trình nhân thức lí tính là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức của ý thức, đem
lai cho con người những hiểu biết bản chất, khái quát về thực tại khách quan.
Đây là nội dung rất cơ bản của ý thức là hạt nhân của ý thức, giúp con người
hình dung ra trước kết quả của hoạt động và hoạch định kế hoạch hành vi. o
Mặt thái độ của ý thức
Mặt thái độ của ý thức nói lên thái đô lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh giá
của chủ thể đối với thế giới.
o Mặt năng động của ý thức
Ý thức điều khiển, điều chỉnh hoạt đông của con người, làm cho hoạt động của
Con người có ý thức. Đó là quá trình con người vận dụng những hiểu biết và tỏ
thái độ của mình nhằm thích nghi, cải tạo thế giới và cải biến cả bản thân. Mặt
khác, ý thức nảy sinh và phát triển trong hoạt động. Cấu trúc của hoạt động quy
định cấu trúc của ý thức. Vì thế nhu cầu, hứng thú, động cơ, ý chí… đều có vị trí
nhất định trong cấu trúc của ý thức.
2.5 Các cấp độ của ý thức
Căn cứ vào tính tự giác, mức độ sáng tỏ, phạm vi bao quát của tâm lí, người ta phân
chia các hiện tượng tâm lí của con người thành ba cấp độ: • Cấp độ chưa ý thức; •
Cấp độ ý thức và tự ý thức; •
Cấp độ ý thức nhóm và ý thức tập thể.
- Cấp độ chưa ý thức
Trong cuộc sống, cùng với các hiện tượng tâm lí có ý thức, chúng ta thường gặp
những hiện tượng tâm lí chưa có ý thức diễn ra chi phối hoạt động của con người.
Ví dụ: người mắc chứng mộng du vừa ngủ vừa đi trên mái nhà, người say rượu
nói ra những điều không có ý thức, người bị thôi miên, người bị động kinh…
thường có những hành động không ý thức (chưa có ý thức). Hiện tượng tâm lí Page 17 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
“không có ý thức” này khác với từ “vô ý thức” (vô ý thức tổ Chức, vô ý thức tập
thể) mà ta vẫn dùng hàng ngày. ở đây người vô ý thức thể hiện sự thiếu ý thức tôn
trọng tổ chức, tôn trọng kỉ luật, quy định chung của tập thể, anh ta rất có ý thức về
việc làm sai trái của mình. Hiện tượng tâm lí không ý thức, chưa nhận thức được,
trong tâm lí học gọi là vô thức.
Vô thức là hiện tượng tâm lí ở tầng bậc chưa ý thức, nơi mà ý thức không thực
hiện chức năng của mình. Vô thức bao gồm nhiều hiện tượng tâm lí khác nhau của
tầng không (chưa) ý thức: Vô thức ở tầng bản năng vô thức (bản năng dinh dưỡng.
tự vệ sinh dục) tiềm tàng ở tầng sâu, dưới ý thức, mang tính bẩm sinh, di truyền. •
Vô thức còn bao gồm cả những hiện tượng tâm lí dưới ngưỡng ý thức (dưới
ý thức hay tiền ý thức).
Ví dụ: Có lúc ta cảm thấy thinh thích một cái gì đó, nhưng không hiểu rõ vì sao;
hoặc có lúc thích, có lúc không thích, khi gặp điều kiện thì bộc lộ ý thích. khi
không có điều kiện thì thôi. •
Hiện tượng tâm thế. Hiện tượng tâm lí dưới ý thức, hướng tâm lí sẵn sàng
chờ đón, tiếp nhận một điều gì đó, ảnh hưởng đến tính linh hoạt và tính ổn
định của hoạt động. Cũng có lúc tâm thế phát triển xâm nhập cả vào tầng ý
thức. Ví dụ: tâm thế yêu đương của đôi bạn trẻ đang say mê nhau, tâm thế
nghỉ ngơi của người cao tuổi…
Có những loại hiện tượng tâm lí vốn là có ý thức nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần
chuyển thành dưới ý thức. Chẳng hạn một số kĩ xảo, thói quen ở con người do
được luyện tập đã thành thục trở thành “tiềm thức”, một dạng tiềm tàng sâu lắng
của ý thức Tiềm thức thường trực chỉ đạo hành động, lời nói, suy nghĩ… của một
người tới mức độ không cần ý thức tham gia.
- Cấp độ ý thức và tự ý thức
Ở cấp độ ý thức như đã nói ở trên, con người nhận thức, tỏ thái độ có chủ tâm
và dư kiến trước được hành vi của mình, làm cho hành vi trở nên có ý thức.
ý thức thể hiện trong ý chí, trong chú ý (sẽ trình bày sau ở phần sau). Page 18 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297 •
Tư ý thức là mức độ Phát triển cao của ý thức. Tự ý thức bắt đầu hình thành
từ tuổi lên ba. Thông thường, tự ý thức biểu hiện ở các mặt sau: + Cá nhân tự
nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội.
+ có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, tự đánh giá; + Tự
điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác; +
Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.
- Cấp độ ý thức nhóm và ý thức tập thể
Trong mối quan hệ giao tiếp và hoạt động, ý thức của cá nhân sẽ Phát triển dần
đến cấp độ ý thức xã hội, ý thức nhóm, ý thức tập thể (ví dụ: ý thức về gia đình, ý
thức về dòng họ, ý thức dân tộc, ý thức nghề nghiệp…). Trong cuộc sống, khi con
người hành động, hoạt động với ý thức cộng đồng, ý thức tập thể, mỗi con người
có thêm sức mạnh tinh thần mới mà người đó chưa bao giờ có được khi anh ta chỉ
hoạt động với ý thức cá nhân riêng lẻ.
Tóm lại, các cấp độ khác nhau của ý thức luôn tác động lẫn nhau, chuyển hóa và
bổ sung cho nhau làm tăng tính đa dạng và sức mạnh của ý thức. Ý thức thống
nhất với hoạt động; hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động. ý thức chỉ
đạo, điều khiển, điều chỉnh hoạt động, làm cho hoạt động có ý thức. 2.6 Vai trò của ý thức
Vai trò của ý thức có một tầm quan trọng đối với thực tiễn cuộc sống và khẳng
định vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức, còn ý thức chỉ
là sản phẩm, là sự phản ánh chân thật về thế giới khách quan. Và hành động của
con người chỉ xuất phát từ những yếu tố tác động của thế giới khách quan. Điều
này đã tạo cho con người sự thông minh, nhạy bén để có thể ứng phó kịp thời
với tác động của môi trường xung quanh. Từ đó giúp tạo bên các giá trị thực tiễn
cho đời sống xã hội, nhiều công trình kiến trúc được tạo nên, nhiều phát minh
khoa học được hình thành do ý thức của con người dự đoán được những thiên
tai, hay những thay đổi của tương lai .... Page 19 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
Nói tới vai trò của ý thức thực chất là nói tới vai trò của con người, vì ý thức tự
nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực cả. Do đó, muốn thực hiện tư
tưởng phải sử dụng lực lượng thực tiễn. Nghĩa là con người muốn thực hiện quy
luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải
có ý chí và phương pháp để tổ chức hành động. Vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ
đạo các hoạt động của con người, có thể quyết định làm cho con người hành động
đúng hay sai, thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
Do vậy, con người càng phản ánh đầy đủ, chính xác thế giới khách quan thì càng
cải tạo thế giới có hiệu quả. Vì thế, phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý
thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác động, cải tạo thế giới khách quan.
II. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ
này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý
thức, song ý thức không hoàn toàn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
1. Vai trò của vật chất và ý thức đối với nhau
1.1 Vai trò của vật chất với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật
chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức vì:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người nên chỉ
khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới
vật chất thì con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất,
là sản phẩm của thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát
triển hết sức lâu dài của khoa học về giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học
chứng minh quan điểm: vật chất có trước, ý thức có sau. Page 20 of 29
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)