



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 47206417
B Ộ GIÁO D Ụ C VÀ ĐÀO T Ạ O
TRƯ Ờ NG Đ Ạ I H Ọ C THƯƠNG M Ạ I QUAN ĐI
Ể M C Ủ A Đ Ả NG V Ề PHÁT TRI Ể N
NGU Ồ N L Ự C CH Ấ T LƯ Ợ NG CAO, V Ậ N D Ụ NG TRONG B Ố
I C Ả NH CÁCH M Ạ NG 4.0 NHÓM : 4
MÃ L Ớ P : 242 _HCMI0131_ 20
H Ọ C PH Ầ N : L Ị CH S Ử Đ Ả NG C Ộ NG S Ả N VI Ệ T NAM
GIÁO VIÊN HƯ Ớ NG D Ẫ N : HOÀNG TH Ị THÚY
HÀ N Ộ I, 2025 lOMoAR cPSD| 47206417 MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................... i
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC
CHẤT ............................................................................................................................ 1
LƯỢNG CAO ................................................................................................................ 1
1.1. Bối cảnh lịch sử ........................................................................................................ 1
1.1.1. Giai đoạn trước đổi mới ................................................................................ 1
1.1.2. Giai đoạn Đổi mới và hội nhập ..................................................................... 3
1.2. Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ........................ 5
1.2.1. Xác định phát triển nguồn nhân lực là một đột phá chiến lược .................... 5
1.2.2. Gắn phát triển nguồn lực với đổi mới giáo dục - đào tạo ............................. 9
1.2.3. Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực trong các ngành mũi nhọn .................... 12
1.2.4. Gắn kết nhân lực với khoa học - công nghệ ................................................ 16
1.2.5. Đổi mới cơ chế, chính sách phát triển nhân lực .......................................... 17
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG TRONG BỐI CẢNH
CÁCH .......................................................................................................................... 20
MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 ....................................................................................... 20
2.1. Nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay và tác động của CMCN 4.0 đến việc phát
triển nguồn nhân lực ...................................................................................................... 20
2.1.1. Nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay ...................................................... 20
2.1.2. Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 đến việc phát triển nguồn nhân lực
............................................................................................................................... 21
2.2. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh cách mạng
công nghiệp 4.0 ............................................................................................................. 24
2.3. Đánh giá ................................................................................................................. 30
2.3.1. Thành tựu .................................................................................................... 30
2.3.2. Hạn chế ........................................................................................................ 32
2.4. Kiến nghị ................................................................................................................ 34
2.4.1. Đối với địa phương ...................................................................................... 34
2.4.2. Đối với Trung ương ..................................................................................... 36
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 40 lOMoAR cPSD| 47206417
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 40 i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASEAN:
Association of Southeast Asian Nations
(Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á) APEC:
Asia-Pacific Economic Cooperation
(Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương) ASEM:
Asia–Europe Meeting (Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu) CMCN: Cách mạng công nghiệp CNH: Công nghiệp hóa
GD&ĐT: Giáo dục và Đào tạo HĐH: Hiện đại hóa
SEAMEO: South-East Asian Ministers of Education Organization
(Tổ chức Bộ trưởng giáo dục các nước Đông Nam Á)
UNESCO: United Nations Educational Scientific and Cultural Organization
(Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc) XHCN: Xã hội chủ nghĩa WTO:
World Trade Organization (Tổ chức Thương mại Thế giới) lOMoAR cPSD| 47206417 1 LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đã trở thành một trong những
yếu tố mang tính chiến lược, quyết định năng lực cạnh tranh và sự phát triển bền vững
của mỗi quốc gia. Cuộc cách mạng với sự bùng nổ của các công nghệ hiện đại như trí
tuệ nhân tạo AI, Internet vạn vật và tự động hóa đã làm thay đổi căn bản cách thức sản
xuất, kinh doanh và quản lý xã hội. Đồng thời, những thách thức mới về thị trường lao
động, cơ cấu ngành nghề và yêu cầu về trình độ, kỹ năng nghiệp vụ cũng đặt ra bài toán
cấp bách cho các quốc gia trong việc phát triển và quản lý nguồn nhân lực.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn nhân
lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Để từ đó, Đảng
quyết định đưa ra các chủ trương, chính sách nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
để tạo lợi thế cạnh tranh và thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế thế giới.
Bài thảo luận của nhóm sẽ phân tích quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, đồng thời đưa ra
một số kiến nghị nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời đại mới.
CHƯƠNG 1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Giai đoạn trước đổi mới
Những năm cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, sau khi giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam đứng trước rất nhiều thách thức chưa từng
có. Chiến tranh biên giới Tây Nam (1978-1979) và phía Bắc (1979) kéo dài, đặt đất nước
vào tình thế khó khăn về cả kinh tế lẫn an ninh quốc phòng. Đồng thời, Việt Nam phải
đối mặt với cuộc bao vây, cấm vận từ Mỹ và các nước phương Tây, khiến nền kinh tế
vốn đã chịu tổn thất nặng nề sau chiến tranh lại càng rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. lOMoAR cPSD| 47206417 2
Thời gian này Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam vừa phải giải quyết, dọn
dẹp những “xà bần” của đằng đẵng 30 năm chiến tranh giành độc lập dân tộc và thống
nhất đất nước, lại vừa phải tiếp tục vài cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc và
biên giới Tây Nam, dẫn đến việc bố trí sai cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. Mô hình kế
hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ rõ những hạn chế, làm cho nền kinh tế trì
trệ, khủng hoảng, sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu người dùng. Hậu quả là tình trạng
thiếu hụt lương thực, hàng hóa, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, buộc Nhà
nước phải ban hành chính sách tem phiếu, hạn chế phân phối hàng hóa thiết yếu. Đồng
thời, nguồn lực viện trợ từ các nước XHCN (đặc biệt là Liên Xô và Đông Âu) cũng dần
cạn kiệt, đặt Việt Nam vào thế bị động và khó khăn hơn trong việc duy trì ổn định kinh tế - xã hội.
Trong khi đó, trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra mạnh
mẽ, thúc đẩy xu hướng toàn cầu hóa trở thành chiến lược quan trọng của nhiều quốc gia.
Tuy nhiên, Việt Nam lúc bấy giờ vẫn bị cô lập, cấm vận, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng
về kinh tế, khiến đời sống người dân ngày càng tụt hậu so với các nước trong khu vực.
Hệ thống quản lý kinh tế vẫn mang nặng tính tập trung, kìm hãm sự sáng tạo và phát
triển của doanh nghiệp. Nhà nước kiểm soát toàn bộ nền kinh tế, các doanh nghiệp hoạt
động theo chỉ tiêu kế hoạch cứng nhắc, không có cơ chế thị trường để khuyến khích sự
cạnh tranh và đổi mới. Điều này dẫn đến tình trạng kém hiệu quả trong việc sử dụng
nguồn lực, bao gồm cả nguồn lực con người.
Trong giai đoạn này, nguồn lực chất lượng cao chưa được chú trọng phát triển do
những hạn chế về cơ chế quản lý, điều hành. Nhà nước kiểm soát toàn bộ nền kinh tế,
các doanh nghiệp hoạt động theo chỉ tiêu kế hoạch cứng nhắc, không có cơ chế thị trường
để khuyến khích sự cạnh tranh và sáng tạo. Điều này dẫn đến tình trạng kém hiệu quả
trong việc sử dụng nguồn lực, bao gồm cả nguồn lực con người.
Bên cạnh những khó khăn về kinh tế, hệ thống giáo dục thời kỳ này cũng gặp rất
nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Chương trình giảng
dạy còn nặng về lý thuyết, thiếu thực hành và không gắn liền với nhu cầu thực tiễn của
thị trường lao động. Phương pháp giảng dạy chủ yếu mang tính truyền đạt một chiều,
học sinh, sinh viên tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà không có nhiều cơ hội thực
hành hoặc sáng tạo. Cơ sở vật chất trường học vô cùng thiếu thốn, đặc biệt là ở khu vực
nông thôn và miền núi. Nhiều trường lớp tạm bợ, bàn ghế đơn sơ, sách vở khan hiếm.
Trong nhiều trường hợp, học sinh phải học ghép nhiều lớp, sử dụng lại sách giáo khoa lOMoAR cPSD| 47206417 3
cũ hoặc thậm chí viết trên bảng con bằng phấn thay vì có vở viết đầy đủ. Phòng thí
nghiệm, thư viện gần như không có hoặc rất hạn chế, dẫn đến việc học sinh thiếu điều
kiện thực hành, nghiên cứu. Đội ngũ giáo viên cũng gặp rất nhiều khó khăn. Lương giáo
viên thấp, chế độ đãi ngộ chưa hợp lý khiến nhiều người phải làm thêm các công việc
khác để trang trải cuộc sống. Tình trạng giáo viên bỏ nghề hoặc chuyển sang các ngành
khác để có thu nhập ổn định hơn không phải là hiếm. Bên cạnh đó, số lượng giáo viên
có trình độ chuyên môn cao còn hạn chế, đặc biệt là trong các môn khoa học tự nhiên và
kỹ thuật. Ngoài ra, chính sách đào tạo nguồn nhân lực chưa phù hợp với thực tế phát
triển kinh tế. Ngành nghề đào tạo chủ yếu dựa trên kế hoạch của Nhà nước mà không
linh hoạt theo nhu cầu của thị trường lao động. Nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp không
tìm được việc làm phù hợp do chương trình đào tạo không đáp ứng được yêu cầu thực
tế. Tình trạng thừa lao động ở một số ngành nhưng lại thiếu hụt nghiêm trọng ở các lĩnh
vực thiết yếu, như kỹ thuật, công nghệ, nông nghiệp hiện đại, là một vấn đề lớn của giáo dục giai đoạn này.
Tổng thể, giai đoạn trước đổi mới là một thời kỳ đầy khó khăn của Việt Nam, với
những thử thách đến từ cả yếu tố khách quan và chủ quan. Những hạn chế của mô hình
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sự cấm vận từ bên ngoài và những bất cập trong cơ chế
quản lý đã khiến đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, đòi hỏi một sự
thay đổi mạnh mẽ để đưa nền kinh tế thoát khỏi trì trệ và phát triển bền vững hơn trong tương lai.
1.1.2. Giai đoạn Đổi mới và hội nhập
Nhận ra những hạn chế của mô hình kinh tế hiện hành, Đảng và Nhà nước quyết
định tiến hành công cuộc Đổi mới, bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1986). Nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, thay đổi chính sách quản lý kinh tế,
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước ngoặt quan trọng giúp đất nước thoát khỏi khủng
hoảng, mở ra một giai đoạn phát triển mới với nhiều cơ hội và thách thức
Quá trình chuyển đổi này đã giúp Việt Nam đạt được những bước tiến quan trọng
trong phát triển kinh tế và xã hội. Nền kinh tế từng bước hiện đại hóa, công nghiệp và
dịch vụ trở thành động lực chính, trong khi nông nghiệp giảm dần tỷ trọng. Không chỉ
cơ cấu kinh tế thay đổi, mà cơ cấu nội ngành cũng có sự chuyển dịch theo hướng nâng
cao hiệu quả sử dụng nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Cùng với lOMoAR cPSD| 47206417 4
đó, Việt Nam từng bước mở cửa thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện để
các doanh nghiệp trong nước phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đảng và Nhà
nước đã có nhiều chính sách nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Các chương
trình đào tạo được cải cách, chú trọng cả lý thuyết và thực hành, đáp ứng nhu cầu của
thị trường lao động. Đặc biệt, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh
vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và quản lý được ưu tiên nhằm tạo nền tảng cho sự
nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách
thức. Cơ cấu lao động vẫn mất cân đối giữa các ngành và khu vực địa lý, lao động có
trình độ cao chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn, trong khi khu vực nông thôn và
miền núi còn thiếu hụt nhân lực chất lượng. Việc dư thừa lao động nhưng thiếu việc làm
trở thành một vấn đề quan trọng, đòi hỏi các chính sách điều tiết phù hợp nhằm khắc
phục tình trạng này. Hơn nữa, sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt
là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, cũng đặt ra yêu cầu mới về trình độ
và kỹ năng của người lao động. Nếu không có sự chuẩn bị tốt, nguy cơ tụt hậu so với
các quốc gia trong khu vực là hoàn toàn có thể xảy ra.
Nhân lực lại càng là yếu tố số một, là nguồn cội, động lực chính tạo nên lực lượng
sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền vững của phương thức sản xuất
mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì thế, muốn đẩy nhanh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách bền vững không thể không chăm lo phát triển con
người. Đảng ta xác định rất rõ rằng, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển.
Việt Nam, giống như nhiều quốc gia khác, đang trải qua quá trình phát triển kinh
tế và công nghiệp hóa nhanh chóng. Trong một nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa và
công nghiệp hóa, nhu cầu về nhân lực có trình độ cao và có kỹ năng đặc biệt là rất quan
trọng. Do đó, nhận thức về sự cần thiết duy trì và phát triển kỹ năng thông qua việc học
tập liên tục đang tăng lên trong cộng đồng lao động Việt Nam. Việt Nam đã chú trọng
vào việc nâng cao chất lượng giáo dục và mở rộng cơ sở hạ tầng giáo dục để cung cấp
cơ hội học tập cho nhiều người dân hơn. Điều này đang tạo điều kiện thuận lợi để người
lao động tiếp tục học tập và nâng cao trình độ sau khi tham gia vào lực lượng lao động.
Bên cạnh đó, chính sách pháp luật về thị trường lao động cũng được hoàn thiện nhằm
từng bước tiếp cận các chuẩn mực quốc tế trong quá trình hội nhập. Hệ thống pháp luật
được điều chỉnh theo hướng phù hợp với nền kinh tế thị trường, tiêu biểu là các quy định lOMoAR cPSD| 47206417 5
trong: Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Bộ luật Lao động, Luật Việc làm, Luật
Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, Luật Bảo hiểm xã
hội, Luật Bảo hiểm y tế … Những chính sách này tạo hành lang pháp lý quan trọng để
phát triển thị trường lao động theo hướng giải phóng sức lao động, tự do hóa trong lao
động, đảm bảo nguyên tắc thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, giúp kết nối cung -
cầu lao động hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách
thức. Cơ cấu lao động vẫn mất cân đối giữa các ngành và khu vực địa lý, lao động có
trình độ cao chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn, trong khi khu vực nông thôn và
miền núi còn thiếu hụt nhân lực chất lượng. Việc dư thừa lao động nhưng thiếu việc làm
trở thành một vấn đề quan trọng, đòi hỏi các chính sách điều tiết phù hợp nhằm khắc
phục tình trạng này. Hơn nữa, sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt
là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, cũng đặt ra yêu cầu mới về trình độ
và kỹ năng của người lao động. Nếu không có sự chuẩn bị tốt, nguy cơ tụt hậu so với
các quốc gia trong khu vực là hoàn toàn có thể xảy ra.
Những thách thức này đặt ra yêu cầu cấp thiết về cải cách và phát triển nguồn
nhân lực, trong đó đào tạo và nâng cao kỹ năng lao động trở thành ưu tiên hàng đầu.
Nhà nước đã tập trung xây dựng các chính sách nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
nghề, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đảm bảo sự phát triển
bền vững của đất nước trong bối cảnh hội nhập sâu rộng. Đồng thời, việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về lao động và thị trường lao động cũng được chú trọng nhằm tạo môi
trường làm việc công bằng, minh bạch và khuyến khích phát triển tài năng.
1.2. Quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
1.2.1. Xác định phát triển nguồn nhân lực là một đột phá chiến lược
Mặc dù Đại hội X (2006) đã chỉ rõ để thực hiện thắng lợi công cuộc đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức phải phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, tức là chuyển hướng chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo chiều
rộng sang chiều sâu, coi trọng và gia tăng nhanh chất lượng của nguồn nhân lực. Song
Đại hội X cũng như các kỳ Đại hội trước chưa xác định đó là khâu đột phá.
Để đạt được những mục tiêu mà các Đại hội đã đề ra, phải xác định đúng những
khâu đột phá - tức là những khâu trọng yếu của sự phát triển, nếu không sẽ tạo ra những
điểm nghẽn cản trở, kìm hãm tốc độ và hiệu quả của phát triển, thậm chí, nếu không lOMoAR cPSD| 47206417 6
được khai thông, giải toả nó sẽ triệt tiêu mọi động lực của phát triển. Do vậy, lựa chọn
đúng khâu đột phá sẽ tạo ra những tiền đề, những điều kiện và môi trường thuận lợi để
giải phóng mọi tiềm năng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Từ Đại
hội XI cho đến nay, một trong ba khâu đột phá chiến lược mà Đảng ta xác định là “Phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”.
Nguồn nhân lực được coi là một đột phá, một mặt xuất phát từ vai trò đặc biệt to
lớn của yếu tố này xét trong các mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, giữa các yếu tố
của tăng trưởng (lao động, vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, thiết bị, kỹ thuật - công
nghệ…), mặt khác xuất phát từ thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay và từ yêu
cầu của thời đại mới với những đổi thay to lớn. Khi mà trong bối cảnh đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức mà chất lượng nguồn nhân
lực của nước ta so với các nước khác còn “yếu và thiếu”. Song tăng trưởng kinh tế còn
thấp và thiếu tính bền vững bởi tăng trưởng chủ yếu dựa vào nguồn vốn đầu tư, vào khai
thác tài nguyên và nguồn nhân lực chất lượng thấp. Tất cả những vấn đề này đòi hỏi phải
có chiến lược khai thác tốt nhất mọi nguồn lực sẵn có, trong đó nguồn lực con người,
đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao chính là sức mạnh nội sinh và là nguồn lực
quyết định nhất. Vậy mà hiện nay Việt Nam lại đang rất thiếu hụt nguồn nhân lực này,
nguy cơ “tụt hậu” xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là
vô cùng to lớn. Đây chính là một trong những “nút thắt”, điểm nghẽn kìm hãm sự phát
triển nhanh và bền vững ở Việt Nam . Đó là lý do căn bản để Đảng ta lựa chọn “phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là khâu đột phá “.
Tại Đại hội XI (2011), Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập sâu rộng sau khi gia nhập WTO (2007), khiến nhu cầu về lao động có trình
độ cao trở nên cấp thiết. Do đó, Đảng nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố
quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”, “là một đột phá chiến lược, là yếu
tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh
tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm
cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”. Để thực hiện chiến lược này, Đại hội XI
cũng nêu rõ giải pháp trực tiếp cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đó là: “đổi mới
căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”. lOMoAR cPSD| 47206417 7
Như vậy, trọng tâm là đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo nhằm nâng
cao chất lượng lao động, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế đang chuyển dịch. Tuy nhiên,
quan điểm này vẫn tập trung chủ yếu vào việc nâng cao trình độ lao động theo hướng
chung, chưa nhấn mạnh mạnh mẽ đến sự gắn kết giữa nguồn nhân lực với nền kinh tế tri
thức và hội nhập quốc tế.
Đến Đại hội XII (2016), bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến
động với sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0, đòi hỏi Việt Nam phải
nâng cao năng lực cạnh tranh bằng nguồn nhân lực có khả năng thích ứng với công nghệ
mới. Vì vậy, Đảng tiếp tục khẳng định vai trò đột phá của nguồn nhân lực nhưng có sự
điều chỉnh quan trọng: thay vì chỉ tập trung vào giáo dục chung, Đảng nhấn mạnh: “Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công
nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”. Trên cơ sở đó,
Đại hội XII đề ra phương hướng, nhiệm vụ: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân
lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó
tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như
trong quá trình sản xuất kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”.
Như vậy, sang Đại hội XII (2016), Đảng tiếp tục khẳng định phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định, nhưng nhấn mạnh hơn
vào vai trò của khoa học, công nghệ và tri thức trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Văn
kiện Đại hội XII nêu rõ việc lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất
lượng cao làm động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế, phản ánh xu hướng phát triển
dựa vào tri thức thay vì lao động giá rẻ. Nếu như ở Đại hội XI, nguồn nhân lực chất
lượng cao được nhấn mạnh trong bối cảnh cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình
tăng trưởng, thì đến Đại hội XII, nó được đặt trong bối cảnh phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế, đòi hỏi lao động Việt Nam không chỉ có chuyên môn cao mà còn
phải thích nghi với môi trường cạnh tranh toàn cầu.
Trước thềm Đại hội XIII (2021), Việt Nam và thế giới đứng trước những thay đổi
to lớn do đại dịch COVID-19, sự bùng nổ của Cách mạng công nghiệp 4.0 và làn sóng
chuyển đổi số mạnh mẽ. Những thách thức này đặt ra yêu cầu cấp bách về đổi mới mô
hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc lOMoAR cPSD| 47206417 8
gia, trong đó nguồn nhân lực trở thành yếu tố then chốt. Trước bối cảnh đó, Đại hội XIII
tiếp tục xác định đột phá chiến lược thứ hai của Đảng xác định là: “Phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho
công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển
biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển
dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát
triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam,
tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” .
Theo đó, điểm mấu chốt trong giai đoạn phát triển mới hiện nay bên cạnh phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao còn là ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công
tác lãnh đạo, quản lý để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Văn kiện Đại hội XIII
nhấn mạnh, nguồn nhân lực phải gắn chặt với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, khoa học
– công nghệ và công nghiệp công nghệ cao, coi đây là động lực cốt lõi cho sự phát triển
đất nước. Nếu như ở Đại hội XII, trọng tâm vẫn là nhân lực trong kinh tế tri thức và hội
nhập quốc tế, thì đến Đại hội XIII, Đảng nhấn mạnh hơn đến chuyển đổi số, phát triển
khoa học – công nghệ, đồng thời nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý, tạo nền tảng
vững chắc để Việt Nam vươn lên trong kỷ nguyên số.
Sự phát triển và phù hợp trong quan điểm của Đảng về “phát triển nguồn nhân
lực là một đột phát chiến lược” trong giai đoạn hiện nay được thể hiện rõ ràng thông qua
các giải pháp, phương hướng thực hiện được Đảng ta xác định trong đại hội XIII:
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng
đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Có chính sách khuyến
khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương
mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám
làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử
thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng
yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Phát triển đội
ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực
số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản
lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử lOMoAR cPSD| 47206417 9
dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Đẩy nhanh xây dựng xã hội số, tập trung vào chuyển đổi kỹ năng, mở các khóa
học đại trà trực tuyến, đào tạo, tập huấn, nâng cao kiến thức, kỹ năng về công nghệ số
và chuyển đổi số. Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số để phát triển xã hội số.
1.2.2. Gắn phát triển nguồn lực với đổi mới giáo dục - đào tạo
Đối với Việt Nam, để thực hiện chiến lược phát triển nhanh và bền vững trong
bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng thì phải
chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công cho
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn. Trong đó, giáo dục và đào tạo đóng vai
trò then chốt trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nhận thức rõ tầm quan
trọng của giáo dục và đào tạo, Đảng ta đã đề ra chủ trương đúng đắn qua từng kỳ đại
hội, coi đây là nền tảng để thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển đất nước.
Trong kỳ Đại hội VIII (1996), Đảng khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và
phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
Phát triển trí tuệ của người Việt Nam được thể hiện qua các chiến lược phát triển
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Giáo dục đào tạo được xác định là “quốc sách” hàng đầu. Đổi mới
về nội dung giáo dục theo hướng cơ bản, hiện đại, ngành giáo dục và đào tạo đã tăng
cường giáo dục công dân, giáo dục thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, ý chí vươn lên của người học.
Tại Đại hội IX (2001), Đảng nêu rõ nhận thức “đáp ứng yêu cầu về con người và
nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”, đồng thời khẳng định phương hướng: “Tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến
cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý; triển khai thực hiện chương trình phổ cập
trung học cơ sở; ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại; từng bước phát triển kinh tế tri thức”.
Đây là lần đầu tiên Đảng đặt ra yêu cầu phổ cập giáo dục trung học cơ sở và ứng
dụng công nghệ vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực hướng tới nền kinh tế tri thức. lOMoAR cPSD| 47206417 10
Trong Đại hội X (2006), Đảng thể hiện rõ quyết tâm phấn đấu để giáo dục và đào
tạo thực sự là quốc sách hàng đầu. Tập trung đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, chấn
hưng giáo dục Việt Nam để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Các giải pháp
thực thi được tập trung hơn khá cụ thể: Quản lý quá trình phát triển dân số và nguồn
nhân lực trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội; đổi mới phương thức đào tạo,
phát triển nguồn nhân lực; phát triển nguồn nhân lực gắn với tạo việc làm, tạo việc làm
tại chỗ thông qua phát triển sản xuất, tập trung vào các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, xuất khẩu…
Trong kỳ đại hội này một lần nữa Đảng khẳng định tầm quan trọng của giáo dục
- đào tạo khi coi đây là quốc sách hàng đầu nhưng so với các kỳ đại hội trước Đảng đã
chuyển trọng tâm từ chỉ đào tạo kiến thức sang phát triển nguồn nhân lực gắn với thị
trường lao động nhằm tránh lãng phí nguồn nhân lực chất lượng cao.
Kế thừa và phát triển quan điểm phát triển nguồn nhân lực từ các đại hội trước,
tại Đại hội XI (2011), Đảng đã nêu rõ mục tiêu tổng quát là “đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã
xác định ba khâu đột phá chiến lược, trong đó “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao” được khẳng định là khâu đột phá thứ hai. Để thực hiện
chiến lược này, Đại hội XI cũng nêu rõ những giải pháp trực tiếp cho chiến lược phát
triển nguồn nhân lực, đó là “xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt
Nam”; “đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo
dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”; “Xây dựng và
thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam”.
Điểm mới trong kỳ đại hội này là định hướng hội nhập quốc tế trong giáo dục,
đổi mới một cách toàn diện phù hợp với bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Đây có
thể coi là bước ngoặt về đổi mới tư duy trong giáo dục và đào tạo.
Đến Đại hội XII (2016), Đảng tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của nguồn
nhân lực chất lượng cao, thông qua quan điểm: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế
gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực
chất lượng cao làm động lực chủ yếu”. Trên cơ sở đó, Đại hội XII đề ra phương hướng,
nhiệm vụ: “Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho đất nước, cho từng lOMoAR cPSD| 47206417 11
ngành, từng lĩnh vực, với những giải pháp đồng bộ, trong đó tập trung cho giải pháp đào
tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường cũng như trong quá trình sản xuất kinh
doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên nghiệp và kỹ năng thực hành”.
Và gần đây nhất tại Đại hội XIII (2021), Đảng tiếp tục xác định “phát triển nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho
công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển
biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển
dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát
triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo” là một trong ba đột phá chiến lược.
Đại hội cũng đặt ra yêu cầu phải “đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ
cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại
ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân
toàn cầu)”. Đây là chủ trương hết sức đúng đắn, thể hiện tư duy, tầm nhìn mới của Đảng
ta về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu
phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời kỳ mới.
Đại hội XIII của Đảng yêu cầu thực hiện các biện pháp cụ thể: Một là, nghiên cứu
hoàn thiện hệ thống sách giáo khoa và chế độ thi cử ở các cấp học cho phù hợp yêu cầu
thực tiễn. Hai là, chú trọng đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Ba là, chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ
yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; đa
dạng hóa các hình thức học tập, như học trực tuyến, qua internet, truyền hình, các hoạt
động xã hội, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội. Bốn là, phổ cập giáo dục mầm non và giáo dục tiểu học bắt buộc. Đưa
nội dung kỹ năng số, ngoại ngữ tối thiểu vào chương trình giáo dục phổ thông; chú trọng
giáo dục kỹ năng nhận thức và hành vi cho học sinh phổ thông. Đẩy mạnh phân luồng
sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Giảm tỷ lệ mù chữ
ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Năm là, sắp xếp lại hệ thống
trường học; phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và giáo dục ngoài công lập, giữa
các vùng, miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
biên giới, hải đảo và các đối tượng chính sách. Sáu là, tăng cường đầu tư cho giáo dục,
đào tạo bằng nhiều nguồn khác nhau, trong đó đầu tư từ ngân sách nhà nước cần tăng
lên, đồng thời huy động nhiều hơn, tốt hơn sức dân thông qua đẩy mạnh xã hội hóa giáo
dục, xây dựng xã hội học tập. Bảy là, đa dạng hóa các loại hình đào tạo, hoàn thiện chính lOMoAR cPSD| 47206417 12
sách phát triển các cơ sở đào tạo ngoài công lập, thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo
bậc đại học phù hợp với xu thế chung của thế giới; hình thành mô hình hợp tác công - tư
trong đào tạo đại học. Sắp xếp, quy hoạch lại các trường đại học, cao đẳng.
Qua các kỳ đại hội, quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao gắn với giáo dục - đào tạo đã có những thay đổi rõ rệt và hướng tới sự thay đổi toàn
diện, hoàn thiện hơn. Trong những kỳ đại hội VIII và IX, Đảng ta tập trung vào phổ cập
giáo dục cho toàn dân chuyển sang phát triển nguồn nhân lực gắn với việc làm trong đại
hội X và hướng đến nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng hội nhập toàn cầu trong
các kỳ sau. Từ việc phổ cập kiến thức cơ bản sau đó chú trọng vào đào tạo kỹ năng và
chuyển sang phát triển phẩm chất, tư duy sáng tạo. Như vậy, có thể thấy rằng các biện
pháp được đưa ra ngày càng cụ thể, hướng đến sự đổi mới toàn diện trong giáo dục và
đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với bối cảnh cách mạng 4.0.
1.2.3. Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực trong các ngành mũi nhọn
Trong quá trình lãnh đạo và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
khẳng định vai trò then chốt của nguồn nhân lực đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy nhiên, quan điểm về phát triển nguồn nhân
lực không cố định mà có sự điều chỉnh theo từng giai đoạn lịch sử nhằm đáp ứng yêu
cầu thực tiễn. Nếu như trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Đảng tập trung vào
mở rộng quy mô đào tạo, nâng cao mặt bằng dân trí và đảm bảo cung ứng đủ lao động
cho nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh, thì đến nay, khi Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư diễn ra mạnh mẽ, chiến lược phát triển nguồn nhân lực đã có sự thay đổi theo
hướng ưu tiên đầu tư vào các ngành mũi nhọn. Đây không chỉ là sự dịch chuyển mang
tính tất yếu, mà còn là giải pháp chiến lược giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh
và hội nhập hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu.
Sự thay đổi trong quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực được thể hiện
rõ nét qua các kỳ Đại hội. Tại Đại hội IX (2001), trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng
lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn này, nền kinh tế Việt
Nam chủ yếu dựa vào các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, xây dựng và dịch vụ, do
đó, việc đào tạo nghề, phổ cập giáo dục nghề nghiệp và mở rộng quy mô đào tạo trở
thành ưu tiên hàng đầu. Chiến lược này giúp cung cấp một lực lượng lao động dồi dào,
phục vụ nhu cầu của các khu công nghiệp, khu chế xuất và các doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, nền kinh tế bước lOMoAR cPSD| 47206417 13
sang một giai đoạn phát triển mới, yêu cầu về nguồn nhân lực không chỉ dừng lại ở số
lượng mà cần có sự thay đổi về chất lượng, đặc biệt là khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn
lao động quốc tế và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Nhận thức được điều này, tại Đại hội XI (2011), Đảng đã có sự điều chỉnh quan
trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực, theo đó nhấn mạnh đến việc đào tạo
chuyên sâu trong các lĩnh vực công nghệ cao và dịch vụ có giá trị gia tăng lớn. Đây là
sự chuyển đổi từ mô hình đào tạo lao động phổ thông sang phát triển nguồn nhân lực có
trình độ chuyên môn sâu, có khả năng làm chủ công nghệ và sáng tạo trong các lĩnh vực
tiên tiến. Trong bối cảnh đó, nhiều chính sách đã được ban hành nhằm khuyến khích
phát triển nhân lực trong các ngành công nghệ thông tin, điện tử, tài chính - ngân hàng,
công nghệ sinh học và các ngành dịch vụ chuyên môn cao. Điều này không chỉ giúp Việt
Nam tận dụng tốt hơn các cơ hội hội nhập mà còn tạo tiền đề quan trọng để chuyển đổi
mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất lao động và giá trị gia tăng.
Bước sang Đại hội XIII (2021), trước tác động sâu rộng của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0, quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực tiếp tục có sự thay đổi
mạnh mẽ. Nếu như trước đây, chính sách đào tạo vẫn duy trì theo hướng phát triển rộng
khắp để đáp ứng nhu cầu của tất cả các ngành, thì nay, trọng tâm chiến lược đã chuyển
sang ưu tiên phát triển nhân lực chất lượng cao trong các ngành then chốt. Văn kiện Đại
hội XIII khẳng định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao;
ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then
chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng
giáo dục và đào tạo...”. Đây không chỉ là sự điều chỉnh về chính sách, mà còn thể hiện
sự thay đổi trong tư duy chiến lược của Đảng: thay vì phát triển dàn trải trên tất cả các
ngành, Việt Nam cần tập trung đầu tư vào những lĩnh vực có tiềm năng tạo ra tác động
lan tỏa mạnh mẽ cho nền kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Việc ưu tiên phát triển nguồn nhân lực trong các ngành mũi nhọn thay vì phân bổ
dàn trải là một chiến lược quan trọng, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của nền kinh tế và
những bài học rút ra từ kinh nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới. Trong bối
cảnh nguồn lực của Việt Nam còn hạn chế, nếu đầu tư dàn trải vào mọi lĩnh vực, chúng
ta sẽ đối mặt với nguy cơ phân tán nguồn lực, làm giảm hiệu quả sử dụng ngân sách
cũng như chất lượng đào tạo. Trong khi đó, tập trung vào các ngành mũi nhọn – những
ngành có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao, có tính chất dẫn dắt và tác động lan tỏa lOMoAR cPSD| 47206417 14
mạnh – sẽ giúp tối ưu hóa nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Sự thay
đổi trong chiến lược phát triển nhân lực này không chỉ phù hợp với xu thế chung của thế
giới mà còn là yêu cầu tất yếu để Việt Nam tận dụng cơ hội từ Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư và hội nhập kinh tế toàn cầu một cách hiệu quả.
Thứ nhất, tập trung vào các ngành mũi nhọn là cách tối ưu hóa nguồn lực và nâng
cao hiệu quả đầu tư. Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, với nguồn lực tài chính
và cơ sở hạ tầng còn hạn chế. Nếu phân bổ dàn trải nguồn lực cho tất cả các ngành nghề,
sẽ rất khó để tạo ra bước đột phá trong bất kỳ lĩnh vực nào, đồng thời có thể dẫn đến tình
trạng đào tạo tràn lan, nhưng không đáp ứng được nhu cầu thực tế của thị trường lao
động. Các nghiên cứu từ Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD) đã chỉ ra rằng, thay vì đầu tư đồng đều vào tất cả các ngành, tập trung vào các
lĩnh vực có tính chiến lược như công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu,
công nghệ sinh học và năng lượng tái tạo sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Khi
những ngành này phát triển mạnh, không chỉ chính bản thân chúng tạo ra giá trị gia tăng
lớn mà còn có khả năng thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ, từ đó
tạo ra hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong nền kinh tế. Đầu tư vào các ngành mũi nhọn cũng
sẽ giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách công nghệ với các nước phát triển, nhanh chóng
nâng cao vị thế trên trường quốc tế thay vì mất quá nhiều thời gian vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng thấp.
Thứ hai, tập trung phát triển nguồn nhân lực trong các ngành mũi nhọn giúp Việt
Nam thích ứng với quá trình chuyển đổi số và đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số. CMCN
4.0 đang tạo ra những thay đổi căn bản trong cách thức sản xuất, kinh doanh và quản lý
trên toàn cầu, kéo theo sự thay đổi về nhu cầu lao động. Những kỹ năng truyền thống
dần trở nên lỗi thời, trong khi nhu cầu về lao động có trình độ cao trong các ngành công
nghệ số ngày càng gia tăng. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2020, đầu tư vào
lĩnh vực công nghệ số có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao gấp đôi so với các ngành
truyền thống. Điều này đồng nghĩa với việc nếu Việt Nam không nhanh chóng tập trung
đào tạo nguồn nhân lực trong các lĩnh vực này, chúng ta sẽ bị tụt hậu so với các nước
trong khu vực, bỏ lỡ cơ hội tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị công nghệ cao trên thế
giới. Hơn nữa, sự phát triển của nền kinh tế số không chỉ ảnh hưởng đến các ngành công
nghệ mà còn tác động đến mọi lĩnh vực khác như thương mại, tài chính, giáo dục và y
tế. Vì vậy, việc ưu tiên phát triển nguồn nhân lực trong các ngành mũi nhọn không chỉ
đáp ứng nhu cầu trước mắt mà còn là chiến lược dài hạn để đảm bảo Việt Nam có thể
chủ động thích ứng với những thay đổi trong tương lai. lOMoAR cPSD| 47206417 15
Thứ ba, ưu tiên phát triển nhân lực trong các ngành then chốt là cách để nâng cao
năng lực cạnh tranh quốc gia và thu hút đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế ngày càng sâu rộng, lợi thế cạnh tranh của một quốc gia không còn chỉ dựa
vào lao động giá rẻ mà phụ thuộc vào chất lượng nhân lực và khả năng làm chủ công
nghệ. Những quốc gia như Hàn Quốc, Singapore hay Israel đã chứng minh rằng, đầu tư
mạnh vào giáo dục và đào tạo chuyên sâu trong các lĩnh vực công nghệ cao là chìa khóa
để bứt phá trong phát triển kinh tế. Khi sở hữu nguồn nhân lực chất lượng cao trong các
ngành mũi nhọn, Việt Nam không chỉ thu hút được nhiều doanh nghiệp công nghệ lớn
đến đầu tư mà còn có thể tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng toàn cầu. Theo số
liệu từ Ngân hàng Thế giới, các nền kinh tế có tỷ lệ lao động kỹ thuật cao thường đạt
mức tăng trưởng GDP cao hơn từ 1,5 đến 2 lần so với các nền kinh tế dựa vào lao động
phổ thông. Điều này cho thấy nếu Việt Nam không tập trung đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao, chúng ta sẽ đối mặt với nguy cơ bị bỏ lại phía sau trong cuộc đua công
nghệ và kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh đó, việc tập trung phát triển nguồn nhân lực trong các ngành mũi nhọn
còn giúp Việt Nam giảm thiểu tình trạng “khoảng cách kỹ năng” giữa lực lượng lao động
và nhu cầu thực tế của doanh nghiệp. Một trong những vấn đề lớn nhất của thị trường
lao động hiện nay là sự mất cân đối giữa đào tạo và nhu cầu tuyển dụng. Trong khi nhiều
sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm đúng chuyên môn, thì các doanh nghiệp,
đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ cao, lại gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao
động có kỹ năng phù hợp. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
hiện nay có tới 40% doanh nghiệp tại Việt Nam gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao
động có trình độ cao, đặc biệt là trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật số và tự
động hóa. Điều này cho thấy nếu chúng ta không có chiến lược đào tạo tập trung, tình
trạng dư thừa lao động trong một số ngành và thiếu hụt lao động trong các ngành then
chốt sẽ ngày càng nghiêm trọng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế.
Như vậy, việc ưu tiên phát triển nguồn nhân lực trong các ngành mũi nhọn không
chỉ là một chiến lược tối ưu hóa nguồn lực mà còn là yếu tố mang tính quyết định đối
với tương lai của nền kinh tế Việt Nam. Thay vì dàn trải đầu tư vào mọi lĩnh vực, tập
trung vào các ngành có tính chiến lược sẽ giúp Việt Nam tạo ra lợi thế cạnh tranh bền
vững, tận dụng tốt hơn các cơ hội từ CMCN 4.0 và hội nhập quốc tế. Đây không chỉ là
bước đi nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà còn là điều kiện tiên quyết để
Việt Nam chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng hiện đại, sáng tạo và bền vững. lOMoAR cPSD| 47206417 16
Trong thời gian tới, nếu chiến lược này được thực hiện một cách đồng bộ và hiệu quả,
Việt Nam hoàn toàn có thể khẳng định vị thế của mình trên bản đồ kinh tế thế giới, trở
thành một quốc gia có nền kinh tế tri thức phát triển mạnh mẽ, vững vàng trước những
biến động của thời đại số.
1.2.4. Gắn kết nhân lực với khoa học - công nghệ
Trải qua các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm của Đảng về phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với khoa học - công nghệ ngày càng được hoàn
thiện và phù hợp với thực tiễn phát triển đất nước. Đảng không chỉ nhận thức rõ vai trò
chiến lược của nhân lực chất lượng cao mà còn đề ra nhiều chủ trương, chính sách quan
trọng nhằm thúc đẩy sự gắn kết giữa phát triển nhân lực và ứng dụng khoa học - công
nghệ trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0. Quan điểm này
được thể hiện rõ thông qua các Đại hội và nghị quyết của Đảng, cụ thể:
Tại Đại hội XI (2011), Đảng nhấn mạnh yêu cầu “đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục quốc dân theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế”. Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giảng
viên và cán bộ nghiên cứu khoa học là khâu then chốt. Đặc biệt, Đảng khẳng định cần
“đổi mới chính sách đào tạo, sử dụng và đãi ngộ trí thức, trọng dụng và tôn vinh nhân tài,
kể cả người Việt Nam ở nước ngoài”.
Đảng tiếp tục đề cao vai trò của khoa học - công nghệ trong phát triển kinh tế -
xã hội, đồng thời khẳng định “phải thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp
phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội” tại Đại hội XII
(2016). Quan điểm này được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong đó nhấn mạnh việc gắn kết giáo dục với thực
tiễn sản xuất, chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao trong các ngành mũi nhọn như
công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và chuyển đổi số mạnh mẽ. Tại Đại hội XIII
(2021) Đảng ta tiếp tục hoàn thiện và phát triển quan điểm trên, đặt ra mục tiêu “đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút
và trọng dụng nhân tài, gắn kết chặt chẽ với phát triển và ứng dụng khoa học - công
nghệ”. Đảng chủ trương đẩy mạnh phát triển nhân lực số, nhân lực quản lý công nghệ,
quản trị doanh nghiệp, nhân lực khoa học - công nghệ cao để đáp ứng yêu cầu chuyển
đổi số và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, chính sách thu hút nhân tài và thúc đẩy hợp