-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Quan điểm của Đảng Cộng sản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam - Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới.
Môn: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam(LLLSD1101)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
- - - - - -
BÀI TẬP LỚN MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG Đề bài:
Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở đất nước ta trong thời kỳ từ năm 1986 đến nay. Nhóm thực hiện: 01
Lớp: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Lớp học phần: 21
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng Thuận
Hà Nội, tháng 1/2022 1 MỤC LỤC
A. Cơ sở khoa học……………………………………………………………… 4
I. Cơ sở lý luận………………………………………………………………………… 4
1. Khái niệm Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa………………………………..…… 4
2. Vai trò của Công nghiệp hóa – Hiện đại
hóa…………………………………….4
II. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………………………… 6 1. Bối cảnh Quốc
tế………………………………………………………………..6 2. Bối cảnh trong
nước……………………………………………………………...
B. Quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về CNH – HĐH đất nước từ 1986 tới
nay…………………………………………………………………………...7
I. Giai đoạn 1986 – 1996……………………………………………………………… 12
1. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)…………………………. ….12
2. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991)
……………………………..14
3. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1996)
………………………………..16
II. Giai đoạn từ sau năm 1996 tới nay………………………………………………… 18
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001-2005)…………………………… 18
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ( 2006-2010)…………………………… 21 2
3. Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ XI (2011-2015)
…………………………….23
4. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016-2020)…………………………… 27
5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021)………………………………… 32
III. Kết luận…………………………………………………………………………...37
C. Đánh giá quá trình đổi mới quan điểm của
Đảng………………………..40
I. Kết quả đạt được……………………………………………………………………40
1. Tổng quan……………………………………………………………………..40
2. Thành tựu……………………………………………………………………...41
II. Bài học kinh nghiệm rút ra được về đổi mới CNH – HĐH ………………………… 42 1. Hạn chế - nguyên
nhân………………………………………………………...42 2. Rút ra kinh nghiệm lịch
sử……………………………………………………..44
III. Liên hệ thực tiễn đối với sinh viên hiện nay trong công cuộc CNH – HĐH đất
nước………………………………………………………………………..................46
1. Vai trò của sinh viên…………………………………………………………..46 2. Khó khăn, thách
thức…………………………………………………………..47 3. Phương pháp, giải
pháp………………………………………………………..47 3 A. CƠ SỞ KHOA HỌC. I. Cơ sở lý luận.
1. Khái niệm Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Từ những năm 90 của thế kỷ XX, sự phát triển của xu thế toàn cầu hóa và kinh
tế tri thức đã làm thay đổi trình tự tiến hành công nghiệp hóa của các nước. Các nước
công nghiệp hóa sau không thể tiến hành công nghiệp hóa tuần tự từ cơ khí hóa đến tự
động hóa như những nước đi trước, mà phải kết hợp cả hai quá trình đó. Bởi vậy, tại
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1994), Đảng ta xác
định quan niệm: Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Có thể coi đây là quan niệm mới,
quan niệm công nghiệp hóa trong thời kỳ hiện đại. Quan niệm công nghiệp hóa, hiện
đại hóa được Hội nghị đưa ra: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển
đổi một cách căn bản và toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách
phổ biến sức lao động cùng với phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên
sự phát triển của công nghiệp và khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Quan niệm này của Đảng ta cho thấy: Quá trình công nghiệp hóa không chỉ là
phát triển công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến
bộ; đồng thời, phải áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để tạo ra
những sản phẩm mang làm lượng khoa học công nghệ cao thay thế cho những sản phẩm truyền thống.
2. Vai trò của công nghiệp hóa và hiện đại hóa
2.1 Tính tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
Muốn cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, đất nước từng bước
phát triển tiến lên CNXH, đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiên
tiến, chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất với năng suất lao động xã
hội ngày càng cao. Mà muốn có lực lượng sản xuất hùng hậu và năng suất lao động xã
hội cao thì không thể chỉ dựa vào nền nông nghiệp lạc hậu, sử dụng lao động thủ
công; trái lại phải phát triển mạnh công nghiệp cùng với đổi mới công nghệ ngày càng
hiện đại tạo nền tảng cho sự phát triển nhanh, hiệu quả cao và bền vững cho toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác, chúng ta phải tiến hành CNH theo hướng HĐH.
CNH là một giai đoạn phát triển tất yếu đối với quốc gia muốn tiến lên từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Đây là xu thế chung của lịch sử. 4
Đối với Việt Nam, CNH - HĐH nền kinh tế là một đòi hỏi tất yếu của việc phát
triển mô hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Quan điểm này khẳng định
CNH - HĐH là vấn đề quan trọng đặc biệt, là bước phát triển tất yếu đối với nước ta
khi nền kinh tế vẫn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé,
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa xây dựng
được bao nhiêu, kinh tế tuy phát triển khá nhưng năng suất, chất lượng và hiệu quả
còn rất thấp, còn nhiều yếu tố chưa vững chắc, khả năng cạnh tranh còn quá thấp so
với nhiều nước xung quanh. Thực tế này cho thấy nguy cơ tụt hậu xa hơn vẫn còn lớn
cho nên chỉ có CNH - HĐH mới là con đường cơ bản khắc phục được những yếu kém
của nền kinh tế nước ta, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ được độc lập chủ quyền,
sớm thoát khỏi sự đi xuống của kinh tế và đảm bảo định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, thực tiễn đổi mới kinh tế ở Việt Nam đã chỉ rõ sự nghiệp đổi mới là
sự nghiệp của quần chúng, CNH - HĐH cũng là sự nghiệp của toàn dân, vì lợi ích của
nhân dân và do dân thực hiện. Quần chúng nhân dân khi nhận thức đầy đủ lợi ích của
CNH - HĐH họ sẽ phấn đấu vươn lên học tập để nâng cao trình độ văn hóa, kỷ luật,
tay nghề, sự sáng tạo, sức lao động từ đó làm chủ và thúc đẩy tiến trình CNH - HĐH.
2.2 Vai trò của CNH- HĐH đối với tiến trình xây dựng CNXH ở Việt Nam
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối
công nghiệp hoá và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã chứng minh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa sẽ có những vai trò to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đó là:
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta trước hết là quá trình thực hiện mục tiêu
xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công
nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể
hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình tạo ra những điều kiện vật chất - kỹ thuật
cần thiết về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để không ngừng tăng năng suất
lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn
hoá cho nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. 5
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo ra cơ sở vật chất để làm biến đổi về chất lực
lượng sản xuất, nhờ đó mà nâng cao vai trò của người lao động - nhân tố trung tâm
của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa; tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng và phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là cơ sở kinh tế để củng cố và phát triển khối liên
minh vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là góp phần tăng cường quyền
lực, sức mạnh và hiệu quả của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát
triển, thúc đẩy quá trình quy hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập
trung làm cho quan hệ kinh tế giữa các vùng, các miền trở nên thống nhất cao hơn.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát triển và hiện đại
hoá nền quốc phòng - an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và an ninh gắn liền với sự
nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hóa tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng bộ về
kinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành công của sự nghiệp
công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con
đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công
nghiệp hoá kinh tế được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Bối cảnh quốc tế
Từ thập kỷ 70, thế kỷ XX, sự tiến bộ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đã thúc đẩy lực lượng sản xuất thế giới phát triển mạnh; Nhật Bản
và Tây Âu vươn lên trở thành hai trung tâm lớn của kinh tế thế giới; xu thế chạy đua
phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hoà hoãn giữa các nước lớn. Với thắng lợi của
cách mạng Việt Nam (năm 1975) và các nước Đông Dương, hệ thống xã hội chủ nghĩa
đã mở rộng phạm vi, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh. Đảng ta nhận
định: Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh không ngừng; phong 6
trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mãnh liệt.
Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế – xã hội ở các
nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện sự trì trệ và mất ổn định. Tình hình quốc tế diễn biến hết sức phức tạp:
Nhiều nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô tiến hành cải cách nhưng
không thành công. Liên Xô, thành trì của phe xã hội chủ nghĩa bị tan rã.
Nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác bước đầu có những chuyển đổi nền kinh tế
và đường lối phát triển,...
Tình hình khu vực Đông Nam Á cũng có những chuyển biến mới. Sau năm
1975, Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á, khối quân sự SEATO tan rã; tháng 2-1976, các
nước ASEAN ký hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp ước Bali), mở
ra cục diện hòa bình, hợp tác trong khu vực
Bối cảnh quốc tế những năm cuối thế kỷ XX có tác động đến công nghiệp hóa
hiện đại hóa ở nước ta trong thời kỳ đổi mới:
Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới diễn ra với quy mô
ngày càng lớn và nhịp độ cao đã thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập của nước ta, cho
phép nước ta tranh thủ được các nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ và thị trường)
để phát triển kinh tế-xã hội. Bên cạnh đó, cũng đặt nước ta vào thế cạnh tranh quyết
liệt bởi các nền kinh tế phát triển hơn trong khu vực và thế giới nên cần có những
chính sách thích hợp nhằm phát triển ổn định bền vững về mặt Kinh tế - Xã hội.
Trước tình hình đó, Việt Nam đã trở thành thành viên của ASEAN từ tháng 7-
1995. ASEAN đã trở thành một liên kết khu vực gồm 10 nước và là nhân tố quan
trọng để thúc đẩy sự hợp tác toàn diện giữa các nước trong khối. Điều đó đã cho phép
nước ta đẩy mạnh buôn bán, mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực trong đầu
tư, khai thác tài nguyên, chuyển giao KHKT, giao lưu văn hóa,…. Giải quyết các vấn
đề về Biển Đông và sông Mê Kông. Tuy nhiên, nước ta cũng chịu sự cạnh tranh bởi
các nước trong khu vực về một số mặt hàng xuất khẩu.
Việc phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ cho phép nước ta tận dụng
các nguồn lực bên ngoài, tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến để
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Tiếp thu khoa học và công nghệ tiên tiến nhưng cũng đặt ra thách thức về nguy
cơ tụt hậu nếu chúng ta không nắm bắt cơ hội phát triển 7
2. Bối cảnh trong nước
2.1. Chủ trương, quan điểm đổi mới của Đảng về công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước từ 1975 - 1986. a. Chủ trương
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả
nước độc lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam từ đây có một sự thay đổi lớn: đất
nước thoát khỏi thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Nhiệm vụ chính lúc này là
khôi phục, ổn định xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện hòa bình. Tình
hình đó đã đặt ra một yêu cầu là cần phải có những chủ trương, chính sách, biện pháp
phù hợp với tình hình mới của đất nước để thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Trên
thực tế, các chủ trương, chính sách, biện pháp của Đảng ở một số mặt trong thời kỳ
này chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, đặc biệt là những chủ trương, đường lối
trong lĩnh vực kinh tế (những vấn đề liên quan đến lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất).
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào thời kỳ
khôi phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở
vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu
cầu đời sống và tích luỹ,… Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình
hình trên là nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có
nhiều hạn chế,…Nhưng những điểm bất hợp lý trong quan hệ sở hữu Đảng lại chưa
chỉ ra. Ở miền Bắc, Đảng chủ trương củng cố và hoàn thiện chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương
tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Chính sách cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế ở đây là: sử dụng, hạn chế và cải tạo
công nghiệp tư bản tư doanh chủ yếu bằng hình thức công tư hợp doanh; chủ trương
hợp tác hóa nông nghiệp; cải tạo thủ công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ
yếu; cải tạo thương nghiệp nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần sang sản xuất …
Tại Đại hội IV, Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý
kinh tế, nhằm vào những vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong phạm vi cả nước. “Tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất công nghiệp,
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp,… trong cả nước theo hướng sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa, xoá bỏ tình trạng phân tán, cục bộ, hình thành những ngành kinh tế – kỹ
thuật thống nhất và phát triển trên phạm vi cả nước…”. Đồng thời với việc tổ chức lại
nền sản xuất, Đảng chủ trương cải tiến phương thức quản lý kinh tế, lấy kế hoạch hoá 8
làm chính. Kế hoạch hoá trên cơ sở đề cao trách nhiệm và phát huy tính sáng tạo của
các ngành, các địa phương và các cơ sở. Trong quản lý kinh tế, Đảng cũng đã nhấn
mạnh tới việc phải coi trọng quy luật giá trị; phải thực hiện chế độ hạch toán kinh tế;
sử dụng tốt thị trường;… Nếu so sánh với công tác quản lý kinh tế được đề ra tại Đại
hội III, thì tới Đại hội IV lần này công tác này đã có những bước chuyển biến nhất
định, nhất là khâu kế hoạch hoá. Kế hoạch hoá không còn được nhấn mạnh là “pháp
lệnh” như tại Đại hội III, mà đã chú ý hơn tới tính sáng tạo của các ngành, các địa
phương và các cơ sở. Tuy nhiên, việc thực hiện công tác quản lý kinh tế còn nhiều
khuyết điểm, đặc biệt là không gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế, do đó kế hoạch
chưa thực sự xuất phát từ thực tế lao động sản xuất, thiếu tính khả thi. Đảng vạch rõ:
“về tổ chức thực hiện, khuyết điểm, sai lầm của chúng ta là quan liêu, xa rời thực tế,
không nhạy bén với cuộc sống; là bảo thủ, trì trệ, thiếu trách nhiệm trong quản lý kinh
tế”. Trong khi đó, cơ chế quản lý quan liêu bao cấp vẫn tiếp tục được duy trì đã ảnh
hưởng không nhỏ đến nền sản xuất, nhất là trong việc phân phối, lưu thông. Nhà nước
đóng vai trò điều tiết giá cả nên đã không kích thích được sản xuất kinh doanh phát
triển. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với đặc điểm “tách rời việc trả công lao động
với số lượng và chất lượng lao động”, kết hợp với nguyên tắc “phân phối theo lao
động” đã làm cho chế độ phân phối mang tính bình quân, do đó không kích thích được
sự nhiệt tình và khả năng tìm tòi sáng tạo của người lao động.
Tuy ở Đại hội V này Đảng đã có một số điều chỉnh tương đối hợp lý, nhưng
nhìn chung những điều chỉnh đó so với yêu cầu của thực tế vẫn còn một khoảng cách
khá xa, nhiều điểm bất hợp lý vẫn còn tồn tại trong đường lối kinh tế của đảng, quá
trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa vẫn
tiếp tục được tiến hành theo hướng mà Đại hội IV đã đề ra. Đảng chủ trương: đối với
công nghiệp tư bản tư doanh vừa sử dụng vừa cải tạo dưới hình thức công tư hợp
doanh hoặc các hình thức khác, đối với tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và các
ngành dịch vụ, tùy theo đặc điểm của từng ngành, nghề mà tổ chức các hình thức làm
ăn tập thể hay kinh doanh cá thể… Như vậy, trong một thời gian nhất định, ở miền
Bắc nước ta có 3 thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể và cá thể), ở miền Nam có 5
thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư nhân).
Mặc dù thực tiễn đất nước sau nhiều năm thực hiện chủ trương cải tạo theo hướng như
trên là không hợp lý, không đảm bảo việc phát triển sản xuất, nhưng những chủ
trương được đề ra tại Đại hội V về việc cải tạo các thành phần kinh tế về cơ bản vẫn
giống như tại Đại hội IV. Tuy công cuộc cải tạo đã được tiến hành trong nhiều năm,
nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương và
chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, trong việc tổ chức
thực hiện còn mắc quá nhiều sai lầm, tư tưởng nóng vội muốn xoá bỏ ngay chế độ tư 9
hữu để mau chóng xác lập một quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến “cách
làm thường theo kiểu chiến dịch, gò ép, chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng và
hiệu quả, sau những đợt làm nóng vội, lại buông lỏng. Do đó, không ít tổ chức kinh tế
được gọi là công tư hợp doanh, hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất, chỉ có hình thức,
không có thực chất của quan hệ sản xuất mới” b. Quan điểm
Thứ nhất, thực hiện công cuộc đổi mới có nghĩa là thay đổi phương thức, chiến
lược đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng không xa rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, mà thực
hiện mục tiêu ấy bằng phương thức, chiến lược mới. Đây là quan điểm cơ bản nhất, là
nền tảng cho các quan điểm khác. Thực tế cho thấy, ở Liên Xô và các nước Đông Âu
trước đây, thực hiện cải tổ mà từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì sẽ dẫn đến mất
phương hướng và hỗn loạn.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu phải giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập, vì đây là nhân tố tiên quyết để thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình thực hiện cải tổ, ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đã quyết định xóa bỏ
Điều 6, Hiến pháp Liên Xô về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực chất, đó
không chỉ là sự tước quyền lãnh đạo của Đảng về mặt pháp lý, thừa nhận đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập, tạo điều kiện cho các lực lượng chính trị khác vươn lên đoạt
quyền, mà còn là sự từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện mục tiêu xã hội chủ nghĩa và giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản thì tất yếu phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng, bởi chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là nền tảng tư tưởng của Đảng, mà còn là
cơ sở để xây dựng hệ tư tưởng của toàn xã hội và nhờ đó mới có thể thực hiện được
mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, nếu từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa thì tất yếu
dẫn đến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp nhận hệ tư tưởng tư sản, như Goóc-
ba-chốp đã thực hiện trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô trước đây.
Thứ tư, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã
hội nói chung, nhất là đối với lực lượng vũ trang (quân đội và công an). Đảng phải
lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối và trực tiếp lực lượng vũ trang. Bởi vì, nếu lực lượng vũ
trang bị trung lập hóa, chỉ có trách nhiệm bảo vệ độc lập chủ quyền và an ninh quốc
gia, không phụ thuộc vào đảng phái nào, thì thực chất là tước quyền lãnh đạo của
Đảng đối với lực lượng vũ trang. Cách thức này đã được áp dụng ở Liên Xô thời kỳ cải tổ. 10
Thứ năm, hội nhập quốc tế, nhưng độc lập về chính trị, giữ vững chủ quyền
quốc gia, tiếp tục thực hiện con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn gần 30
năm qua đã chứng minh đó là quan điểm đúng đắn. Chúng ta đã làm bạn với nhiều
nước trên thế giới và thiết lập quan hệ ngày càng tốt đẹp, nhân dân ta giao lưu với
nhân dân các nước, lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta được các nước trân trọng, sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ. Thực
tiễn cũng cho thấy, việc thực hiện công cuộc cải tổ của Liên Xô trước đây có sự chi
phối và sao chép tư tưởng chính trị từ bên ngoài, vì vậy đã gây nên sự sụp đổ chế độ
chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ sáu, công cuộc đổi mới cần có những bước đi thích hợp để bảo đảm vừa
đổi mới, vừa ổn định. Đổi mới phải bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế, sau đó đến đổi mới về
chính trị. Ngay trong đổi mới kinh tế cũng đi từ đổi mới lĩnh vực nông nghiệp rồi đến
các lĩnh vực khác. Trong đổi mới chính trị, việc xác định xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đã tác động đến đổi mới toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy,
gần 30 năm qua đất nước ta vừa ổn định, vừa phát triển. Công cuộc cải tổ của Liên Xô
trước đây đã thực hiện một cách cấp thời, thiếu trình tự, cụ thể là: ban đầu đổi mới
doanh nghiệp, rồi đến 100 ngày thực hiện tư nhân hóa, áp dụng nền dân chủ tư sản
vào xã hội Xô-viết,... Kết cục, dẫn đến hỗn loạn và sụp đổ chế độ chính trị - xã hội xã hội chủ nghĩa.
2.2. Kết quả và hạn chế. a. Hạn chế
Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn lạc hậu, những ngành công nghiệp then chốt còn
nhỏ lẻ, chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân.
Nền kinh tế nước ta vô cùng khó khăn. Bị các nước bao vây cấm vận. Liên Xô
và Đông Âu bắt đầu cải cách mở cửa nên cắt giảm viện trợ. Trong nước sản xuất đình
đốn, đời sống nhân dân đói nghèo đến cùng cực. Tiềm lực kinh tế vô cùng nhỏ bé.
Lực lượng sản xuất nông nghiệp mới chỉ bước đầu phát triển, nông nghiệp chưa
đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội
Nhiệm vụ mục tiêu do đại hội IV và V mà Đảng đề ra vẫn chưa hoàn thành, đất
nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ những năm 70 và kéo dài trong những
năm với các biểu hiện như: 11
- Sản xuất tăng trưởng chậm, không ổn định
- Nền kinh tế luôn trong tình trạng thiếu hụt, không có tích lũy
- Lạm phát tiếp tục tăng cao, kéo dài trong nhiều năm
- Đất nước bị bao vây, cô lập, đời sống nhân dân khó khăn, lòng tin đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ bị giảm sút nghiêm trọng b. Kết quả
Trước tình hình đó, Tổng Bí thư Trường Chinh tiến hành các cuộc khảo sát
thực tế và tập hợp các nhà khoa học để tư vấn. Từ đó nhận ra, đã đến lúc phải đổi mới
tư duy về lý luận cũng như tư duy kinh tế. Đó là phải xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp,
phải có cơ chế tự hạch toán, tự chủ tài chính, phải bắt đầu áp dụng nền kinh tế có sự quản lý của nhà nước.
Đại hội Đảng lần thứ 6 (tháng 12 năm 1986), khi đề ra đường lối đổi mới, Đảng
bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, mà “trước hết là tư duy kinh tế”. Kinh tế được điều tiết
theo chuyển động thị trường - vấn đề tưởng như là nguyên lý nhưng đặt vào bối cảnh
khởi động Đổi mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã
hội, mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ và hiện đại của những chủ
trương chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.
B. Quá trình đổi mới quan điểm của đảng về CNH – HĐH đất nước từ 1986 đến nay.
I. Giai đoạn 1986 – 1996.
1. Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986)
Trên thế giới, từ giữa thập kỷ 80 thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ hiện đại phát triển mạnh, tác động lớn đến thế giới. Quá trình toàn cầu hóa về
kinh tế xuất hiện và đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước
XHCN đều tiến hành cải tổ, cải cách.
Tại Việt Nam, đất nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt
được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa
có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Những
mất cân đối trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ sản xuất của xã hội chủ
nghĩa chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh bị suy yếu. Đời
sống nhân dân nhất là công nhân viên chức, lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn. 12
Nhìn chung, Việt Nam chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần
thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Nguyên nhân được chỉ ra là khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất
nước, trong việc xác định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trong 5 năm 1976-1980, trên thực tế đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá
trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công
tác cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế không còn phù hợp.
Trong 5 năm 1981-1985, đã không nghiêm chỉnh thực hiện những kết luận đúng đắn
của Đại hội lần thứ V của Đảng về cụ thể hoá đường lối kinh tế trong chặng đường
đầu tiên, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí
cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế.
Thực trạng đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và bức thiết là
phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) đã phân tích kỹ tình hình
trong và ngoài nước và dựa trên những kết quả bước đầu trong đổi mới từng mặt, từng
lĩnh vực ở giai đoạn 1975- 1986 đã quyết đổi mới toàn diện đường lối xây dựng, bảo
vệ và phát triển đất nước. Trong đó, về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội
xác định: “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những
tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường tiếp theo”. Đảng ta đặt ra nhiệm vụ cần thiết phải đổi mới nhận thức và lý luận
để tổ chức thực tiễn về CNH. Nội dung đổi mới là chuyển hướng chiến lược CNH từ
lựa chọn mô hình CNH hướng nội (thay thế nhập khẩu) trước đây sang mô hình CNH
hỗn hợp (hướng về xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu) đã và đang được áp dụng
phổ biến và khá thành công tại nhiều nước châu Á với chủ trương “lấy nông nghiệp và
công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm” thay vì “ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng” ở giai đoạn trước.
Đại hội VI của Đảng đã cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên là thực hiện 3 chương trình lương thực, thực
phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu trong những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ. Xây dựng và tổ chức thực hiện ba chương trình về lương
thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm đạt mục tiêu dưới đây khi
kết thúc chặng đường đầu tiên: 13
- Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách ổn
định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ
tái sản xuất sức lao động.
- Đáp ứng được nhu cầu của nhân dân về những hàng tiêu dùng thiết yếu.
- Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu
để đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và
những hàng hoá cần thiết.
Ba chương trình này định hướng cho việc sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ
cấu hợp lý, trước hết là bố trí lại cơ cấu sản xuất và điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư nhằm
khai thác có hiệu quả khả năng lao động, đất đai và cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có.
Nhận thức được bối cảnh mới của đất nước, đồng thời đón bắt cơ hội phát triển, từ
kinh nghiệm của những nước đi trước, lý luận về CNH nền kinh tế quốc dân của Đảng
ta đã có sự điều chỉnh. Bên cạnh việc tập trung đầu tư, giải quyết vấn đề cấp thiết là
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng, Đảng ta chủ trương gắn CNH với HĐH,
phát triển ngành kinh tế dịch vụ và phát triển kinh tế vùng.
Như vậy, đường lối chiến lược của Đảng coi Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trọng
tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là không đổi, nhưng thay vì dồn
sức, tập trung trực diện vào thực hiện CNH như trước đây, Đảng quan tâm nhiều hơn
và trước tiên đến khâu tạo dựng tiền đề, cơ sở của CNH. Đây là sự chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược của Đảng về CNH. Là điểm khởi đầu hết sức quan trọng cho quá trình
đổi mới tư duy về công nghiệp hóa ở Việt Nam.
2. Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến
hành trong bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những diễn biến phức tạp. Đó là sự
khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự chống
phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng sản,
những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã
hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên
thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân Việt Nam.
Đất nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các lực lượng
thù địch ở cả trong và ngoài nước. Tình hình kinh tế và đời sống của nhân dân vẫn còn
khó khăn, đất nước vẫn trong tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Tuy nhiên, công
cuộc đổi mới được Đảng ta đề ra từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), bước đầu đã đạt
được những thành tựu đáng kể, nhờ đó mà nước ta đã đứng vững và tiếp tục phát triển. 14
Đại hội VII đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
trải qua nhiều chặng đường; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc cần nắm vững 7 phương hướng cơ bản. Một trong số đó là phát triển lực lượng
sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một
nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội
và cải thiện đời sống nhân dân. Như vậy, Đại hội VII của Đảng (năm 1991) tiếp tục có
những nhận thức mới, ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII(1-1994), lý luận mới
về CNH có sự thay đổi căn bản. Đảng ta chủ trương “công nghiệp hóa phải đi đôi với
hiện đại hóa”, phải “đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước” với mục tiêu được xác định là nhằm tạo thêm nhiều công ăn việc làm, đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Quan điểm CNH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên CNXH nay
được xác định lại cho đúng và sát thực hơn. Sở dĩ như vậy, là vì “công nghiệp hóa và
hiện đại hóa là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước chung
quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định
hướng phát triển xã hội chủ nghĩa”. CNH thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của CNXH. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất
công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn
bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của
toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình thực hiện, phải kết hợp những bước tiến
tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành
những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học và công nghệ thế giới.
Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VII(7-1994), lý luận về CNH của Đảng ta tiếp
tục được bổ sung, làm sáng tỏ và đi vào thực chất hơn. Đại hội nêu rõ quan niệm về
CNH, HĐH đất nước như sau:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và
tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao” 15
Định nghĩa đã phản ánh được phạm vi rộng lớn của CNH, HĐH; gắn CNH với
HĐH; xác định được vai trò của khoa học, công nghệ trong quá trình này; chỉ ra cái
cốt lõi của CNH là cải biến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại để đạt năng xuất lao động cao...Định nghĩa trên đã đánh dấu
bước phát triển vượt bậc trong nhận thức của Đảng về CNH trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Đồng thời tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VII cũng xác định rõ mục tiêu của
CNH, HĐH với hai tầm nhìn:
Trong dài hạn: thông qua CNH, HĐH, phấn đấu tạo ra một trình độ phát triển
mới về kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố quốc phòng - an ninh, nâng cao khả
năng hợp tác phát triển với bên ngoài.
Trong ngắn hạn: CNH, HĐH phải nhằm đạt và vượt các mục tiêu đã xác định
trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000, chuẩn bị những tiền đề cần
thiết cho bước phát triển cao hơn trong thập kỷ sau, mức tăng tổng sản phẩm trong
nước (GDP) từ 2 đến 2,5 lần so với năm 1990, trong đó công nghiệp tăng bình quân
hằng năm 13%-15%, đưa tỷ trọng công nghiệp trong GDP lên trên 30% vào năm 2000(8).
Quan điểm CNH, HĐH ở Việt Nam được gắn với các nội dung cụ thể nhằm
định hướng đúng và chỉ đạo tốt việc tổ chức thực hiện: đầu tư chiều sâu để khai thác
tối đa năng lực sản xuất hiện có; ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu
hồi vốn nhanh, đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có
hiệu quả; tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm;
quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước; có
chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn.
Như vậy, Đại hội VII đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong nhận thức của
Đảng về CNH, HĐH trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
3. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) 3.1. Bối cảnh chung Quốc tế: 16
- Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến CNXH tạm thời
lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại;
loài người vẫn đang trong thời đại quá độ lên CNXH.
- Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi, nhưng xung đột vũ trang,
chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
- Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao. Trong nước:
- Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước đã đạt những
thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân
được cải thiện. Dân chủ được phát huy. Lòng tin của nhân dân đối với chế độ
và tiền đồ của đất nước, với Đảng và Nhà nước được khẳng định. Nước ta đã ra
khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
3.2. Quan điểm của Đảng về CNH - HĐH đất nước
Với chủ đề “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.”, Ðại hội tổng kết 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, 5 năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội VII của Ðảng, đề ra mục tiêu, phương
hướng, giải pháp thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bổ
sung, sửa đổi Ðiều lệ Ðảng.
Đại hội VIII nhận định: Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá
đô ˆ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển
sang thời kỳ mới: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tại Đại hội VIII,
Đảng ta xác định: Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta trong thời kỳ mới của sự
nghiệp xây dựng và bảo vê ˆ tổ quốc mà nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Ở đây công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo quan niệm hiện
đại mà Đảng ta xác định là: Quá trình chuyển đổi một cách căn bản và toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với phương tiện,
phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và khoa học
công nghê, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Từ quan niệm trên, Đảng ta xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hê ˆ sản xuất tiến bô ˆ phù hợp với trình đô ˆphát triển của 17
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc,
dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Đồng thời, Đại hội VIII của Đảng
xác định mục tiêu đến năm 2020 là ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
Đại hội cũng đã nêu lên các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Đại hội nêu các quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với
tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không
ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện
đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp
công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại
ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát
triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa
năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ,
công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng
một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi
nhọn trong từng bước phát triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh
vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của
mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn, tạo điều kiện
cho các vùng đều phát triển.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta
sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước 18
Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị và sự hợp
tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận
mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỷ XXI.
II. Giai đoạn từ sau 1996 - 2021
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001 - 2005) 1.1. Bối cảnh Quốc tế:
Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế khách quan, lôi cuốn
các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh
tranh và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt và công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học, tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp, thúc đẩy so phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu
kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong nước:
Sau 15 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế
và lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó, chúng ta còn
phải đối phó với những thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng quan liêu,
“diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra.
1.2. Quan điểm của Đảng về CNH - HĐH đất nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đi sâu phân tích những đặc điểm của thế
kỷ XX, với những dấu ấn sâu sắc trong lịch sủ loài người và dự báo tình hình thế giới
những thập kỷ đầu thế kỷ XXI. Đại hội khẳng định những thắng lợi to lớn mà nhân
dân ta đã giành được trong hơn 70 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, đưa nước ta “từ
một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát
triển theo con đường xã hội chủ nghĩa”, quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại
hội cũng tiến hành kiểm điểm, đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm (1996 -
2000), 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 -
2000), nêu lên những thành tựu to lớn cũng như những yếu kém, khuyết điểm của 15 19
năm đổi mới 1986 - 2000. Từ đó hoạch định đường lối cho sự phát triển của đất nước
trong những năm 2001- 2005 và 2001-2010.
Với chủ đề “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”,
Ðại hội thông qua đường lối phát triển kinh tế là: Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi
trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân. Trong 5 năm tới (2001 - 2005), lấy phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là nhiệm vụ trung tâm, với những chủ trương:
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn
thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế
của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là
công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, ứng dụng những thành tựu mới về khoa
học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Coi phát triển giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mọi hoạt động kinh tế
được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh.
Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Tiếp tục
phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng
kinh tế và xã hội ở nông thôn. nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống
nông dân và dân cư ở nông thôn.
Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, vừa đi nhanh
vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao. Phát triển mạnh
công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, da - giầy, một số sản phẩm cơ khí, 20
điện tử, công nghiệp phần mềm... Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả
thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính - viễn thông, du lịch, tài chính,
ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường...
Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng: giao
thông, điện lực, thông tin, thủy lợi, cấp nước, thoát nước...
Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các
thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn.
2. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006-2010).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra trong thời điểm lịch sử
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và
lãnh đạo đã trải qua 20 năm. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vừa kết thúc 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, cũng là 5 năm đầu tiên của thế kỷ XXI.
Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và
yếu kém, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết
Đại hội IX của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 -
2005); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định mục tiêu và phương hướng tổng quát
của 5 năm 2006-2010 là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới huy động và
sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn
hoá; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh, mở
rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn
định chính trị xã hội, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng
để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”
Để thực hiện được mục tiêu nói trên, nền kinh tế ở nước ta phải có lực lượng
sản xuất đạt trình độ phát triển cao và có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại - đại công
nghiệp cơ khí phát triển trên cơ sở khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Muốn
vậy phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa . Rõ ràng là xu thế toàn cầu hóa 21
kinh tế và sự phát triển kinh tế tri thức đang làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước
đi của quá trình CNH, HĐH và nó đòi hỏi CNH, HĐH ở những nước đi sau (như Việt
Nam) phải đồng thời thực hiện hai quá trình: (1) Xây dựng nền công nghiệp theo
hướng hiện đại. (2) Phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Đây là hai nội dung của một quá trình diễn ra đồng thời và phải được thực hiện đồng thời.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế
tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Một số định hướng chủ yếu thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức:
Thứ nhất, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
- Hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái nhiệt đới đa dạng sản
phẩm hàng hóa, tỷ suất hàng hóa, chất lượng, năng suất và khả năng cạnh
tranh cao, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Chuyển dịch
cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm
nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.
- Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông
nghiệp, phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng chuyên hóa
tập trung. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông
thôn. Thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn phù hợp với điều kiện của từng vùng.
- Xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất và đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Xây dựng nông
thôn mới theo hướng dân chủ, công bằng, nông dân có cuộc sống no đủ, có đời
sống văn hóa lành mạnh, có môi trường sạch.
Thứ hai, phát triển kinh tế vùng.
- Đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi tập trung phát triển trước hết một số vùng có
khả năng tăng trưởng mạnh nhất, tạo động lực lan tỏa đến các vùng khác trong nước.
- Quy hoạch phát triển các vùng trọng điểm phải đặt trong quy hoạch phát triển
tổng thể của cả nước và tạo các mối liên kết kinh tế cơ bản giữa các vùng và 22
trong nội bộ từng vùng trên cơ sở phân công lao động, đưa vào lợi thế phát triển của mỗi vùng.
- Cần đặc biệt quan tâm phát triển những vùng có thế mạnh tiềm năng tự nhiên
cho phép tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập... Đồng thời, có cơ chế chính sách
để tạo điều kiện cho các vùng còn nhiều khó khăn phát huy được tiềm năng của
mình để phát triển nhanh, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo, các vùng Tây
Nguyên Tây Nam và Tây Bắc.
Thứ ba, phát triển nhanh hơn công nghiệp xây dựng và dịch vụ .
- Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế tác, công
nghiệp phần mềm, công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản
phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Phát triển một số khu kinh tế mở và
đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển
mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản
xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư
của các tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.
- Trên cơ sở bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực trong và
ngoài nước để xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát triển công
nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Hoàn chỉnh một
bước cơ bản mạng lưới giao thông, thủy lợi, cấp thoát nước... Tăng nhanh
năng lực và hiện đại hóa bưu chính - viễn thông.
- Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm
năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận
dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực
dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.
- Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao.
Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, mở
mang các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí
tuệ cao, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ
ngân hàng theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
- Trong đó, phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của quá
trình CNH, HĐH rút ngắn. Phát triển nguồn nhân lực cần được thực hiện theo 23
hai hướng: Phát triển con người và hiện đại hóa khâu giáo dục, đào tạo. Ở
đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là trung
tâm. Ở nước ta hiện nay, giáo dục, đào tạo còn lạc hậu và chưa thích ứng với
việc hình thành nguồn nhân lực của quá trình hiện đại hóa. Do đó, hiện đại
hóa giáo dục, đào tạo chứ không chỉ dừng ở cải cách là một vấn đề trọng tâm,
mang tính tiên quyết của quá trình hiện đại hóa. Gắn với quá trình hiện đại
hóa giáo dục, đào tạo, việc đầu tư cho giáo dục đào tạo trong mối quan hệ với
hiện đại hóa nguồn nhân lực, được xem là đầu tư cho sản xuất, thuộc “ngành
công nghiệp nặng” và là đầu tư mang tính hiệu quả nhất.
- Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách
mạng khoa học và công nghệ. Chú ý đi ngay từ đầu vào công nghệ hiện đại đối
với các lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Đồng
thời, chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm.
3. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011-2015).
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp từ ngày
12 đến 19/1/2011, tại Trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình, Thủ đô Hà Nội với chủ
đề: “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới tạo nền tảng để đến năm
2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Đại hội đã
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung,
phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X...
Vấn đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức lần đầu tiên được đề cập trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng. Thực chất là quá trình CNH, HĐH “rút ngắn” dựa trên tri thức; đó vừa là mục
tiêu, vừa là phương thức để có thể thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Tuy nhiên việc “rút ngắn” quá trình CNH, HĐH cũng đang đặt ra nhiều vấn đề
cần giải quyết là làm thế nào để vừa có thể đi tắt, đón đầu, vừa giữ được tính bền vững
trong từng bước phát triển. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương khóa X được Ðại hội XI thông qua đều rút ra bài học trong quá trình đẩy mạnh 24
CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức phải bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế.
Vậy nên về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, Đại hội Đảng
lần thứ XI đã quyết định mục tiêu tổng quát của Chiến lược là: “Phấn đấu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã
hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được
giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề
vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.”
Để thực hiện các mục tiêu trên, cương lĩnh được thông qua trong đại hội đã nêu
ra 8 phương hướng cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có phương hướng
về” "đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN" với định
hướng chiến lược cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu
phát triển theo chiều rộng, sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, chú
trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững,
Về nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội XI xác định: "Thực hiện
CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi
trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết
chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công
nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo có tính chất nền tảng và các ngành công nghiệp có
lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất
lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát
triển hài hòa giữa các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng
điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. Xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.”
Quán triệt quan điểm của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với tri thức và
phát triển bền vững, nhằm đưa Nghị quyết vào cuộc sống đòi hỏi chúng ta cần thực
hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:
- Một là, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Trong vấn đề này cần coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng. Phấn đấu tăng
trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển
con người; từng bước thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng sống 25
và bảo đảm ngày càng tốt hơn nhu cầu về văn hóa, giáo dục cho con người. Xây dựng
cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý theo ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ. Phát triển mạnh
các ngành, các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức. Vấn đề
quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát huy năng lực sáng tạo ở trong
nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri thức của thế giới.
- Hai là, cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ cho phát triển kinh tế tri thức.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 khẳng định: Phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá
chiến lược, là yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình
tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm phát triển nhanh, hiệu quả, bền
vững... Phát triển nguồn nhân lực cần phải quan tâm cả phát triển con người và hiện
đại hóa hoạt động giáo dục, đào tạo.
Ở đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là trung tâm.
Trong những năm tới, Nhà nước phải đầu tư hơn nữa để phát triển giáo dục. Thực hiện
các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực
chủ yếu, mũi nhọn. Trong đó cần: Từng bước ứng dụng những công nghệ mới, hiện
đại vào giảng dạy, không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Chú trọng
đào tạo theo hướng tăng cường ứng dụng, thực hành. Huy động mọi nguồn lực cho
phát triển giáo dục - đào tạo. Tiến hành cải tiến công tác quản lý giáo dục - đào tạo.
Cải cách giáo dục phổ thông. Tăng cường giáo dục trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề. Gắn kết quá trình đào tạo ở nhà trường với đào tạo tại các doanh nghiệp. Đổi
mới giáo dục đại học và cao đẳng theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo và gắn kết
giữa giảng dạy, nghiên cứu và sản xuất, đáp ứng nhu cầu xã hội. Tăng nhanh đào tạo
đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật có trình độ đại học, trên đại học và đội ngũ công
nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, các doanh nhân. Mở rộng quan hệ hợp tác
giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ với nước ngoài. Tuyển chọn đưa đi đào tạo ở
các nước tiên tiến số lượng lớn cán bộ khoa học - kỹ thuật thuộc các lĩnh vực ưu tiên chiến lược.
- Ba là, phát triển mạnh về khoa học công nghệ, tăng cường năng lực khoa học công nghệ quốc gia.
Cương lĩnh của Đảng nêu rõ: Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng
suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền
vững của đất nước. Trong đó cần tập trung: Phát triển và ứng dụng rộng rãi công nghệ 26
thông tin, chuyển hướng phát triển các lĩnh vực trọng yếu sang chủ yếu dựa vào tri
thức. Phát triển nhanh có chọn lọc các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ
cao. Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển mạnh một số khu công nghệ cao đã và đang
hình thành ở nước ta như: Công viên phần mềm Sài Gòn, Quang Trung, Khu công
nghệ cao Láng - Hoà Lạc, trung tâm phần mềm Hải Phòng, công viên phần mềm Đà
Nẵng, Trung tâm phần mềm Huế… coi đây là những hình mẫu, đầu tàu của khoa học
công nghệ - công nghiệp quốc gia.
Cần đầu tư cao vào những ngành mũi nhọn của quốc gia như: công nghệ thông tin,
nhất là công nghệ phần mềm; công nghệ số hoá, công nghệ năng lượng mới, vật liệu
mới, công nghệ sinh học... Thu hút các tập đoàn xuyên quốc gia, có tiềm lực khoa
học-công nghệ và tài chính mạnh đầu tư vào Việt Nam, khuyến khích xây dựng các
trung tâm nghiên cứu-phát triển, tạo sự lan toả ra toàn bộ nền kinh tế.
- Bốn là, phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi
trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong điều kiện khan hiếm các nguồn tài nguyên hiện nay, CNH, HĐH tác động
không thuận đến môi trường tự nhiên. Do đó văn kiện Đại hội XI xác định: “Đưa nội
dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh
vực, vùng và các chương trình, dự án đầu tư… Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân
thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng
sạch”(2). Để cụ thể hóa quan điểm đó cần: Tăng cường quản lý tài nguyên đất, nước,
khoáng sản, rừng, bầu trời. Ngăn chặn các hành vi huỷ hoại môi trường, khắc phục sự
xuống cấp, tích cực phục hồi môi trường, xử lý phế thải. Từng bước sử dụng công
nghệ sạch, năng lượng sạch. Phủ xanh đất trống, đồi trọc. Hiện đại hóa công tác
nghiên cứu, dự báo, chủ động phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ. Tăng
cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên.
4. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016 - 2020)
4.1 Đánh giá quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sau 30 năm đổi mới (1986 - 2016) a. Thành tựu quan trọng
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt
Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước
đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực
xã hội cho phát triển. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng
trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình); 27
đời sống nhân dân từng bước được cải thiện; đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực
phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh nghiệp, doanh
nhân thật sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Cụ thể như sau:
Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ
tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-
1990), với mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt
Nam đã trải qua gần 20 năm với mức tăng trưởng rất ấn tượng: giai đoạn 1991-1995,
GDP bình quân tăng 8,2%/năm, gấp đôi so với 5 năm trước đó. Do chịu tác động từ
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng
trưởng GDP giai đoạn 2011-2015 của Việt Nam tuy đã chậm lại nhưng vẫn đạt
5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới.
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh. Năm 2003, sau 16 năm đổi mới, GDP bình
quân đầu người ở nước ta mới đạt 471 USD/năm thì đến năm 2015, quy mô nền kinh
tế đạt khoảng 204 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 2.300 USD. Lực
lượng sản xuất có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng. Chất lượng tăng trưởng
có mặt được cải thiện, trình độ công nghệ sản xuất có bước được nâng lên. Đóng góp
của yếu tố năng suất tổng hợp TFP vào tăng trưởng nếu ở giai đoạn 2001-2005 đạt
21,4%, giai đoạn 2006-2010 đạt 17,2% thì trong giai đoạn 2011-2015 đạt 28,94%.
Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát.
Cơ cấu kinh tế của Việt Nam bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Cơ
cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực
dịch vụ và công nghiệp. Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng
phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Cơ
cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có cải thiện đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu thường
xuyên tăng với tốc độ hai con số, giai đoạn 2011-2015, tăng 18%/năm. Xuất khẩu
chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và giảm dần tỷ trọng
sản phẩm nông nghiệp, giảm dần sản phẩm nguyên liệu thô. Đã hình thành các vùng
kinh tế trọng điểm, làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền và cả nước. Phát
triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển,
đồng thời hình thành các vùng chuyên môn hóa cây trồng, vật nuôi gắn với công nghiệp chế biến.
Các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Ngành công
nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục, tốc độ triển khai ứng dụng 28
các thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện. Sản phẩm công nghiệp phát triển
ngày càng đa dạng và chất lượng, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm
cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất
khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao. Khu
vực nông nghiệp phát triển khá ổn định; CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn có sự
chuyển biến quan trọng, từ lúc cả nước còn thiếu ăn, nay trở thành nước xuất khẩu gạo
với khối lượng lớn, đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế;
xuất khẩu cà-phê, cao-su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ
hạng cao trên thế giới. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng
tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát
triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước
phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và
bảo vệ môi trường gắn với yêu cầu phát triển bền vững được quan tâm và đem lại kết
quả bước đầu. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển, nhất là hạ tầng giao thông,
điện, thông tin, viễn thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế. Việc ứng dụng khoa
học công nghệ, nhất là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang
xây dựng kinh tế tri thức b. Hạn chế
Tuy nhiên quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trong những năm
qua còn nhiều hạn chế, kết quả chưa tương xứng với tiềm năng, chưa đạt được mục
tiêu đã hoạch định. Cụ thể là:
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, chưa gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp nền tảng và công nghiệp
hỗ trợ chưa có định hướng chiến lược rõ ràng, hiệu quả thấp. Hệ thống kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém, lạc hậu và thiếu tính kết nối. Phát triển đô
thị thiếu đồng bộ, chất lượng thấp. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn gắn với xây dựng nông thôn mới còn chậm
Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa tương
ứng với chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Vì thế nhiều chỉ tiêu tiêu chí trong mục tiêu
phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại không đạt được. Thực tế, chỉ có 10/15 tiêu chí đạt được nhưng ở mức tương đối thấp.
Nguyên nhân chủ yếu cho những hạn chế, yếu kém kể trên chủ yếu là vì: Thứ
nhất, thể chế hóa và tổ chức thực hiện còn chậm, thiếu hệ thống và đồng bộ. Chưa có
đột phá về thể chế để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lực phát triển 29
theo cơ chế thị trường. Thứ hai, chưa xác định rõ những ngành, lĩnh vực trọng tâm,
trọng điểm cần ưu tiên trong chính sách công nghiệp quốc gia cho từng giai đoạn;
thiếu gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa CNH, HĐH với đô thị hóa, giữa phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn với xây dựng nông thôn mới. Thứ ba, chưa chuẩn bị thật
tốt các điều kiện cần thiết và tận dụng thời cơ để hội nhập quốc tế có hiệu quả; có lúc,
có việc chưa gắn chặt với đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
4.2. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2016 – 2020
a. Mục tiêu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa được điều chỉnh sát với thực tiễn
Trước tiên, Đại hội đề ra mục tiêu tổng quát 5 năm 2016 - 2002: “ Tăng cường
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân và
dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển
kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển
đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.”
Công cuộc đổi mới và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của
đất nước đã tạo ra những trình độ mới, cách thức mới cho quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Văn kiện Đại hội thứ XII
của Đảng đã khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn mới là tiếp
tục thực hiện đẩy mạnh thừa kế mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
phát triển kinh tế định hướng XHCN và hội nhập quốc tế phát triển với phát triển tri
thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động
lực chủ yếu, huy động có hiệu quả mọi nguồn lực phát triển”.
Từ đó, Đại hội đã xác định các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2016 - 2020 dựa trên việc chọn lọc tiêu chí nước công nghiệp theo hướng hiện đại của
một số nước trên thế giới. Các tiêu chí định hướng như sau:
Tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (GDP bình quân đầu
người, tỷ trọng gia tăng công nghiệp chế tạo, tỷ trọng nông nghiệp, tỷ lệ đô thị hóa,
điện bình quân đầu người) là cơ sở cho việc xác định các chỉ tiêu cụ thể phát triển 30
kinh tế giai đoạn 2016 - 2020. Đó là “ Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt
6,5 - 7%/năm. Đến năm 2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD.
Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội
bình quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34% GDP. Bội chi ngân sách nhà nước còn khoảng
4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 30
- 35%. Năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 5%/năm. Tiêu hao năng
lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38 - 40%”
Tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội (HDI - chỉ số phát triển con
người, tuổi thọ bình quân, chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, số bác sĩ
trên một vạn dân, tỷ lệ lao động qua đào tạo…): “Đến năm 2020, tỷ lệ lao động nông
nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 40%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng
65 - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành
thị dưới 4%. Có 9 - 10 bác sĩ và trên 26,5 giường bệnh trên 1 vạn dân. Tỷ lệ bao phủ
bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,0 - 1,5% năm”
Tiêu chí phản ánh về môi trường (tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch, độ che phủ
rừng, tỷ lệ giảm phát thải khí nhà kính): “ Đến năm 2020, 95% dân cư thành thị, 90%
dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh và 85% chất thải nguy hại, 95
- 100% chất thải y tế được xử lý. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 42%”
b. Xác định phương hướng nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2016 - 2020
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
phải tiến hành qua ba bước: Tạo tiền đề, điều kiện để tiến hành công nghiệp hóa, hiện
đại hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nâng cao chất lượng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa...trong năm tới cần chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, phát triển nhanh bền vững; phấn đấu cơ bản đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”
Từ đó, Đảng ta đã xác định cần tập trung thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Thứ nhất, tiếp tục thực hiện tốt chủ trương và có chính sách phù hợp để xây
dựng, phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tằng hàm lượng
khoa học - công nghệ, tập trung vào những ngành có tính nền tảng, có lợi thế so
sánh, cạnh tranh, có ý nghĩa chiến lược và khả năng tham gia sâu, hiệu quả vào
mạng sản xuất, phân phối toàn cầu. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp 31
hỗ trợ; công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn; năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo và sản xuất vật liệu mới; từng bước phát triển công nghệ sinh học,
công nghiệp môi trường và công nghiệp văn hóa.
- Thứ hai, đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ
tăng trưởng cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP.
Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và
công nghệ cao. Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn,
ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng, đẩy
mạnh xuất khẩu; phát triển toàn diện cả về nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng
hiện đại, bền vững, trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh. Phát triển mạnh kinh tế
biển, nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ chủ quyền biển,
đảo; tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động các khu kinh tế ven biển.
- Thứ ba, thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy
mô toàn bộ nền kinh tế, vùng và liên vừng. Phát huy tiềm năng, thế mạnh của
từng vùng; đổi mới cơ chế, chính sách, kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển
đô thị theo quy hoạch và kế hoạch. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có
kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường; nâng cao chất
lượng, tính đồng bộ và năng lực cạnh tranh của các đô thị; chú trọng phát huy
vai trò, giá trị đặc trưng của các đô thị động lực phát triển kinh tế cấp quốc gia và cấp vùng.
- Thứ tư, đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục
tập trung đầu tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tương đối
đồng bộ với một số công trình hiện đại. Ưu tiên và đa dạng hóa hình thức đầu
tư cho các lĩnh vực trọng tâm là hạ tầng giao thông đồng bộ, có trọng điểm, kết
nối giữa các trung tâm kinh tế lớn và giữa các trục giao thông đầu mối; hạ tầng
ngành điện bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội; hạ tầng thủy lợi đáp ứng yêu cầu phát triển nông
nghiệp và ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
- Thứ năm, đổi mới giáo dục - đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
đồng thời phát triển, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đặc biệt là công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng sạch, công nghệ
thông tin phục vụ CNH, HĐH đất nước.
5. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021 - 2025)
5.1 Đánh giá quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sau 35 năm đổi mới (1986 - 2020)
a. Những thành tựu quan trọng 32
Nhờ thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ, trong những năm qua, đất nước ta đã đạt
được thành tựu to lớn:
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại. Tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Trong giai đoạn 2010-2020
tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010
xuống 14,85% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng tương
ứng từ 81,1% lên 85,15%, vượt mục tiêu đề ra.
Trình độ công nghệ sản xuất công nghiệp đã có bước thay đổi theo hướng hiện
đại. Một số ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như khoa học-công nghệ, thiết kế
công nghiệp, nghiên cứu thị trường, tài chính, ngân hàng, viễn thông... đã hình thành
và từng bước phát triển. Việc phát triển và ứng dụng khoa học-công nghệ, đặc biệt là
công nghệ cao có tiến bộ, tạo những tiền đề để chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực, gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ
trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh, tỷ trọng lao động ngành công
nghiệp-xây dựng và dịch vụ tăng liên tục. Năng suất lao động được nâng lên rõ rệt.
Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011-2015 là 4,3%/năm, giai
đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm. Xếp hạng toàn cầu về chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt
Nam những năm gần đây tăng vượt bậc, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp.
Đặc biệt, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên rõ rệt: năm 2019, năng
lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, đứng thứ
67/141 nền kinh tế. Chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2019 tăng 8 bậc
so với năm 2015, xếp thứ 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ. b. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, khoa học - công nghệ
chưa thực hiện đầy đủ vai trò “quốc sách hàng đầu”, chưa là động lực quan trọng nhất
để phát triển lực lượng sản xuất: “Năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế còn
thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công
nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp, tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu hiệu quả còn hạn chế”. Trong khi đó, trên thế giới, cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, nhất là công nghệ số, đang phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh
vực, mang đến nhiều thời cơ nhưng cũng đặt ra không ít thách thức với tất cả các nền kinh tế. 33
5.2. Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2021- 2025.
a. Những điểm mới trong quan điểm của Đảng về phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trên cơ sở tổng kết công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập kỷ 90
của thế kỷ XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của
Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH trên nền tảng của tiến bộ
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”. “Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ
công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, nâng cao tính tự chủ của nền
kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu”.
Theo đó, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm tới phải
phù hợp với điều kiện và bối cảnh trong nước và quốc tế, nhất là tận dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ nói chung, thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nói
riêng. Đẩy mạnh nghiên cứu chuyển giao, ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ
hiện đại; phát triển một số sản phẩm chủ lực có thương hiệu, có uy tín trong khu vực
và thế giới. Nâng cao tiềm lực khoa học - công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của
đất nước, tạo cơ sở đẩy mạnh, phát triển kinh tế số.
Như vậy, Đảng ta tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời, thể hiện rõ, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa phải dựa trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, tận dụng tốt cơ
hội của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để có sự bứt phá, vượt lên trong một số
ngành và lĩnh vực. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh chú trọng cả
những ngành công nghiệp nền tảng và những ngành mới, công nghệ cao quyết định sự
bứt phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế…
b. Mục tiêu Đảng đề ra với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2021 - 2025
Đại hội XIII đã nêu mục tiêu tổng quát trong chủ đề Đại hội là: “Phấn đấu đến
giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
và mục tiêu cụ thể là:
- Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại,
vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (Dự thảo: Thu nhập trung bình cao).
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có
công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (Dự thảo: Thuộc nhóm trên của
các nước có thu nhập trung bình cao). 34
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Việc xác định mục tiêu như trên theo cách tiếp cận mới: Trình độ phát triển, trình
độ công nghiệp và thu nhập phù hợp với cách tiếp cận của thế giới. Theo tính toán của
Ngân hàng thế giới (WB), thu nhập bình quân thấp là dưới mức 4.045
USD/người/năm; thu nhập trung bình là từ 4.045 đến 12.535 USD/người/năm; thu
nhập cao là trên 12.535 USD/người/năm (số liệu ngày 01/7/2020). Dự kiến, đến năm
2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD. Như vậy, đến năm 2025,
nước ta vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Dự kiến đến năm 2030, GDP bình
quân đầu người khoảng 7.500 USD. Như vậy, đến năm 2030, nước ta có thu nhập
trung bình cao và đến năm 2045 có thu nhập cao là khả thi.
c. Xác định phương hướng nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa giai đoạn 2021 - 2025
- Thứ nhất, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh trên nền tảng số. Nền
công nghiệp quốc gia vững mạnh là yếu tố nền tảng quyết định sức cạnh tranh,
năng suất lao động và quy mô của nền kinh tế. Để xây dựng nền công nghiệp
quốc gia vững mạnh, Đại hội XIII yêu cầu: Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao,
ứng dụng, phát triển, làm chủ công nghệ hiện đại. Phát triển một số sản phẩm
chủ lực có thương hiệu mạnh, có uy tín trong khu vực và thế giới. Nâng cao
tiềm lực khoa học - công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực đất nước, tạo cơ sở
đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số. Cơ cấu
lại công nghiệp, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công
nghệ số, tập trung phát triển công nghiệp nền tảng, nhất là công nghiệp cơ khí,
chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng
tham gia sâu, có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ưu tiên phát triển những
ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Dựa trên công
nghệ mới, hiện đại để phát triển các ngành công nghiệp vẫn còn có lợi thế (chế
biến nông sản, dệt may, da giày…) tạo nhiều việc làm, sản xuất hàng xuất
khẩu, đóng góp lớn vào giá trị gia tăng quốc gia. Nâng cao hiệu quả hoạt động
của các khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu công nghiệp. Nâng cao trình độ
khoa học - công nghệ ngành xây dựng đủ năng lực thiết kế, thi công các công
trình xây dựng lớn, phức tạp, hiện đại, có khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế.
- Thứ hai, xây dựng chiến lược, hoàn thiện thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô
thị làm động lực phát triển từng vùng, địa phương. Đô thị hóa và kinh tế đô thị
luôn là chiến lược trọng tâm của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục 35
tiêu là hướng tới hình thành các trung tâm đô thị nhằm tạo nền tảng hạ tầng và
các nguồn lực, nhất là nguồn lực về khoa học - công nghệ cho sự phát triển và
chuyển đổi số. Đô thị luôn là trung tâm, kinh tế đô thị có sức thu hút, lan tỏa, là
điều kiện rất thuận lợi để tiếp thu, ứng dụng, nghiên cứu, sáng tạo khoa học -
công nghệ. Do vậy, phát triển đô thị, kinh tế đô thị là mắt xích quan trọng trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, cần nâng cao khả năng quản
lý, kiểm soát quá trình đô thị hóa, phát triển đô thị vệ tinh, hạn chế xu hướng
tập trung quá mức vào các đô thị lớn; xây dựng đô thị hiện đại, văn minh, đô
thị thông minh, đa dạng về loại hình, có bản sắc đặc trưng về kiến trúc, văn hóa ở từng địa phương.
- Thứ ba, thực hiện cơ cấu lại nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn gắn với
xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại
và nông dân văn minh. Nông nghiệp, nông thôn luôn là mục tiêu quan trọng
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, tư duy phát triển nông nghiệp đòi hỏi phải trên nền tảng đổi
mới sáng tạo. Các yếu tố đầu vào, đầu ra và quy trình, công nghệ sản xuất nông
nghiệp cần được tối ưu hóa, hiện đại hóa dựa trên thành tựu Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Theo đó, Đại hội XIII định hướng phải chủ động phát triển
nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp
sinh thái dựa trên tiến bộ khoa học - công nghệ. Phát huy tiềm năng, lợi thế của
từng vùng, từng địa phương, đổi mới tổ chức, phát triển kinh tế hợp tác, thu hút
doanh nghiệp đầu tư, cải tiến quản lý nhà nước để nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản. Gắn kết chặt chẽ nông
nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, sản xuất với bảo quản, chế biến, xây dựng
thương hiệu, tiêu thụ, nâng cao giá trị nông sản trong chuỗi giá trị. Phát triển hệ
thống kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, kết nối nông thôn với đô thị.
Tiếp tục đẩy mạnh Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu.
- Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, phát triển
mạnh khu vực dịch vụ, nhất là dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Thành tựu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh
tế số đã đặt ra yêu cầu hiện đại hóa khu vực kinh tế dịch vụ với tốc độ cao hơn.
Theo đó, Đại hội XIII xác định rõ định hướng hiện đại hóa kinh tế dịch vụ trên
một số vấn đề cơ bản: Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ như du lịch,
thương mại, viễn thông, công nghệ thông tin, vận tải, logictics, dịch vụ kỹ
thuật, dịch vụ tư vấn pháp lý… Hiện đại hóa và mở rộng dịch vụ tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học 36
và công nghệ, dịch vụ văn hóa, thể thao, dịch vụ thương mại… Tổ chức cung
ứng dịch vụ chuyên nghiệp, văn minh, hiện đại theo chuẩn mực quốc tế.
- Thứ năm, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển bền vững dựa trên trụ cột hiện đại
hóa khoa học - công nghệ khai thác biển. Thành tựu to lớn của khoa học - công
nghệ trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cho phép nhanh
chóng hiện đại hóa để khai thác hiệu quả, bền vững kinh tế biển. Đại hội XIII
xác định rõ việc cần thiết phải dựa trên nền tảng tiến bộ khoa học - công nghệ
để tổ chức tốt việc xây dựng và quản lý thống nhất quy hoạch không gian biển,
hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và chuyên ngành về biển đảo. Đẩy mạnh
phát triển và nâng cao hiệu quả các ngành kinh tế biển. Phát triển các khu kinh
tế, khu công nghiệp và các đô thị ven biển. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực
kinh tế biển. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, điều tra
tài nguyên, môi trường biển. Xây dựng cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, nâng cao
năng lực giám sát môi trường biển, dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu vùng biển, ven biển.
- Thứ sáu, đẩy mạnh đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công
trình hiện đại. Tập trung ưu tiên đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình,
cụm công trình, dự án hạ tầng trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt,
đường biển, đường không kết nối các vùng, khu vực, các khu trung tâm kinh tế,
phát triển hạ tầng năng lượng, nhất là năng lượng tái tạo, bảo đảm cung cấp đủ,
ổn định năng lượng cho nền kinh tế. Phát triển hệ thống thủy lợi, hồ, đê, đập,
nâng cao năng lực phòng, chống thiên tai, thích ứng với biển đổi khí hậu. Xây
dựng đồng bộ, hiện đại hạ tầng ở các đô thị, nhất là đô thị lớn; tạo bứt phá
trong phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, xây dựng, kết nối cơ
sở dữ liệu quốc gia. Chú trọng phát triển hạ tầng số và bảo đảm an ninh mạng,
tạo điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp thuận lợi, an toàn tiếp cận tài
nguyên số bởi đây là hạ tầng giữ vị trí quyết định khả năng, tốc độ chuyển đổi
số, đồng thời cũng là nền tảng để thành lập và vận hành các doanh nghiệp số
trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Như vậy, Đại hội XIII là sự kế thừa, phát triển và có bước đột phá về tư duy lãnh
đạo sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ. Trọng tâm là tăng tốc, bứt phá, thực
hiện đồng thời cả hai quá trình là chuyển đổi nền công nghiệp phụ thuộc, gia công, lắp
ráp sang chủ động nghiên cứu, ứng dụng, sáng tạo công nghệ và chuyển đổi nền kinh
tế công nghiệp sang nền kinh tế số dựa trên nền tảng tri thức, đổi mới, sáng tạo. Trong
quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, khoa học - công 37
nghệ và đổi mới sáng tạo luôn giữ vai trò trung tâm. Chính nguồn tài nguyên trí tuệ
này là nền tảng cốt lõi, đồng thời là phương tiện hữu hiệu để hiện thực hóa khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. III. Kết luận
Sau hơn 35 năm đổi mới cho thấy, việc thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước được Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và có hướng đổi mới đúng
đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Đảng ta luôn nhất quán xác định khoa học – công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là động lực quan trọng thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đây là
một quá trình kinh tế, kỹ thuật – công nghệ và kinh tế - xã hội toàn diện, sâu rộng
chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình
độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.
Trong hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta luôn tìm tòi, thử nghiệm, áp
dụng những mô hình, chiến lược công nghiệp hóa phù hợp với thực tiễn đất nước. Quá
trình thay đổi quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước đã có
những bước tiến vượt bậc.
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 diễn ra trong bối cảnh đổi mới toàn cầu hóa,
khoa học – công nghệ thế giới phát triển mạnh mẽ, tuy vậy nước ta vẫn bị các thế lực
thù địch bao vây, khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân khó khăn. Chính vì
vậy Đảng ta đã có những đổi mới trong nhận thức, và lý luận để tổ chức thực tiễn cho
quá trình công nghiệp hóa. Nội dung đổi mới có những thay đổi so với trước đó trong
việc chuyển hướng chiến lược công nghiệp hóa, trong đó nội dung chính của công
nghiệp hóa được cụ thể bằng việc thực hiện: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu. Giai đoạn này, nước ta đã tập trung đầu tư, giải quyết các vấn đề cấp
thiết như lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và chủ trương gắn CNH với HĐH,
phát triển kinh tế dịch vụ và kinh tế vùng. Đại hội VI có thể coi là điểm khởi đầu hết
sức quan trọng cho quá trình đổi mới quan điểm về CNH và HĐH ở nước ta.
Đến đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991, chủ trương được đặt ra là phát triển
công nghiệp, công nghệ theo hướng CNH, HĐH đất nước với mục tiêu tạo thêm công
ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. CNH và HĐH được coi
là con đường thoát khỏi tụt hậu xa so với các nước xung quanh, giữ được ổn định
chính trị, bảo vệ độc lập, chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa. Đó là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh từ sử dụng
lao động thủ công là chính sang sử dụng sức lao động cùng với công nghệ, phương
tiện hiện đại, dựa trên sự phát triển và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất 38
lao động cao. Đại hội VII đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong nhận thức của
Đảng về CNH và HĐH trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Hội nghị Trung ương 7 khóa VII năm 1994 tập trung thảo luận và thông qua về
phát triển theo hướng CNH, HĐH và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn
mới, nhằm thực hiện nhiệm vụ đẩy một bước tới sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đại
hội VIII của Đảng năm 1996 nhìn lại đất nước sau 10 năm đổi mới cho thấy nước ta
đã thoát khỏi khủng hoảng, nhiệm vụ đặt ra là phải chuẩn bị đầy đủ tiền đề cho phép
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể thấy,
quan điểm của Đảng về CNH, HĐH thời kỳ đổi mới nhất quán với đường lối CNH
trước đó. Tuy nhiên, tư duy của Đảng cũng đã có những đổi mới đáng kể phải kể đến
như CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, CNH theo mô hình kinh tế mở hội nhập
hay là nguồn lực CNH, HĐH là trí tuệ, văn hóa và sự tận dụng nguồn lực đa dạng từ
bên ngoài đặc biệt là thành tựu khoa học của thế giới.
Đại hội IX của Đảng năm 2001 nhận định, thế kỷ XXI, khoa học – công nghệ
sẽ có bước nhảy vọt, kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật. Do đó, Đại hội chỉ
rõ “Phát triển khoa học kĩ thuật cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” để từng
bước phát triển kinh tế tri thức và nâng cao năng suất lao động. Nội dung chủ yếu của
đấu tranh giai cấp được đặt ra là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH HĐH đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ đề của Đại hội là “Phát huy sức mạnh dân tộc,
đổi mới đẩy mạnh CNH HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Chiến lược phát triển
đẩy mạnh CNH HĐH xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp. Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ
trung tâm, con đường CNH, HĐH vừa tuần tự vừa có bước nhảy vọt và phải đảm bảo
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trước hết là về đường lối, chính sách và có tiềm lực kinh tế đủ mạnh.
Đại hội X của Đảng (năm 2006) tiếp tục nhấn mạnh: “Kết hợp chặt giữa hoạt
động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc
sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển
kinh tế tri thức”. Ngoài ra Đại hội X xác định: Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và
nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Ở giai
đoạn này, Đảng xác định mục tiêu và phương hướng đó là đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới, sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tăng
cường quốc phòng, an ninh, mở rộng đối ngoại, giữ vững ổn định chính trị; sớm đưa
đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp hiện đại. 39
Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta chú trọng tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Cương lĩnh xây dựng đất nước
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội khẳng định: “Phát triển khoa học và công nghệ
nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri
thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”. Đại hội XI xác định: “Thực hiện CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ
cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ”.
Đại hội XII của Đảng (năm 2016) nhấn mạnh: “Phát triển mạnh mẽ khoa học
và công nghệ, làm cho khoa học - công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, là động
lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức”. Với
mục tiêu “đến năm 2020 khoa học và công nghệ đạt trình độ phát triển của nhóm nước
dẫn đầu ASEAN”, tại Đại hội này, Đảng ta xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
tiến hành qua 3 bước là: Tạo tiền đề, điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội đề ra mục tiêu
tổng quát trong 5 năm 2016 – 2020 nhằm đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi
mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ đó đưa ra các nhiệm vụ trọng tâm trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội trong thời kỳ CNH-HĐH như phát triển kinh tế nhanh,
bền vững; tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo.
Mới đây nhất là Đại hội Đảng lần thứ XIII diễn ra năm 2021, tư duy, quan
điểm, chủ trương về công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự kế thừa và phát triển ngang
tầm với thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trên cơ sở tổng kết công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay và bám sát
bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công
nghệ và đổi mới sáng tạo”. Trước thực trạng nền công nghiệp quốc gia ngày càng lép
vế trước các cơ sở công nghiệp FDI, Đại hội xác định: “Xây dựng nền công nghiệp
quốc gia vững mạnh. Tập trung phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, nhất là
công nghiệp cơ khí, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ”. Đại hội XIII của Đảng đã kế thừa và
bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước từ nay đến giữa thế kỷ XXI nhằm hoàn thành mục tiêu đất nước có nền
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2025 và có nền công nghiệp hiện đại vào năm 2030.
C. Đánh giá quá trình đổi mới quan điểm của Đảng 40
I. Kết quả nhận được sau quá trình thay đổi
Hiện nay có những quan điểm xuyên tạc, bóp méo hay cố tình phủ định những
thành công của Đảng trong quá trình đổi mới quan điểm thực hiện công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước. Để bác bỏ những luận điểm này, chúng ta cần chỉ rõ những
thành công cụ thể của Đảng sau quá trình đổi mới quan điểm. 1. Tổng quan
Trong quá trình đổi mới, quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về CNH, HĐH
có những bước chuyển đổi quan trọng. Từ năm 1986 – 1993, Đảng ta nhận thức ra sai
lầm của mô hình CNH cổ điển thời kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Đảng đã có những
bước đổi mới căn bản và toàn diện về mô hình CNH và đi cùng với đó là phát triển
HĐH. Giai đoạn 1993 – nay, hình thành hệ thống phát triển về CNH đi đôi với HĐH
đất nước, phát triển lý luận CNH, HĐH trong xu thế toàn cầu hóa, từ nền kinh tế công
nghiệp lên thành nền kinh tế đi đôi với tri thức. Với những sự thay đổi này, Đảng ta
nhận thức rõ và khẳng định phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
xây dựng rõ phương hướng quan điểm nhằm thực hiện những mục tiêu đã đề ra. Xác
định rõ nội dung, cụ thể hóa trong thời gian ngắn các điều kiện, tiền đề cần thiết cho
việc đẩy mạnh CNH, HĐH giai đoạn mới. Nhờ đó, công cuộc đổi mới đã đạt được những kết quả to lớn.
Trải qua 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa
lịch sử. Diện mạo đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn gấp nhiều lần, đời sống nhân
dân được nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng
cuộc sống; nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống
chính trị được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất
nước. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế
không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại lực, nâng cao vị thế của Việt Nam,
tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng nhiều lần nêu rõ và Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta
chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Đặc biệt, sau 10 năm thực hiện Cương lĩnh 2011, nhận thức của Đảng về sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã có những bước phát triển mới về cả nội dung
và phương thức thực hiện. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tích cực thể
chế hóa đường lối, chủ trương, quan điểm về CNH, HĐH đất nước, bước đầu tạo môi
trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần 41
kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài. 2. Thành tựu
Nhờ thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ, trong những năm qua, đất nước ta đã đạt
được thành tựu to lớn.
Trong 10 năm 1990-2000, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%. Giai
đoạn 2006-2010, nền kinh tế nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ
mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh
tế tăng nhanh, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
bình quân 5 năm đạt 7%. Năm 1996, Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội;
năm 2008, ra khỏi tình trạng một nước kém phát triển, có mức thu nhập trung bình
Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 đạt 101,6 tỷ USD (gấp 3,26 lần
so với năm 2000). Năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt
3.521 USD. Đạt ngưỡng thu nhập trung bình năm 2008; nền kinh tế đạt tốc độ tăng
trưởng cao: giai đoạn 2011-2015 đạt 5,9%, giai đoạn 2016-2019 đạt 6,8%; quy mô nền
kinh tế tăng 2,4 lần từ 116 tỷ USD năm 2010 lên 271,2 tỷ USD năm 2020. GDP bình
quân đầu người tăng từ 1331 USD năm 2010 lên 2779 USD năm 2020. “Chất lượng
tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch
sang chiều sâu”. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 19% năm 2010 lên 50% năm 2020.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại và tích cực theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng
ngành nông nghiệp giảm. Trong giai đoạn 2010-2020 tỷ trọng khu vực nông, lâm
nghiệp và thủy sản trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 xuống 14,85% năm 2020; các
khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng tương ứng từ 81,1% lên 85,15%, vượt mục tiêu đề ra.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực, gắn liền với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phục vụ tốt hơn các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ
trọng lao động ngành nông nghiệp đã giảm mạnh, tỷ trọng lao động ngành công
nghiệp-xây dựng và dịch vụ tăng liên tục. Năng suất lao động được nâng lên rõ rệt.
Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011-2015 là 4,3%/năm, giai
đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm. Xếp hạng toàn cầu về chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt
Nam những năm gần đây tăng vượt bậc, dẫn đầu nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. 42
Đặc biệt, sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên rõ rệt: năm 2019, năng
lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam tăng 10 bậc so với năm 2018, đứng thứ
67/141 nền kinh tế. Chỉ số môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2019 tăng 8 bậc
so với năm 2015, xếp thứ 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ.
Khoa học - công nghệ từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển
kinh tế - xã hội. Tiềm lực khoa học - công nghệ của đất nước được tăng cường. Hiệu
quả hoạt động khoa học - công nghệ được nâng lên, tạo chuyển biến tích cực cho hoạt
động đổi mới và khởi nghiệp sáng tạo. Trình độ khoa học - công nghệ sản xuất được
nâng cao, tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
II. Bài học kinh nghiệm rút ra được về đổi mới CNH - HĐH
1. Hạn chế - nguyên nhân:
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công cuộc 35 năm của Đảng ta về đổi
mới CNH, HĐH đất nước thì vẫn còn một số hạn chế nhất định.
- Thứ nhất, mô hình công nghiệp, hiện đại hóa chưa được định hình rõ nét, các
chủ trương về hình thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn triển khai chậm và
tính hiệu quả chưa cao. Vấn đề về định hướng CNH, HĐH đất nước được nhen
nhóm từ những năm 75, tuy nhiên đến 1986 mới có chủ trương rõ ràng. Mặc dù
vậy, tính hiệu quả đi vào thực tiễn vẫn chưa rõ nét, phải đến 1991 mới thực sự
đổi mới theo hướng CNH, HĐH.
Lý giải cho điều này, do sự chênh lệch giữa lý luận và thực tiễn, khi các giải pháp
được đưa ra thiếu tính khả thi dẫn đến các định hướng trong từng thời kỳ chưa trọng tâm hay trọng điểm.
- Thứ hai, mức tăng trưởng công nghiệp hóa của Việt Nam còn chưa cao. Tỷ
trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp
giảm.Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng liên tục từ 27,1% năm 2016 lên
28,5% vào năm 2019. Năm 2020 tỷ trọng thấp hơn năm 2019 (đạt 27,54%) do
ảnh hưởng của dịch Covid-19.Như vậy, chưa đạt được kỳ vọng đặt ra ban đầu
là 40% về tỉ trọng công nghiệp vào 2020. So với các nước trong khu vực là
chưa đạt mức kỳ vọng ( Malaysia đạt 46% năm 2020, Thái Lan gần 40% từ
2012, Hàn Quốc 40% tỷ trọng công nghiệp…)
Do công nghiệp chưa trở thành nòng cốt của nền kinh tế, Việt Nam đến hiện tại vẫn
chưa có ngành công nghiệp mũi nhọn, cơ bản còn phụ thuộc nguồn cung nước ngoài nhiều. 43
- Thứ ba, mức độ tham gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị
công nghiệp toàn cầu còn rất hạn chế. Việt Nam đã thực hiện cải cách và mở
cửa trong gần 30 năm, xuất khẩu liên tục được mở rộng nhưng mức độ tham
gia của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn rất hạn
chế. Hàm lượng GTGT của xuất khẩu còn thấp. Các mặt hàng có lợi thế so
sánh cao vẫn thuộc các nhóm sử dụng nhiều nguyên liệu, tài nguyên và lao
động rẻ như nhóm hàng công nghiệp nhẹ (da giày, thủ công mỹ nghệ…), nhóm
nông sản, thủy sản. Sản phẩm công nghiệp chủ lực Việt Nam đang có xu hướng
giảm. Nguyên nhân do trình độ lao động còn thấp, nền tảng khoa học kỹ thuật chưa mạnh
- Thứ tư, sự hợp tác, liên kết trong phát triển công nghiệp còn yếu, CNHT phát
triển còn chậm, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên, phụ liệu..
công nghiệp hỗ trợ hiện nay mới có thể đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu
trong nước về các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, tuy nhiên chủ yếu cũng chỉ là
sản xuất linh kiện và chi tiết đơn giản, có giá trị thấp trong cơ cấu giá trị sản
phẩm. Tỷ lệ nội địa hóa của hầu hết các ngành công nghiệp ở mức thấp. Điều
này là do hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, khi các
doanh nghiệp công nghệ hỗ trợ của Việt Nam chỉ mới hoạt động trên quy mô
vừa và nhỏ nên trình độ sản xuất chưa cao. Trong khi đó, vốn đầu tư vào khu
vực công nghiệp đa số tập trung vào các ngành có thời gian hoàn vốn ngắn như
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến thực phẩm.
- Thứ năm, phát triển công nghiệp gắn kết chưa chặt chẽ với các ngành kinh tế
khác, đặc biệt là nông nghiệp. Với thế mạnh là một nước nông nghiệp, công
nghiệp Việt Nam hưởng lợi ích về chi phí đầu vào cho các ngành như chế biến
công nghiệp (chế biến nông, lâm, thủy sản); ngược lại, công nghiệp cung cấp
lợi thế gia tăng sản xuất cho các ngành trồng trọt, chăn nuôi nông nghiệp Việt
Nam. Dù có mối tương quan và quan hệ cộng sinh chặt chẽ, tuy nhiên, các định
hướng liên kết giữa công nghiệp và các ngành kinh tế khác, đặc biệt là nông
nghiệp, còn thiếu chặt chẽ và gây lãng phí tài nguyên, đầu tư của chính phủ.
- Thứ sáu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động
đã “chững lại” trong nhiều năm nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp. Các
ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, khoa học công nghệ phát triển còn chậm.
Một phần do sự chưa linh hoạt của Đảng, khi mà đại hội 5 năm một lần, trong
khi công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển và thay đổi từng ngày, dẫn đến
những thay đổi của CP còn chưa kịp thời.
- Thứ bảy, là sự không đồng điệu giữa nhà nước và địa phương trong triển khai.
Tuy có sự thống nhất về quan điểm phát triển giữa trung ương và địa phương, 44
nhưng địa phương đã thi hành các kế hoạch phát triển theo phong cách riêng
đặc thù của địa phương, hoặc áp dụng sao chép máy móc các mô hình của các
địa phương khác (Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc.v.v.) đã khiến quá trình
phát triển bị phân tán tài nguyên và nhân lực. Quá trình công nghiệp hóa (về
thực chất) đòi hỏi đầu tư khổng lồ của nhà nước và xã hội để tạo lập cơ sở hạ
tầng, trung tầng và thượng tầng để phục vụ công nghiệp hóa. Trong khi các địa
phương lại có xu hướng hiểu một cách đơn giản và máy móc và cố gắng thành
lập nhiều Khu Công nghiệp để mong rằng mục tiêu công nghiệp hóa sớm đạt
thành.Trong khi các Khu Công nghiệp chỉ là một phần nhỏ của cơ sở hạ tầng,
thì các cơ sở trung tầng (giáo dục đào tạo kỹ thuật, thương mại, tòa án.v.v.) và
cơ sở thượng tầng (luật pháp, phát triển ngoại thương, an toàn thực phẩm, môi
trường, chính sách đất đai, tài chính công, ngân hàng, ngoại hối.v.v.) rất thiếu
thốn và không đồng bộ.
2. Kinh nghiệm lịch sử rút ra từ quá trình 35 năm đổi mới quan điểm của
Đảng về CNH - HĐH đất nước
Đảng tiếp tục kiên định với con đường CNH, HĐH dân tộc; bởi đó là quá trình
tất yếu của mỗi dân tộc và là nền tảng để chúng ta tiến lên XHCN. Tuy nhiên cần nhận
diện một cách đúng đắn những hạn chế, yếu kém và những khó khăn thách thức trong
quá trình CNH. Rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn. Từ đó xác định thời gian
tới cần điều chỉnh cơ chế, chính sách, hướng ưu tiên nguồn lực vào những ngành và
lĩnh vực nào để có thể tạo nền tảng vững chắc thực hiện mục tiêu trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Lựa chọn những kinh nghiệm quốc tế phù hợp từ những
nước có chính sách công nghiệp hợp lý và đúng đắn để tham khảo, vận dụng cho Việt
Nam hướng với tầm nhìn xa hơn.
- Thứ nhất, yêu cầu chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài gắn kết với chiến lược
thúc đẩy kinh tế trong nước để phát huy ưu thế về vốn, công nghệ, năng lực
quản trị,... của khu vực FDI nhằm giúp thúc đẩy các khu vực khác của nền kinh
tế cùng phát triển, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế nông nghiệp
hộ gia đình. Qua đó dẫn dắt các doanh nghiệp nội địa tham gia các mắt xích
cung ứng quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu, nhằm thực hiện mục tiêu CNH,
HĐH đất nước. Nếu chúng ta không tận dụng được FDI để chuyển giao công
nghệ thì Việt Nam sẽ mãi chỉ là nước nhân công rẻ và làm thuê cho tư bản nước ngoài. 45
- Thứ hai, chúng ta phải đồng thời lồng ghép 2 quá trình là CNH-HĐH và phát
triển KTTT, do đó phải kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển
nhảy vọt, với các đề xuất sau: xây dựng 2 trung tâm quốc gia về công nghệ cao
ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, lấy đây là đầu tàu, là mô hình tiêu biểu cho phát
triển công nghệ của cả nước và là nơi thu hút, nuôi dưỡng công nghệ và tri thức
mới của nhân loại; nhanh quá trình xây dựng thị trường khoa học-công nghệ
theo hướng mọi tri thức, công nghệ đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao
thuận lợi trên thị trường; khuyến khích du học sinh ra nước ngoài học tập và có
chính sách đãi ngộ thích đáng để thu hút số du học sinh này về nước làm việc
hay lập nghiệp; cần có một chiến lược phát triển khoa học-công nghệ với
những bước đi thích hợp.
- Thứ ba, xác định cụ thể thước đo sự thành công của CNH đối với từng vùng,
địa phương để phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế so sánh của mỗi vùng và địa
phương, bảo đảm tính bền vững và triển khai theo quy hoạch. Tránh tình trạng
các tỉnh, thành phố chạy đua thực hiện CNH theo phong trào hoặc vì lợi ích
trước mắt mà bỏ qua tiềm năng, thế mạnh, lợi thế cạnh tranh của địa phương
mình, hoặc thậm chí làm suy yếu lợi thế cạnh tranh của địa phương khác.
- Thứ tư, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của ngành công nghiệp phụ trợ và dịch
vụ hỗ trợ hiện nay của nước ta, qua đó đề ra chiến lược và kế hoạch hành động
cụ thể để phát triển trong thời gian tới sao cho công nghiệp phụ trợ và dịch vụ
hỗ trợ là một thành tố then chốt trong chiến lược CNH quốc gia.
- Thứ năm, đề xuất giải pháp đột phá để tiếp tục tháo gỡ ba nút thắt tăng trưởng
hiện nay gồm kết cấu hạ tầng, vấn đề thể chế và chất lượng nguồn nhân lực.
Đặc biệt là khuyến khích, thúc đẩy CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; thúc
đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; thúc đẩy tăng năng suất các yếu tố
tổng hợp, huy động nguồn lực tư nhân để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
thông qua mô hình đối tác công tư PPP,...
III. Liên hệ thực tiễn đối với sinh viên hiện nay trong công cuộc CNH-HĐH đất nước.
1. Vai trò của sinh viên.
Thanh niên Việt Nam là một tầng lớp xã hội đặc thù, chiếm số đông trong dân
số cả nước. Thanh niên Việt Nam không phải là một giai cấp nhưng có mặt ở cả giai
cấp công nhân, giai cấp công nhân và đội ngũ trí thức; thanh niên không phải là một
tầng lớp xã hội độc lập mà có mối quan hệ gắn bó với các tầng lớp khác trong xã hội;
thanh niên có mặt ở tất cả các địa phương, các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng của đất nước. 46
Thanh niên Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử luôn giữ vai trò quan trọng,
luôn thể hiện tinh thần xả thân trong các cuộc chiến tranh giữ nước và luôn là lực
lượng quan trọng trong thời kỳ kiến thiết đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh
giá cao vai trò và vị trí của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân
tộc. Người biểu lộ niềm tin vững chắc vào thế hệ trẻ, là lớp người “xung phong trong
công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”
và “trong mọi công việc thanh niên thi đua thực hiện khẩu lệnh “Đâu cần thanh niên
có; Việc gì khó thanh niên làm”.
Đảng xác định thanh niên giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố
và nguồn lực con người. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương
khóa VII nêu rõ: “Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế
kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam
có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực
lượng thanh niên”. Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa
X về “tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác thanh niên trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa” đã khẳng định: “Thanh niên là rường cột của
nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy
nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa
là động lực đảm bảo cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước”.
2. Khó khăn, thách thức.
Trong quá trình CNH-HĐH đất nước hiện nay, sinh viên đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức khi: trình độ học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến
thức kinh tế, quản lý chưa cao; năng lực hội nhập và kỹ năng xã hội của sinh viên
ngày nay đã được nâng lên một cách đáng kể nhưng chưa đáp ứng được đòi hỏi của
quá trình hội nhập quốc tế; vẫn còn một bộ phận sinh viên chưa ý thức được vai trò và
trách nhiệm của mình, … Đó là những yếu tố đã làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn
nhân lực của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay. Một số khó khăn của sinh viên hiện nay:
- Một trong những khó khăn hiện nay là kỹ năng ngoại ngữ của sinh viên VN
còn rất kém để có thể hội nhập được với nền khoa học của khu vực và thế giới.
Việc ứng dụng kiến thức, kỹ năng thực hành của sinh viên các trường đại học 47
Việt Nam khá là hạn chế so với nhu cầu được đào tạo quốc tế, chính vì thế mà
đã làm cản trở rất nhiều trong việc học tập nghiên cứu của sinh viên.
- Ngoài ra kĩ năng sống, kỹ năng giao tiếp của sinh viên Việt Nam còn rất nhiều
điểm cần lưu ý và cải thiện.
- Chương trình giáo dục ở Việt Nam chỉ thiên về lý thuyết và thực hành còn rất
kém- đây là 1 thiệt thòi lớn đối với sinh viên, bởi trên thế giới sinh viên các
nước rất chú trọng vấn đề thực hành .
3. Phương hướng, giải pháp.
Thanh niên Việt Nam ngày nay mang trên vai trọng trách lịch sử, đó là phải trở
thành lực lượng lao động có trí tuệ và có tay nghề cao, có đạo đức và lối sống trong
sáng, có sức khỏe thể chất và sức khỏe tâm thần cường tráng để đưa Việt Nam “sánh
vai với các cường quốc năm châu” như mong muốn của chủ tịch Hồ Chí Minh. Thanh
niên đang tự khẳng định mình là thế hệ vượt lên hơn so với các thế hệ thanh niên đi
trước và đang dần xóa bỏ ranh giới tụt hậu để sánh vai ngang bằng với thanh niên các nước trên thế giới.
- Thứ nhất, thanh niên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận
chính trị, bồi đắp lý tưởng cách mạng trong sáng; tích cực tham gia vào các
cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và bảo vệ Cương lĩnh, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng…
- Thứ hai, thanh niên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn
hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, tay nghề. Trong thời kỳ phát triển kinh tế
- xã hội trong nước và hội nhập quốc tế, thanh niên nước ta cần nâng cao trình
độ học vấn, tay nghề, khả năng thực tế, kỹ năng lao động để thích ứng với thị
trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế.
- Thứ ba, thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành
mạnh và môi trường sinh thái trong lành, sạch đẹp. Tích cực tham gia phòng
chống ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Thứ tư, thanh niên phải xung kích đi đầu trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Tích cực tham gia các chương trình, dự án
của địa phương; tự nguyện, tự giác tham gia các thực hiện nghĩa vụ quân sự,
tham gia các hoạt động bảo vệ Tổ quốc và giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 48
- Thứ năm, thanh niên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế;
tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào công tác ngoại giao nhân
dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế.
Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, với mục tiêu sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém
phát triển, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại. Mục tiêu đó đã đang đặt ra những yêu cầu, trọng trách lớn
lao đối với thế hệ trẻ hôm nay. Để kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ
vang của Đảng và dân tộc ta, mỗi thanh niên Việt Nam hãy ra sức học tập, trau
dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; ra sức thi đua lao động và rèn
luyện để hình thành một thế hệ thanh niên tân tiến, xứng tầm đòi hỏi của đất nước và thời đại. 49