



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 45474828
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ ----- ----- BÀI THẢO LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG Đề tài:
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
VẬN DỤNG TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG 4.0 Nhóm thực hiện : 04
Giảng viên hướng dẫn
: TS. Hoàng Thị Thúy Lớp học phần
: 242_HCMI0131_ 11
Hà Nội, tháng 03 năm 2025 lOMoAR cPSD| 45474828 MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................2
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO........................................................................................................................2
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO.......................2
1. Khái niệm của nguồn nhân lực chất lượng cao............................................................2
2. Đặc điểm của nguồn nhân lực chất lượng cao.............................................................2
3. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế - xã hội....3
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
................................................................................................................................................5
1. Quá trình hình thành và phát triển quan điểm của Đảng về phát triển nguồn lực
chất lượng cao....................................................................................................................5
2. Các quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao....................8
3. Nghị quyết và chiến lược liên quan về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao .10
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG 4.0.......15
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG 4.0......................................................15
1. Thực trạng sự vận dụng quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao Việt Nam trong bối cảnh cách mạng 4.0.......................................................15
2. Những thành tựu và hạn chế của sự vận dụng quan điểm phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao Việt Nam trong bối cảnh cách mạng 4.0.........................................19
a. Những thành tựu.......................................................................................................19 b. Những hạn
chế..........................................................................................................22
c. Nguyên nhân của những hạn
chế.............................................................................24
3. Cơ hội và thách thức của phát triển nguồn lực chất lượng cao Việt Nam trong bối
cảnh cách mạng 4.0..........................................................................................................26
a. Cơ hội.........................................................................................................................26 lOMoAR cPSD| 45474828 b. Thách
thức................................................................................................................28
II. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CHẤT LƯỢNG
CAO VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI..................................................................31
1. Phương hướng phát triển nguồn lực chất lượng cao Việt Nam trong bối cảnh cách
mạng 4.0............................................................................................................................31
2. Giải pháp phát triển nguồn lực chất lượng cao Việt Nam trong bối cảnh cách mạng
4.0......................................................................................................................................33
a. Các giải pháp đối với nguồn nhân lực.....................................................................33
b. Các kiến nghị với Đảng và Nhà
nước......................................................................35 C. PHẦN KẾT
LUẬN.........................................................................................................38
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................39 lOMoAR cPSD| 45474828 A. PHẦN MỞ ĐẦU
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra những thay đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, đặt ra những yêu cầu mới về chất lượng nguồn nhân lực. Trong bối cảnh
đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm,
then chốt của Đảng và Nhà nước ta. Điều này được thể hiện rõ qua Nghị quyết số 52NQ/TW
ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị và nhiều văn kiện quan trọng khác của Đảng. Việc nhận thức
đầy đủ và vận dụng đúng đắn quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao sẽ góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu
của cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam. Đề tài "Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, vận dụng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0" tập trung
nghiên cứu quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua các
văn kiện, nghị quyết từ Đại hội XII đến nay, đặc biệt là các văn kiện liên quan đến cách mạng
công nghiệp 4.0 với trọng tâm là phân tích, đánh giá việc vận dụng các quan điểm này vào
thực tiễn tại Việt Nam. Không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận trong việc hệ thống hóa và làm rõ
quan điểm của Đảng, bài làm còn có giá trị thực tiễn trong việc đề xuất các giải pháp cụ thể
nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hiện nay. Kết quả nghiên cứu
sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn cho công tác phát triển nguồn nhân lực của
đất nước trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao và việc vận dụng trong thực tiễn tại Việt Nam, với phạm vi nghiên cứu tập
trung vào Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm phân tích tài liệu, tổng
hợp và hệ thống hóa lý luận, thống kê so sánh, với trọng tâm là phân tích, đánh giá việc vận
dụng các quan điểm này vào thực tiễn. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý
luận và thực tiễn cho công tác phát triển nguồn nhân lực của đất nước trong thời gian tới. B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
1. Khái niệm của nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia lao
động của một quốc gia, bao gồm thể lực, trí lực và tài lực. Đối với Việt Nam, để thực hiện
chiến lược phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư và hội nhập quốc tế sâu rộng thì phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao. 1 lOMoAR cPSD| 45474828
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm chỉ người lao động có sức khỏe thể chất, tinh
thần tốt; có trình độ tay nghề cao, khả năng lao động giỏi và kỹ năng chuyên môn tốt trong
nghề; có những phẩm chất xã hội tốt đẹp, như tinh thần nhân văn, tập thể, hòa nhập, thích nghi
làm việc trong môi trường đa văn hóa...
2. Đặc điểm của nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực chất lượng cao được nhận dạng qua 5 đặc điểm cơ bản là:
Thứ nhất, khả năng thích ứng nhanh nhất với môi trường lao động và với tiến bộ khoa
học công nghệ mới, với năng lực chuyên môn và trình độ thành thạo nghiệp vụ cao. Khả
năng thích ứng nhanh là yếu tố quan trọng trong môi trường làm việc hiện đại, nơi mà sự thay
đổi diễn ra rất nhanh chóng. Nhân lực chất lượng cao cần có khả năng tiếp thu nhanh chóng
các công nghệ mới, thay đổi trong quy trình làm việc và xu hướng ngành nghề. Năng lực
chuyên môn và trình độ thành thạo nghiệp vụ cao không chỉ đảm bảo rằng người lao động có
thể giải quyết công việc hiệu quả mà còn giúp họ có thể tiếp cận và vận dụng các công cụ,
phương pháp mới trong công việc, từ đó đóng góp vào sự phát triển chung của tổ chức.
Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao có đạo đức nghề nghiệp thể hiện qua tỉnh
thần kỷ luật, ý thức trách nhiệm, tinh thần dân chủ, hợp tác và ý thức về tập thể, vì cộng
đồng cao. Nhân lực chất lượng cao phải có sự tự giác, đúng giờ và tuân thủ các quy tắc trong
công việc. Điều này thể hiện sự nghiêm túc và chuyên nghiệp trong công việc. Mỗi cá nhân
trong tổ chức cần có trách nhiệm đối với công việc của mình và với kết quả chung của đội
ngũ. Người lao động chất lượng cao sẽ luôn sẵn sàng chịu trách nhiệm về những quyết định
và hành động của mình. Họ hiểu và tôn trọng ý kiến, quan điểm của đồng nghiệp, luôn hợp
tác vì lợi ích chung và hỗ trợ nhau phát triển. Người lao động có tầm nhìn vượt ra ngoài lợi
ích cá nhân, luôn đặt lợi ích tập thể và cộng đồng lên hàng đầu, đóng góp tích cực vào sự phát triển xã hội.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao có ý chí vượt khó, bền bỉ trong công việc, có
năng lực kiềm chế bản thân. Nhân lực chất lượng cao không dễ dàng bỏ cuộc khi gặp khó
khăn. Họ luôn tìm cách giải quyết vấn đề và vượt qua thử thách trong công việc. Dù công việc
có khó khăn hay yêu cầu cao, họ luôn duy trì sự kiên nhẫn và tập trung, không dễ dàng bỏ
cuộc. Khả năng kiểm soát cảm xúc và hành vi cá nhân giúp họ duy trì sự chuyên nghiệp trong
công việc, ngay cả khi đối diện với áp lực lớn.
Thứ tư, nguồn nhân lực chất lượng cao có kỹ năng làm việc nhóm, khả năng thay đổi,
thích ứng nhanh, hội nhập cao, có sáng kiến đột phá, sáng tạo trong công việc. Kỹ năng
làm việc nhóm là khả năng hợp tác hiệu quả với các thành viên khác trong nhóm để đạt được
mục tiêu chung. Nhân lực chất lượng cao không chỉ có thể làm việc độc lập mà còn biết cách
làm việc nhóm hiệu quả, chia sẻ thông tin, hỗ trợ đồng nghiệp và khắc phục mâu thuẫn. Họ 2 lOMoAR cPSD| 45474828
luôn sẵn sàng điều chỉnh và thay đổi phương pháp làm việc khi cần thiết để đạt được kết quả
tốt nhất. Nhân lực chất lượng cao có khả năng tìm ra những giải pháp mới, sáng tạo, và áp
dụng những ý tưởng độc đáo để giải quyết vấn đề hoặc cải tiến quy trình công việc.
Thứ năm, nguồn nhân lực chất lượng cao có năng lực thực tế tạo nên kết quả cao và
vượt trội trong công việc, có năng lực cạnh tranh, có đóng góp thực sự hữu ích cho xã hội.
Họ không chỉ có lý thuyết vững mà còn có khả năng ứng dụng lý thuyết vào thực tế để tạo ra
kết quả cụ thể và có giá trị. Nhân lực chất lượng cao luôn đạt được kết quả vượt qua mong
đợi, có khả năng tạo ra hiệu quả công việc vượt trội so với các tiêu chuẩn thông thường. Họ
luôn nỗ lực duy trì hoặc gia tăng khả năng cạnh tranh trong công việc và trong thị trường lao
động, không ngừng học hỏi và phát triển bản thân. Ngoài công việc chuyên môn, họ còn có
ảnh hưởng tích cực đến cộng đồng thông qua các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường hoặc
những đóng góp trí tuệ vào các vấn đề toàn cầu.
3. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
Thứ nhất, nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình
tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên
nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau,
nhưng trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực với yếu tố hàng
đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai
thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và
chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con
người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản
xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã 3 lOMoAR cPSD| 45474828
hội. Đặc biệt với nguồn nhân lực chất lượng cao, việc khai thác, sản xuất và sử dụng các nguồn
lực khác sẽ được tối ưu hơn khi các nguồn lực đó được kết hợp một cách khoa học. Trong đó
tri thức kinh nghiệm và chuyên môn của chủ thể sáng tạo là yếu tố hàng đầu chi phối việc kết
hợp các nguồn lực đó. Đã có một lượng đồ sộ các nghiên cứu được thực hiện để xem xét vai
trò của nguồn vốn con người trong việc quyết định mức GDP và tăng trưởng GDP bình quân đầu người.
Thứ hai, nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận quan trọng để đẩy nhanh tốc độ
ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào các ngành sản xuất. Đây chính là tiền đề cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu kinh tế càng
tiến bộ càng hiện đại càng đòi hỏi khả năng thích ứng cao hơn của nguồn nhân lực cả về trình
độ học vấn, trí tuệ, năng lực sáng tạo, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, thể
lực cũng như phẩm chất tâm sinh lý, ý thức, lối sống, đạo đức. Trong bối cảnh phát triển số
như hiện nay, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ và có những bước phát triển mới, điều này
đòi hỏi một bộ phận lớn nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu ứng dụng các
công cụ khoa học- kỹ thuật, công nghệ thông minh. Việc tiếp thu những thành tựu khoa học
kỹ thuật đối với những người đã được đào tạo, có nền tảng tri thức sẽ dễ dàng và đạt hiệu quả
cao hơn trong việc ứng dụng vào công việc cũng như cuộc sống hàng ngày.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực chủ yếu tiếp cận và phát triển nền
kinh tế tri thức. Nhân tố đóng vai trò quyết định cho sự phát triển bền vững của các quốc gia
chính là nguồn nhân lực chất lượng cao, chứ không chỉ là nguồn của cải vật chất. Thực tế quá
trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở các quốc gia trên thế giới cho thấy: trong tiến trình
chuyển đổi, nếu biết dựa vào việc khai thác và sử dụng năng lực của nguồn nhân lực thì luôn
giữ được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Nhà báo Thomas Friedman của tờ báo New York
Times đã đưa ra khái niệm dùng trọng lượng của sản phẩm để so sánh trình độ quốc gia. Hãy
xem ví dụ: để thu được 500USD, người ta có thể làm gì?
Để thu được 500USD Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam bán 5 tấn than đá, Nông dân
ở đồng bằng Sông Cửu Long bán 2 tấn gạo, Trung Quốc bán chiếc xe gắn máy trọng lượng
100kg, Hãng Sony bán chiếc tivi trọng lượng 10 kg, Hãng Nokia bán chiếc điện thoại trọng
lượng 0,1 kg, Hãng Intel bán con chip máy tính trọng lượng 0,01 kg, Hãng Microsoft bán một
phần mềm trọng lượng 0 kg. Còn nhiều nữa, những sản phẩm giá trị nhất nhưng trọng lượng
chỉ 0 kg đó là những phát minh sáng chế hay giá trị thương hiệu... Hàm lượng tri thức càng
cao, trọng lượng sản phẩm càng nhẹ. Ngày nay tất cả những quốc gia hùng mạnh đều nhờ vào
một yếu tố: trình độ giáo dục, và tiếp theo là trình độ công nghệ. Đó là kỷ nguyên của nền
kinh tế tri thức. Ví dụ này đã chứng minh nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò quan trọng
trong việc tiếp cận nền kinh tế tri thức. 4 lOMoAR cPSD| 45474828
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển bền vững.
Nguồn nhân lực chất lượng cao càng phát triển, trình độ văn minh, văn hóa càng cao thì con
người sống càng lịch sự, tin tưởng và hợp tác với nhau chặt chẽ hơn, sống có trách nhiệm
hơn với chính bản thân và cộng đồng. Người có tri thức thường cởi mở hơn, quan tâm đến
sức khỏe và vì vậy sống khỏe hơn và hạnh phúc hơn. Người có tri thức thích tham gia vào
các hoạt động xã hội và ít phạm pháp hơn. Do vậy, góp phần làm giảm sự chi tiêu lợi tức xã
hội như trợ cấp thất nghiệp, chi phí điều trị bệnh, chi phí cho việc đảm bảo an ninh trật tự…
Tuy nhiên nếu một quốc gia, một địa phương chỉ chú trọng phát triển một bộ phận nguồn
nhân lực chất lượng cao mà không đồng thời phát triển nguồn nhân lực nói chung lên một
cách tương đối thì sẽ gây ra phân tầng xã hội quá chênh lệch. Điều này có thể dẫn đến bất
bình đẳng ngày càng cao hơn, có thể gây mất ổn định chính trị - xã hội. Do vậy, để phát triển
xã hội bền vững cần phải phát huy tác động lan tỏa của nguồn nhân lực chất lượng cao đối
với toàn cộng đồng, xã hội. Thứ năm, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế. Quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế, nguồn nhân
lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam đứng trước nhiều thách thức
lớn. Việc hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, với sự đa
dạng của các nền kinh tế trên thế giới, để có thể hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, bình đẳng
và có tiếng nói yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao rất khắt khe, để bắt kịp các xu
hướng và kịp thời giải quyết các thách thức. Trong bối cảnh phát triển hiện nay, Đảng ta đã
xác định “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của
nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức,
coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
1. Quá trình hình thành và phát triển quan điểm của Đảng về phát triển nguồn lực chất lượng cao
Quá trình hình thành và phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao trải qua nhiều giai đoạn, gắn liền với yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Dưới đây là những giai đoạn chính trong quá trình này:
Giai đoạn trước Đổi mới (trước 1986)
Trong thời kỳ này, Đảng chủ yếu tập trung vào phát triển nguồn nhân lực để phục vụ công
cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Trước
năm 1986, Việt Nam vận hành nền kinh tế theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, trong đó Nhà 5 lOMoAR cPSD| 45474828
nước giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Việt Nam trải qua hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong thời gian này, nguồn nhân lực được
đào tạo chủ yếu để phục vụ chiến tranh, bao gồm các ngành y tế, quân sự, giáo dục và công
nghiệp quốc phòng. Sau ngày thống nhất, Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn do hậu quả
chiến tranh để lại, bao gồm tình trạng thiếu nhân lực có chuyên môn, cơ sở hạ tầng lạc hậu và
nền kinh tế kém phát triển. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đặt mục tiêu tập trung phát
triển nguồn nhân lực để phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mô hình xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương chính là đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật, giáo viên, bác sĩ để phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Vì nền kinh tế vận hành chủ yếu
dựa vào các doanh nghiệp nhà nước, hệ thống giáo dục và đào tạo hướng đến việc cung cấp
nhân lực cho các đơn vị này thay vì chuẩn bị cho một nền kinh tế đa thành phần. Do chính
sách kinh tế bao cấp không khuyến khích tư nhân tham gia sản xuất kinh doanh, hệ thống giáo
dục cũng không đào tạo những kỹ năng phù hợp với kinh tế thị trường như quản trị kinh doanh hay khởi nghiệp.
Hệ thống giáo dục chủ yếu đào tạo theo nhu cầu của Nhà nước, chưa chú trọng nhiều đến
chất lượng và khả năng đáp ứng thị trường lao động. Vì nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa vào
các doanh nghiệp nhà nước, hệ thống giáo dục và đào tạo hướng đến việc cung cấp nhân lực
cho các đơn vị này thay vì chuẩn bị cho một nền kinh tế đa thành phần. Do chính sách kinh tế
bao cấp không khuyến khích tư nhân tham gia sản xuất kinh doanh, hệ thống giáo dục cũng
không đào tạo những kỹ năng phù hợp với kinh tế thị trường như quản trị kinh doanh hay khởi nghiệp.
Giai đoạn Đổi mới và mở cửa (1986 - 2000)
Bước vào đổi mới (1986) dân số nước ta là 59.872.000 người, đến năm 1997 (sau 11 năm)
là 76.709.000 người (tăng 16.837.000 người, bình quân một năm dân số nước ta ở thời kỳ này
tăng hơn 1,5 triệu người); trong đó lực lượng lao động từ 27.398.000 người (năm 1986) lên
36.994.000 (năm 1997). Năm 2000, dân số nước ta là 77.658.500 người, tăng 1.080.000 người.
Chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với quy mô dân số đông, lực lượng
lao động dồi dào, đó là sức mạnh, là yếu tố cơ bản để phát triển nhanh. Song, với điểm xuất
phát thấp, nguồn vốn nhỏ bé, trình độ công nghệ vừa thiếu vừa lạc hậu, hạ tầng kém… thì một
khi nguồn lao động đã dư thừa lại tăng với tốc độ nhanh sẽ gây sức ép lớn về việc làm.
Trước khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996), tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thông qua, một lần nữa Đảng ta khẳng định: “phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo
đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế 6 lOMoAR cPSD| 45474828
với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội.”
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đại hội VIII của Đảng khẳng định với tính
chất là chiến lược thì vấn đề phát triển nguồn nhân lực càng được chú trọng. Nguồn lực cơ
bản, to lớn, quyết định này phải có hàm lượng trí tuệ, phẩm chất ngày một cao mới có thể đáp
ứng được sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa to lớn này. Đại hội VIII của Đảng khẳng
định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là
nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.”
Từ sau Đại hội VIII, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng
đã ban hành nhiều nghị quyết về nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến việc chăm sóc, bồi
dưỡng và phát huy nhân tố con người. Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) về định
hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực.
Nghị quyết nêu: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.”
Giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (2001 - 2010)
Đại hội IX (2001) của Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn
nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập trung học cơ sở; ứng dụng nhanh
các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức”.
Nghị quyết Trung ương 6 (2002) về phát triển khoa học - công nghệ khẳng định tầm quan
trọng của việc nâng cao chất lượng nhân lực. Nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định
năng suất lao động, khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ hiện đại. Nhà nước khuyến khích
doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ.
Đại hội X (2006) tiếp tục nhấn mạnh giáo dục - đào tạo và phát triển nhân lực là yếu tố quyết
định đến năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia.Chuyển từ mô hình đào tạo theo
kế hoạch cứng nhắc sang mô hình đào tạo gắn với nhu cầu thực tế của doanh nghiệp và xã hội.
Đặc biệt chú trọng đến các ngành công nghệ, kỹ thuật, quản trị kinh doanh để đáp ứng nhu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.Chính sách hỗ trợ du học sinh, chương trình hợp tác với các
trường đại học, tổ chức quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo.
Giai đoạn hội nhập sâu rộng và phát triển bền vững (2011 - nay) 7 lOMoAR cPSD| 45474828
Đại hội XI (2011) kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân lực từ các đại
hội trước, đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là: “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã xác định ba khâu đột phá
chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Đây được xem là khâu đột phá đúng và trúng
với hoàn cảnh nguồn nhân lực nước ta hiện nay khi hội nhập quốc tế, cạnh tranh quyết liệt và
đòi hỏi của thời đại khoa học, công nghệ. Khâu đột phá trúng và đúng này đã và đang tập trung
nâng cao sức mạnh nội sinh - nguồn nhân lực, để tồn tại và phát triển trong một thế giới năng
động, thế giới của khoa học và công nghệ.
Đại hội XII (2016) tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao gắn với
khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Đào tạo các
chuyên gia, kỹ sư trong các ngành công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa, công
nghệ thông tin, kỹ thuật số. Khuyến khích các trường đại học, viện nghiên cứu hợp tác với
doanh nghiệp để đào tạo nhân lực có kỹ năng thực tiễn. Đại hội XIII (2021) xác định phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố then chốt để đưa Việt Nam trở thành nước phát triển
có thu nhập cao vào năm 2045.
2. Các quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhìn chung, các quan điểm của Đảng trong những năm gần đây và cả các giai đoạn trước,
đều thống nhất rằng nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố then chốt trong
quá trình xây dựng đất nước, cụ thể là trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và gần đây
hơn là hội nhập quốc tế. Theo đó, các quan điểm này của Đảng được thể hiện qua các văn
kiện, nghị quyết và chiến lược phát triển, nhằm khẳng định tính đúng đắn của việc đánh giá
cao sự quan trọng của nguồn nhân lực, cùng với đó là các chiến lược nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của quốc gia.
Về quan điểm của Đảng đối với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, quan điểm
chính của Đảng là coi con người là trung tâm của sự phát triển. Tư tưởng này đã một phần
được thể hiện trong những văn kiện đầu tiên của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
và Mỹ, khi mà con người cũng được đặt làm trung tâm của cách mạng - sứ mệnh quan trọng
nhất của dân tộc, và trong bối cảnh hiện tại, mục tiêu ấy đã chuyển sang phát triển nền kinh tế
quốc gia, và con người một lần nữa được đặt trong vị trí trung tâm. Văn kiện Đại hội XIII thể
hiện rõ điều này, nhấn mạnh việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khỏe, kỹ năng và tinh thần trách nhiệm, và qua đó xác định phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết
định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, 8 lOMoAR cPSD| 45474828
hiệu quả và bền vững. Cũng trong thời kỳ này, nguồn nhân lực chất lượng cao cũng là điều
kiện tiên quyết bảo đảm thành công cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; rút ngắn
khoảng cách tụt hậu đồng thời duy trì tăng trưởng nhanh, bền vững; là yếu tố quyết định đẩy
mạnh nghiên cứu, triển khai ứng dụng khoa học - công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi
mô hình tăng trưởng; là động lực chủ yếu tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức; là điều
kiện quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhìn chung, Đảng đánh giá nguồn
nhân lực chất lượng cao là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công cho các chính sách và
chiến lược phát triển đất nước, được nhấn mạnh tại các kỳ Đại hội XI (năm 2011) với việc coi
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược thời đại mới,
Đại hội XII (năm 2016) trong chiến lược “Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa”, và Đại hội XIII
(năm 2021) là về hội nhập và đổi mới sáng tạo, cho thấy tầm quan trọng của chất lượng nguồn
lực trong các đội ngũ kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý,
quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người.
Bên cạnh quan điểm về vai trò của nguồn nhân lực là quan điểm về phát triển nguồn nhân
lực đó nhằm đảm bảo lao động trong nước có đủ trình độ để hoàn thành sứ mệnh của mình.
Theo đó, quan điểm hạt nhân chính là đặt đầu tư cho giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai đất nước.Và để đào tạo được nguồn nhân
lực phục vụ cho quá trình phát triển trong bối cảnh quốc tế phức tạp và công nghệ kỹ thuật
ngày càng được đổi mới, hệ thống giáo dục cần phải có những chuyển biến căn bản, mạnh mẽ
về chất lượng, hiệu quả nhằm đào tạo được nguồn nhân lực có sức khỏe, có trình độ chuyên
môn, nghề nghiệp cao, có phẩm chất xã hội phù hợp. Chủ trương của quan điểm này bao gồm
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế; phát
triển giáo dục đại học và dạy nghề chất lượng cao, gắn với nhu cầu thị trường lao động; khuyến
khích hợp tác quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu khoa học. Đồng thời, hướng đi của sự phát
triển chất lượng nhân lực phải gắn liền với thực tiễn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, cụ thể
hóa các chính sách đào tạo trong các lĩnh vực công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa.
Theo sau các quan điểm về đào tạo nhằm phát triển nhân lực là các quan điểm nhằm sử
dụng tối ưu, hiệu quả nguồn lực này. Tận dụng hiệu quả nguồn lực không chỉ giúp tối ưu hóa
nền kinh tế của đất nước, mà cũng góp phần vào việc tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa chất
lượng nguồn lực trong lĩnh vực đó, thông qua hoạt động thu hút các chuyên gia, tiến sĩ đầu
ngành trong các cơ sở giáo dục cấp cao đẳng, đại học và cả trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Các quan điểm về thu hút và đãi ngộ nhân tài, đặc biệt là trong khu vực nhà nước, luôn
đi cùng với quan điểm về phát triển nguồn lực quốc gia, bởi lẽ, trước tác động của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, yêu cầu về trình độ, năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả 9 lOMoAR cPSD| 45474828
năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển, về thúc đẩy phát triển
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trên tất cả ngành, lĩnh vực ngày càng lớn, việc nghiên
cứu, xây dựng quan điểm, nhận thức đúng đắn và đề xuất giải pháp phù hợp, toàn diện nhằm
nhận diện, thu hút, trọng dụng nhân tài là vấn đề cấp thiết, ý nghĩa, góp phần xây dựng đất
nước ngày càng bền vững, thịnh vượng. Quan điểm này của Đảng là ưu tiên thu hút nguồn lực
hoạt động trong các khâu công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt nhằm đóng góp
vào khu vực công của nền kinh tế, góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả. Đại hội XVIII của Đảng gần đây cũng đã khẳng định về đường lối
phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới: “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế
đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là
những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo
động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”
Tóm lại, các quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong những
năm gần đây tương đối ổn định, với các điểm chung là khẳng định tầm quan trọng của nguồn
nhân lực chất lượng trong các hoạt động quản lý nhà nước và các lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế trong bối cảnh cụ thể của cuộc Cách mạng công nghệ 4.0, qua đó, nhấn mạnh sự cần
thiết của các chiến lược giáo dục, đào tạo và thu hút nhân tài nhằm tận dụng tối đa nguồn lực
này, bắt kịp với sự phát triển của thế giới, và mang lại lợi ích cho quốc gia và dân tộc.
3. Nghị quyết và chiến lược liên quan về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố then chốt quyết định mức độ
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh
tranh, tạo động lực cho đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ tiên tiến.
Nghị quyết Đại hội XIII
Trong quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước luôn ưu tiên và có các chính sách để thu hút
người tài vào làm việc trong bộ máy. Và trong Nghị quyết Đại hội XIII đã nêu rõ một trong 3
đột phá chiến lược đó là phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu
tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên
cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục,
đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển
giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Đại hội XIII của Đảng đặt ra mục tiêu đến năm 2045 đưa Việt Nam trở thành nước phát
triển, thu nhập cao. Để thực hiện mục tiêu này, một trong những yếu tố then chốt mà Nghị
quyết Đại hội đề ra đó chính là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ quá trình
phát triển đất nước, hội nhập quốc tế. 10 lOMoAR cPSD| 45474828
Trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, vấn đề xây dựng nguồn nhân lực chất
lượng cao được nhắc đi nhắc lại trong văn kiện, là nội dung then chốt của định hướng phát
triển đất nước. Trong phần Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, vấn đề xây
dựng nguồn nhân lực chất lượng cao chiếm tới 2 mục trên tổng số 12 mục, cụ thể:
Thứ nhất, tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển
giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế
để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh
vực so với khu vực và thế giới.
Thứ hai, phát triển con người toàn diện, xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện
xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát
vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt
Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
Nghị quyết 15-NQ/TW năm 2022
Căn cứ tại Tiểu mục 7 Mục 3 Nghị quyết 15-NQ/TW năm 2022 có nêu cụ thể nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045 như sau:
Thứ nhất, quyết liệt, kiên trì thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ; xây dựng hệ thống chính trị tinh
gọn, liên thông, hiệu lực, hiệu quả, gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong thực thi nhiệm
vụ; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đi đôi với chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát và kiểm soát quyền lực, giám sát việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng và
cơ chế, chính sách, quy định pháp luật của Nhà nước, nhất là ở cấp cơ sở; thực hiện nghiêm
quy định về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; nâng
cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cấp uỷ, chính quyền các cấp, cá thể hoá trách nhiệm cá nhân…
Thứ hai, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có
năng lực, trình độ cao, chuyên nghiệp, có bản lĩnh, phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu, năng
động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có ý chí vươn lên, khát vọng cống
hiến cho sự nghiệp phát triển Thủ đô. Có cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút, trọng dụng
nguồn nhân lực chất lượng cao trong nước và quốc tế; thực hiện tốt cơ chế khuyến khích, bảo
vệ cán bộ năng động, sáng tạo, vì lợi ích chung theo quy định.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới hiệu quả phương thức lãnh đạo của Đảng, năng lực, hiệu lực, hiệu
quả quản lý của các cấp chính quyền; đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, nâng cao hiệu 11 lOMoAR cPSD| 45474828
quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội các cấp và các hội quần chúng;
xây dựng, củng cố khối đoàn kết toàn dân, mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã
hội, phát huy vai trò của nhân dân vừa là trung tâm, chủ thể, vừa là đối tượng thụ hưởng các
thành tựu trong quá trình xây dựng và phát triển Thủ đô.
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013
Theo Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đã định hướng chiến lược giáo dục - đào tạo trong
thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hóa, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục và đào tạo.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo
theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.
Thứ ba, đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo
dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập
suốt đời và xây dựng xã hội học tập
Thứ năm, đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống
nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng
Thứ sáu, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo
Thứ bảy, đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn
xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo
Thứ tám, nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ,
đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý
Nghị quyết số 30/NQ-TW ngày 23-11-2022
Nghị quyết số 30/NQ-TW ngày 23-11-2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội
và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045 xác định rõ mục tiêu vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030: “tập trung phát triển
công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, xanh, tuần hoàn có giá
trị kinh tế cao; trở thành trung tâm giáo dục, đào tạo nhân lực chất lượng cao của cả nước; đi
đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; có hạ tầng kinh
tế - xã hội đồng bộ, hiện đại, đô thị thông minh, có tính kết nối cao”
Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 04-5-2024 12 lOMoAR cPSD| 45474828
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 30, Chính phủ ban hành Quyết định số 368/QĐ-TTg
ngày 04-5-2024 về Phê duyệt Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm
nhìn đến năm 2050. Theo đó, đến năm 2030, vùng ĐBSH phấn đấu tăng tỷ lệ lao động qua
đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 48-52%; đưa tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao
động xã hội về dưới 10%. Mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, vùng ĐBSH
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hùng hậu, có chuyên môn, văn hóa để nhanh chóng
đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế.
Văn kiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2021–2030)
Trong Văn kiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2021–2030) phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đã chỉ ra phương hướng,
nhiệm vụ và giải pháp phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu nhân
lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, cụ thể:
Thứ nhất, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình
độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát
triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu
ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân
lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc
con người. đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị
nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Thứ hai, đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt;
bảo đảm thống nhất với chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Tập
trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, nhất là ở nông
thôn; giảm tỷ lệ lao động khu vực phi chính thức. Chú trọng đào tạo lại, đào tạo thường xuyên
lực lượng lao động. Hình thành đội ngũ lao động lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia, gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và sử dụng lao động.
Thứ ba, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo.
Nghiên cứu để hoàn thiện, ổn định hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học.
Chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục, đào tạo. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình
thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua internet, truyền hình, các hoạt động xã
hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội. Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách 13 lOMoAR cPSD| 45474828
nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin,
công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu).
Thứ tư, thực hiện phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa vào
chương trình giáo dục phổ thông nội dung kỹ năng số và ngoại ngữ tối thiểu, chú trọng xây
dựng nền tảng kỹ năng nhận thức và hành vi cho học sinh phổ thông. Đẩy mạnh phân luồng
sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Giảm tỷ lệ mù chữ ở
vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ năm, sắp xếp lại hệ thống trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và
ngoài công lập, giữa các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo,
hoàn thiện chính sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối
với đào tạo bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới, chuyển đổi trường đại học công
lập kém hiệu quả sang mô hình hợp tác công - tư. Quy hoạch, sắp xếp lại các trường đại học,
cao đẳng; có cơ chế hỗ trợ xây dựng một số trường đại học lớn và đại học sư phạm trở thành
những trung tâm đào tạo có uy tín trong khu vực và thế giới.
Thứ sáu, thực hiện cơ chế tự chủ một số trường phổ thông tại các đô thị lớn, các nơi có
điều kiện; thí điểm cơ chế cho thuê một số cơ sở giáo dục sẵn có theo nguyên tắc bảo đảm tất
cả học sinh được đến trường. Xây dựng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng
xã hội học tập; thực hiện đào tạo theo nhu cầu của thị trường lao động. Đặc biệt, chú ý phát
hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút nhân tài cho phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng,
hiệu quả dạy và học ngoại ngữ, coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Phấn đấu đến năm
2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG 4.0
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG 4.0
1. Thực trạng sự vận dụng quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao Việt Nam trong bối cảnh cách mạng 4.0
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng
cao đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ hội nhập và cách mạng
công nghiệp 4.0. Các nghị quyết, chiến lược phát triển đều khẳng định vai trò then chốt của
nguồn nhân lực trong việc thúc đẩy sự phát triển của đất nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực
công nghệ cao, đối mới sáng tạo, khoa học - công nghệ, và các ngành nghề mới. Nghị quyết
Đại hội XII và XII của Đảng đều nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là
yếu tố quyết định để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thực hiện công nghiệp hóa hiện 14 lOMoAR cPSD| 45474828
đại hóa đất nước.” Đảng ta cũng xác định, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, cần tập
trung đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, sáng tạo, đổi mới, đặc biệt là trong các ngành
công nghiệp mũi nhọn như công nghệ thông tin, tự động hóa, trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học.
Đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, giáo dục - đào tạo đóng
vai trò then chốt trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quan trọng để đổi
mới toàn diện hệ thống giáo dục, nhằm xây dựng đội ngũ lao động có trình độ cao, kỹ năng
phù hợp với thực tiễn.
Việc đẩy mạnh công tác đào tạo phát triển nhân lực chất lượng cao trong trong hệ thống
giáo dục nghề nghiệp đã được đặc biệt chú trọng nhiều hơn từ năm 2014, Ban Bí thư đã ban
hành Chỉ thị số 37-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân
lực có tay nghề cao. Ngày 30/11/2018, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cũng đã ban
hành Thông tư số 21/2018/TT-BLĐTBXH quy định tiêu chí xác định chương trình chất lượng
cao trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng. Đây là những cơ sở quan trọng để các cơ sở giáo
dục nghề nghiệp tổ chức thực hiện đào tạo các chương trình chất lượng cao.
Hệ thống cơ chế, chính sách về Giáo dục đào tạo tiếp tục được chú trọng hoàn thiện nhằm
khắc phục những hạn chế, bất cập, giải quyết những “nút thắt” trong hoạt động đổi mới giáo
dục, tạo hành lang pháp lý để các địa phương, các cơ sở giáo dục đào tạo thực hiện. Bộ Giáo
dục và đào tào đã trình và được Quốc hội thông qua hai luật quan trọng, đó là Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học năm 2018 và Luật Giáo dục năm 2019.
Chất lượng giáo dục phổ thông được nâng lên, được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Theo báo cáo “Tăng trưởng thông minh hơn: Học tập và Phát triển công bằng ở Đông Á –
Thái Bình Dương” năm 2018 của Ngân hàng Thế giới đã khẳng định 7 trong số 10 hệ thống
giáo dục đổi mới hàng đầu của thế giới nằm ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, trong đó
sự phát triển thực sự ấn tượng là ở hệ thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc. Báo cáo
Phát triển 2018 của Ngân hàng Thế giới “Learning to realize education’s promise” tái khẳng
định đánh giá trong nhiều nghiên cứu là năng lực học sinh lứa tuổi 15 nước ta – một nước thu
nhập trung bình thấp, có kết quả vượt mức trung bình của học sinh các nước khối OECD. Việc
triển khai chương trình, sách giáo khoa mới được tích cực thực hiện; thực hiện tốt việc đổi
mới phương pháp và hình thức dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh theo hướng phát
triển phẩm chất và năng lực. Công tác giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học
sinh có bước chuyển biến. Đến nay, Bộ Bộ Giáo dục và đào tào đã hoàn thành và ban hành 15 lOMoAR cPSD| 45474828
Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, tổ chức thực nghiệm chương trình môn học trong
chương trình giáo dục phổ thông mới. Chương trình phổ thông mới thay đổi căn bản cách tiếp
cận từ “theo nội dung” sang theo hướng “phát triển năng lực và phẩm chất”, dạy học “tích
hợp” ở cấp dưới, dạy “phân hóa” ở cấp trên, tăng cường các môn tự chọn. Mặc dù chương
trình chưa áp dụng chính thức, nhưng các yếu tố về phương pháp giáo dục, dạy học và kiểm
tra đánh giá đã được áp dụng từng phần ở các bậc học.
Chất lượng giáo dục đại học ngày càng được quan tâm, văn hóa chất lượng từng bước
được hình thành trong các cơ sở giáo dục đại học. Một số trường đại học đã triển khai đào tạo
hiệu quả nguồn nhân lực theo các chương trình tiên tiến được chuyển giao từ các nước phát
triển; đẩy mạnh việc triển khai thực hiện hỗ trợ khởi nghiệp đối với sinh viên. Thứ hạng trong
các bảng xếp hạng đại học quốc tế của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam ngày càng được
cải thiện. Nếu như trước năm 2014, cả Việt Nam chỉ có duy nhất Đại học Quốc gia Hà Nội lọt
vào bảng xếp hạng đại học châu Á của Tổ chức xếp hạng đại học QS với vị trí trong nhóm 250
trường hàng đầu thì đến năm 2018, có 7 cơ sở giáo dục đại học lọt top 500 của bảng xếp hạng
đại học QS châu Á. Trong đó, Đại học Quốc gia Hà Nội xếp vị trí 124 của châu Á. Đặc biệt,
năm 2018, lần đầu tiên lĩnh vực Vật lý của Đại học Quốc gia Hà Nội được xếp hạng 502 trên
thế giới theo US News. Ngoài ra, cũng có 3 trường đại học đạt mức 3 sao, 1 trường đạt mức 4
sao theo chuẩn gắn sao đại học thế giới (QS Star Rating). Tự chủ đại học được đẩy mạnh thông
qua việc triển khai Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ. Kể từ khi được
giao quyền tự chủ, số lượng các đề tài khoa học đấu thầu thành công, số lượng
các công bố trong nước, quốc tế, các chương trình mở mới của các trường đại học đều tăng,
quy mô đào tạo ổn định, thu nhập của giảng viên, người lao động tăng
Ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và trong dạy học
ngày càng được đẩy mạnh. Cơ sở dữ liệu của các cấp học đã được thống kê; dữ liệu về đội
ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được đưa vào sử dụng làm cơ sở cho cơ quan quản
lý ra các quyết định về chính sách hiệu quả, khắc phục tối đa những bất cập hiện nay như thừa,
thiếu giáo viên, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, chính sách cho nhà giáo. Kiểm định
chất lượng giáo dục được triển khai tích cực, hiệu quả, đánh giá đúng chất lượng đào tạo của
các cơ sở giáo dục. Kết quả kiểm định chất lượng làm căn cứ để xác định chất lượng giáo dục
đại học, vị thế và uy tín của cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, đối với một số địa phương,
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học tại các trường phổ thông còn gặp khó
khăn do kinh phí chưa đáp ứng, chưa đủ cơ sở vật chất, khả năng tiếp cận của một số giáo viên còn hạn chế, ...
Phát triển hợp tác quốc tế trong đào tạo đại học 16