Quan điểm của Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền và ý nghĩa với vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh

Quan điểm của Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền và ý nghĩa với vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI:
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN VÀ Ý
NGHĨA VỚI VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thu Hà
Nhóm sinh viên thực hiện
Họ và tên MSSV Mã lớp bài tập
Hà Nội, 9 tháng 1 năm 2022
Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh (1890-1969) là nhà lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, được thế giới
công hận nhà văn hóa kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc. Những
giá trị tưởng Hồ Chí Minh để lại cho hậu thế cùng quý giá,
được Đảng Cộng sản Việt Nam coi kim chỉ nam trong mọi công tác
Đảng, mọi đường lối chính sách lãnh đạo đất nước. Người cũng tấm
gương sáng ngời về đạo đức, phong cách sống làm việc cho các thế hệ
nhân dân Việt Nam.
tưởng Hồ Chí Minh linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt
Nam trong suốt hơn nửa thể kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng ta, nhân dân ta. tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường
cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây cũng là do nhóm
tác giả chọn đề tài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyềný
nghĩa với vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay” để làm
hơn những quan điểm của Người về vai trò của Đảng trong chiều dài
lịch sử của dân tộc Việt Nam.
2. Tổng quan đề tài (lịch sử nghiên cứu)
Đề tài nghiên cứu về tưởng Hồ Chí Minh. Đây một mảng nghiên cứu
cùng rộng lớn giá trị với thực tiễn hội cách mạng Việt Nam
trong suốt tiến trình lịch sử hàng thế kỉ của dân tộc. Với quy của một
bài tiểu luận, nhóm tác giả tập trung phân tích những tưởng, quan điểm
của Bác về Đảng cộng sản để chỉ ra ý nghĩa vai trò của Đảng trong cuộc
sống hiện nay. Tiểu luận có tham khảo nhiều bài báo và đầu sách khác nhau
với hi vọng có thể đưa ra lập luận chính xác, cụ thể nhất trong khả năng của
nhóm tác giả.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện nhằm đưa ra một góc nhìn về tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời liên hệ ý nghĩa vài trò đó đến cuộc
sống hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tiểu luận đề tài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền ý
nghĩa với vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay” tập
trung nghiên cứu về tính tất yêu và vài trò của Đàng cầm quyền, Đảng phải
trong sạch, vững mạnh thông qua 3 vấn đề: Đảng đạo đức, là văn minh,
những nguyên tắc trong hoạt động của Đảng xây dựng đội ngũ cán bộ,
Đảng viên. Từ đó nhóm tác giả liên hệ chúng với thực tiễn tình hình hiện
nay. Đề tài không đi sâu vào nghiên cứu các khía cạnh đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh cũng như ảnh hưởng của nó.
5. Đóng góp của đề tài
Với những nghiên cứu hết sức bản của mình, nhóm tác giả tiểu luận hi
vọng được đóng góp một phần nhỏ so với các trước các tác giả hết sức đồ
sộ về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng thời, đề tài này cũng đưa ra một phương pháp tiếp cận mới tới những
vấn đề của tưởng Hồ Chí Minh thông qua việc nghiên cứu tưởng Hồ
Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm chương mở đầu 2 phần nội dung, kết luận đi kèm với Danh
mục tài liệu tham khảo và Phụ lục phân công tiểu luận.
Nội dung:
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
1.Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp công nhân. đội tiên
phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân,
đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động của cả dân tộc. Đảng Cộng sản bao gồm những bộ phận tiên tiến
của giai cấp công nhân các tầng lớp nhân dân lao động. Đảng Cộng sản
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của
mình.
Trong lịch sử chưa giai cấp nào giành được địa vị thống trị, giữ
vai trò lãnh đạo xã hội mà không tạo ra được trong hàng ngũ của mình một
đảng chính trị, lực lượng tiên phong để lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh.
Trong cuộc đấu tranh chống giai cấp sản, chừng nào chỉ khi nào giai
cấp công nhân tự tổ chức ra chính đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu
tranh thì mới đảm bảo giành được thắng lợi trọn vẹn, hoàn thành được sứ
mệnh lịch sử của mình. Nếu không chính đảng lãnh đạo, giai cấp công
nhân chỉ có thể đấu tranh tự phát , đấu tranh vì mục đích kinh tế, chứ không
phải cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh mục đích chính trị. vậy, sự
có mặt lãnh đạo của Đảng Cộng sản một tất yếu xuất phát từ yêu cầu
phát triển của cách mạng sản. Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát
triển nhảy vọt của phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu
tranh lợi ích kinh tế trong giới hạn của chủ nghĩa bản cho phép
chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai cấp sản, xóa bỏ
chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân phong trào yêu nước
nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem yếu tố tự giác vào phong trào
công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước nhảy vọt về
chất, lên một tầm cao mới.
Trong tác phẩm (năm 1927), Hồ Chí Minh khẳngĐường cách mệnh
định: Cách mạng trước hết phải có “đảng cách mệnh, để trong thì vận động
và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp ở mọi nơi. Đảngvững, cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái vững thuyền mới chạy”. Câu nói trên một lần nữa khẳng định
tính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho ta thấy Đảng Cộng sản
chính nhân tố quyết định hàng đầu giúp cho giai cấp công nhân hoàn
thành sứ mệnh của mình.
Đồng thời, câu nói trên của Bác cũng đã nói lên vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản nhân tố quyết định trước tiên trong
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Khẳng định đảng.
cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền quan điểm nhất quán của
Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt
cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cả
trong cách mạng hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, cách
mạng sự nghiệp của quần chúng nhân dân trước hết phải Đảng
cách mạng. nhiên, quần chúng nhân dân phải được giác ngộ, tổ chức
lãnh đạo theo một đường lối chính trị đúng đắn thì mới trở thành lực lượng
to lớn. Mà muốn vận động, giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo được dân chúng làm
cách mạng thì phải có Đảng cách mạng.
tưởng Hồ Chí Minh tưởng được hình thành phát triển từ
chủ nghĩa Mác nin. Từ tuởng của chủ nghĩa ứng vào hoàn cảnh đất
nước, Người đã rút ra: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân, là Đảng của Nhân dân lao động và là Đảng của dân tộc Việt Nam. Vì
vậy mọi hoạt động của Đảng đều hướng tới nhân dân. Vai trò của Đảng
lựa chọn con đường, xây dựng đường lối chiến lược, sách lược Cách Mạng,
tổ chức đoàn kết, tập hợp lực lượng Cách mạng,… nhằm phục vụ cho lợi
ích chính đáng của nhân dân.
2.Đảng phải trong sạch vững mạnh
a.Đảng là đạo đức, là văn minh
Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng gốc, nền tảng của người
cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức của Đảng thể hiện trên những
điểm sau đây:
(1)Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đảng cộng
sản Việt Nam chính đảng cách mạng mang bản chất của giai cấp công
nhân Việt nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn
kết tập hợp các tầng lớp nhân dân khác làm cách mạng. Đảng cộng sản Việt
nam tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, trung thành
tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có
lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân và của dân tộc. Đảng là đội tiên
phong dũng cảm luôn luôn phấn đấu vì mục tiêu độc lập cho dân tộc, tự do
cho nhân dân, hạnh phúc cho mọi người.
(2)Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của
Đảng đều phải nhằm mục đích trên. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là do tính
tất yếu từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam
đội tiên phong, bộ tham mưu của giai cấp sản, của nhân dân lao
động của cả dân tộc. Đảng luôn luôn tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc
và nhân dân, trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp và dân tộc, Đảng
không có lợi ích nào khác.
(3)Đội ngũ đảng viên phải luôn luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng,
ra sức tu dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước.
Đảng văn minh còn chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng viên giữ
chức vụ lãnh đạo, quản trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể
quần chúng,, nhấtnhững đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quảnchủ chốt,
cho đến đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những chiên
sĩ tiên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày. Phải xây
dựng Đảng thành một tổ chức chính trị trong sạch,vững mạnh, một tổ chức
chiến đấu kiên cường. Xây dựng một tổ chức trọng chất lượng, lấy việc
nâng cao vai trò lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng nhiệm vụ thường
xuyên của mỗi cán bộ,đảng viên toàn Đảng. Đảng cần phải chú trọng
công tác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống cho các cán bộ đảng viên
theo tinh thần cần, kiệm, liên, chính, chí công phải thường xuyên
nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của đảng viên, tổ chức sở
đảng,gắn với nhân dân,không ngừng học tập,làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, dám hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng,của nhân
dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đảng “là Đảng của giai cấp công nhân
nhân dân lao động, nghĩa những người thợ thuyền, dân cày lao động
trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng
sự Tổ quốc và nhân dân. Những người mà:
Giàu sang không thể quyến rũ
Nghèo khó không thể chuyển lay,
Uy lực không thể khuất phục”.
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng đạo đức
cách mạng, về ý nghĩa bản mà xét, cũng tức là xây dựng Đảng để Đảng
trở thành một Đảng văn minh, hoặc Hồ Chí Minh hay gọi đó là «một Đảng
cách mạng chân chính ». Để xứng đáng một Đảng cách mạng chân
chính”vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, luôn tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,
lương tâm của cả dân tộc thời đại thì Đảng phải thường xuyên tự chỉnh
đốn, tự đổi mới. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt:chính trị, tưởng tổ chức. Điều
này thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây :
(1) Đảng văn minh một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ
danh dự của dân tộc.
(2) Đảng ra đời một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn
minh tiến bộ của dân tộc của nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều
xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc
làm trọng, mọi lợi ích giai cấp đều phải đặt dưới sự phát triển của dân tộc;
mọi hoạt động của Đảng đều phải phù hợp với quy luật vận động của
hội Việt Nam.
(3) Đảng phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh
lịch sử do nhân dân, dân tộc giao phó lãnh đạo giành độc lập cho Tổ
quốc đưa lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn
Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh càng chú trọng hơn việc phòng chống
các tiêu cực trong Đảng.
(4) Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm
quyền, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp pháp luật, Đảng
không phải là tổ chức đứng trên dân tộc.
(5) Đảng văn minh còn chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng
viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể quần chúng,, nhất những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản chủ
chốt, cho đến đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những
chiên sĩ tiên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày.
(6) Đảng văn minh phải là Đảngquan hệ quốc tế trong sáng, hoạt
động không những lợi ích dân tộc Việt Nam còn độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác; hòa bình,
hữu nghị, hợp tác cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới.
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản tưởng chỉ đạo cho
việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt nam thực sự một đảng Mácxít-
Lêninnít chân chính, là Đảng của Hồ Chí Minh để làm tròn sứ mệnh lịch sử
vẻ vang trách nhiệm nặng nề trước dân tộc, đồng thời những đóng
góp tích cực vào phong trào cách mạng thế giới.
b) Những nguyên tắc trong hoạt động của Đảng
1.Lấy chủ nghĩa Mác Lenin làm nền tảng
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giành
chính quyền, đập tan xiềng xích đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, khai
sinh ra Nhà nước dân chủ công nông đầu tiên Đông Nam châu Á, tiếp
đến hai cuộc kháng chiến trường kỳ để giành lại độc lập, tự do cho dân
tộc, đưa đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa hội. Trong tác phẩm
Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn
vững thì phải chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng không chủ nghĩa cũng như người
không trí khôn, tàu không bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
2. Tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản của Đảng. Nội dung cơ bản của nguyên tắc
này bao gồm:
Một là, quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Hai là, quan lãnh đạo cao nhất của Đảng Đại hội đại biểu toàn
quốc. quan lãnh đạo mỗi cấp đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng
viên. Giữa hai kỳ đại hội; quan lãnh đạo của Đảng Ban Chấp hành
Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
Ba là, cấp ủy các cấp báo cáo chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên cấp dưới; định kỳ
thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc,
thực hiện tự phê bình và phê bình.
Bốn là, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, nhân phục tùng
tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc
và Ban Chấp hành Trung ương.
Năm là, nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi
hành khi hơn một nửa số thành viên trong quan đó tán thành. Trước
khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên
ý kiến thuộc về thiểu s được quyền bảo lưu báo cáo lên cấp uỷ cấp
trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm
chỉnh nghị quyết, không được truyền ý kiến trái với nghị quyết của
Đảng. Cấp uỷ thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân
biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
Sáu là, tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn
của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
3.Tự phê bình và phê bình
-Tự phê bình phê bình quy luật phát triển của Đảng. Theo
tưởng Hồ Chí Minh, mục đích của tự phê bình phê bình là: Làm cho
phần tốt tăng lên, phần xấu bị mất dần đi; làm cho các tổ chửc Đảng luôn
luôn trong sạch, vững mạnh. Tự phê bình, phê bình để tăng cường đoàn
kết, thống nhất trong nội bộ Đảng; để các tổ chức đảng đảng viên luôn
luôn hoàn thiện mình, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân
giao cho.
-Tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, như người
ta rửa mặt hằng ngày.
-Tự phê bình phải thành khẩn. Thành khẩn, thành tâm, không “giấu
bệnh sợ thuốc” sẽ giúp cho việc tự phê bình kết quả tốt. Phê bình phải
trung thực, “không đặt điều”, “không thêm bớt”. Tự phê bình phê bình
phải kiên quyết, “ráo riết”, không nể nang. Tự phê bình và phê bình phải có
tính chất xây dựng, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
4.Kỷ luật nghiêm minh tự giác
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh
và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn trong Đảng : “Sức mạnh
vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác ,ý thức tổ chức nghiêm minh
của cán bộ ,đảng viên.Mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của
Đảng. Nghiêm minh nguyên tắc thuộc về tổ chức Đảng, đó kỉ luật
đối với mọi cán bộ, đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạp cao hay
thấp, cán bộ lãnh đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ ,đảng viên đều
bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Tự giác thuộc về mỗi cán bộ, đảng viên
đối với Đảng –một tổ chức của những người tự nguyện đứng trong một
hàng ngũ để cùng chiến đấu cho độc lập dân tộc chủ nghĩa hội: “Kỷ
luật này do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với
Đảng”. Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào ,mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng
đều phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của các đoàn thể pháp luật của
Nhà nước, tuyệt đối không ai được coi thường, thậm chí đứng trên tất cả.
5. Thường xuyên tự chỉnh đốn
Quyền lực của Đảng do giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn dân tộc giao phó. Đảng phải không ngừng tự chỉnh đốn bản thân mình.
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không có mục đích tự thân, Đảng không phải
là tổ chức để làm quan phát tài mà Đảng từ trong xã hội mà ra, hoạt động vì
Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Thường xuyên tự chỉnh đốn, do
đó, trở thành một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong xây dựng Đảng. Điều
này càng đặc biệt quan trọng hơn khi Đảng đứng trước những thử thách lớn
trong quá trình hoạt động, chẳng hạn, Hồ Chí Minh nêu ý kiến rằng, ngay
sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam hoàn toàn thắng
lợi, “việc cần phải làm trước tiên chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng
viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao
phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù
công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
6. Đoàn kết thống nhất trong Đảng
Đoàn kết trong Đảng là điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc; đoàn kết, thống nhất trong Đảng trước hết trong cấp uỷ, trong
những cán bộ lãnh đạo chủ chốt; đoàn kết trên sở chủ nghĩa Mác -
Lênin, trên sở cương lĩnh, đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng.
Muốn đoàn kết, phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường xuyên
nghiêm chỉnh tự phê bình phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức
cách mạng chống chủ nghĩa nhân các biểu hiện tiêu cực khác. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết trách nhiệm của toàn Đảng.
“Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết
nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
7. Liên hệ mật thiết với nhân dân
-Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời sự kết hợp của phong trào yêu
nước, phong trào công nhân chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng không lợi
ích nào khác Tổ quốc, nhân dân. Gắn với nhân dân, lợi ích
của nhân dân mà phấn đấu là mục đích hoạt động của Đảng.
-Đảng sinh ra trong lòng dân tộc, được nhân dân cưu mang, giúp đỡ
tồn tại phát triển. Đảng với dân như với nước. Gắn mật thiết với
nhân dân Đảng mới lực lượng. Bài học thực tiễn của cách mạng Việt
Nam là khi Đảng có dân là có tất cả.
-Gắn mật thiết với nhân dân một phương thức để xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh. Nhân dân yêu quý Đảng gọi Đảng là Đảng ta; đồng
thời đặt yêu cầu cao với cán bộ, đảng viên của Đảng, “đảng viên đi trước,
làng nước theo sau”.
-Gắn với nhân dân yêu cầu Đảng phải thường xuyên mối liên hệ
trực tiếp với nhân dân tất cả các cấp, các ngành. Đảng phải luôn luôn
xuất phát từ lợi ích chính đáng của nhân dân để phấn đấu. Có vậy nhân dân
mới yêu quý và tin theo.
c.Xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao đạo đức của người cán bộ cách
mạng. Người cho rằng, cán bộ chỉ giác ngộ chính trị chưa đủ, còn
phải thấm nhuần, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người từng viết: “…
Người cách mạng phải đạo đức, không đạo đức thì tài giỏi đến
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc,
giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo
đức, không căn bản, tự mình hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.
Người coi đó là thuộc tính nhất quán trong mọi hoàn cảnh, bởi đã là cán bộ
cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng.
+Phải tuyệt đối trung thành với Đảng:
Theo đó, người cán bộ cách mạng phải thể hiện trung thành, tận tụy,
cống hiến, suốt đời phấn đấu lợi ích của Tổ quốc; lợi ích của cách
mạng, lợi ích của nhân dân, mưu cầu hạn phúc cho nhân dân. Người
cách mạng bao giờ cũng cần đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trên lợi
ích nhân. Nếu lợi ích Đảng mâu thuẫn với lợi ích nhân thì phải kiên
quyết hi sinh lợi ích nhân để hoàn thành mục tiêu cao cả của
Đảng.Trung với nước, hiếu với dân hạt nhân bản của tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh, tiêu chuẩn đạo đức quan trọng nhất đối với cán bộ,
đảng viên
+Nghiêm chỉnh thực hiện cương lĩnh đường lối của đảng:
Cán bộ cách mạng cần nghiêm chỉnh chấp hành cương lĩnh của
Đảng, luôn tin tưởng, làm theo đường lối đúng đắn của đảng đề ra để
hướng công cuộc cách mạng của dân tộc đi đến thành công. Người đòi hỏi
mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải trở thành những tấm gương sức
cảm hóa, dẫn dắt quần chúng nhân dân đi theo con đường đúng đắn, cùng
đồng chí mình vượt qua khó khăn và thách thức.
+Luôn học tập nâng cao trình độ về mọi mặt:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc học tập chính trị
của cán bộ. Người từng nhắc nhở: “mỗi cán bộ, đảng viên phải học lý luận,
phải đem luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa bệnh kém
luận, khinh lý luận và lý luận suông”. Người cho rằng, phải có lý luận, phải
chủ nghĩa thì tinh thần mới vững, hành động mới nhất quán. Người cán
bộ phải trước hết người hiểu đúng, quán triệt sâu sắc mọi chủ trương,
đường lối của Đảng. Hiểu đúng rồi thì đem ra vận dụng để cho công việc
thành công. Với quan niệm “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Để
huấn luyện, bồi dưỡng và làm cho cán bộ trưởng thành, Đảng phải bỏ nhiều
công sức, phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây
cối quý báu. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để huấn luyện, học tập có kết
quả thì trước hết phải xác định đúng mục đích huấn luyện, học tập. Người
căn dặn, cán bộ đi học là để “làm việc, làm người, làm cán bộ”; học để sửa
chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng.
+Liên hệ mật thiết với nhân dân:
Người cán bộ phải tìm hiểu về dân, có thể cùng chung sống với nhân
dân để biết được dân làm gì và cần gì. Người cán bộ cần phải vì lợi ích của
nhân dân, mưu cầu hạn phúc cho nhân dân. Người khuyên cán bộ, đảng
viên phải gắn với dân, thương dân, lấy trí tuệ dân, học hỏi dân. Mỗi
cán bộ, đảng viên phải xác định mình là công bộc của dân: “Việc gì lợi cho
dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”
+Luôn chịu trách nhiệm, lao động, sáng tạo:
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các cán bộ của Đảng,
bất kỳ cương vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải tinh
thần trách nhiệm. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người tinh thần trách
nhiệm là khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho việc gì, bất kỳ to hay
nhỏ, khó hay dễ, thì cũng đem cả tinh thần sức lực làm cho đến nơi đến
chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công; luôn nắm vững chính sách,
đi đúng đường lối quần chúng và làm tròn nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, bất cứ nấu bếp, quét nhà hay làm chủ tịch đều phải lao động cả.
Bởi lao động vẻ vang. Do đó, tình yêu lao động lao động sáng tạo
một trong những chuẩn mực bản của đạo đức cách mạng. Điều đó đòi
hỏi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong lao động, đem hết nhiệt tình,
trí tuệ làm cho lao động của mình, của tập thể đạt được năng suất hiệu
quả ngày càng cao trong mọi lĩnh vực của đời sống hội, góp phần làm
cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc mau đến thành công.
+Luôn phòng và chống các tiêu cực:
Trong việc phòng chống các tiêu cực, phải đặc biệt phòng
chống tham ô, lãng phí, quan liêu mà Hồ Chí Minh cho đó là giặc nội xâm,
những kẻ địch bên trong, “mỗi kẻ địch bên trong một bạn đồng minh
của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng
sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong sự tổng hòa các mối
quan hệ. Người coi “cán bộ cái gốc của mọi công việc”. Vai trò của
người cán bộ được Người theo cách rất tự nhiên, như: cây thì phải
gốc, không gốc thì cây héo, sông thì phải nguồn, khôngnguồn thì
sông cạn. Trong mọi việc của cách mạng, của Đảng phải người cán bộ
đứng ra để thực hiện, không có cán bộ thì không thể hoàn thành. Người còn
ví, cán bộ như cái dây chuyền của bộ máy liên quan đến nhiều bộ phận, nếu
dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy
cũng tê liệt. Người cũng ví: cán bộ là cầu nối, là người trực tiếp đem chính
sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo
cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Như
vậy, nếu cán bộ dở thì một mặt chính sách không thể thực hiện được, mặt
khác việc hoạch định, xây dựng chính sách mới sẽ sai lầm hoặc không phù
hợp. Thực tiễn của các thời kỳ cách mạng cho thấy, trong tất cả mọi công
việc của Đảng dù to hay nhỏ, cán bộ là yếu tố trung tâm, then chốt và mang
tính quyết định.
II. Liên hệ thực tiễn tình hình hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi là kim
chỉ nam cho Đảng ta xác định phương hướng xây dựng Đảng qua các kỳ
đại hội, đặc biệt là Đại hội XIII sắp tới. Vận dụng tư tưởng của Người trong
tình hình hiện nay, Đảng ta xác định phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về
chính trị, tưởng, tổ chức đạo đức; gắn xây dựng với chỉnh đốn Đảng.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xây dựng
Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.
Một nâng cao bản lĩnh chính trị trí tuệ của Đảng., Bản lĩnh
chính trị của Đảng thể hiện việc kiên định vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa hội vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng. Do đó, cần phải
thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên luận Mác - Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, truyền thống dân tộc
kiến thức mới của thời đại; kiên định đường lối đổi mới những
nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng; giữ vững bản chất giai cấp công
nhân; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên, trước
hết cán bộ lãnh đạo, quản chủ chốt các cấp. Thực hành dân chủ gắn
với tăng cường kỷ cương; phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán
bộ, đảng viên, nhất người đứng đầu. T tuệ, sự sáng suốt trong lãnh đạo
của Đảng thể hiện việc vạch ra đường lối, chủ trương, chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm và điều kiện
của nước ta; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó với các thách thức, biến
động của tình hình. Kiên quyết đấu tranh hiệu quả với những biểu hiện
cơ hội, giáo điều, bảo thủ, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ, v.v.
Hai là coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. , Trong đó, tập trung đổi
mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng, bảo đảm tính đảng,
tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn; nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục
luận chính trị; kết hợp chặt chẽ giáo dục, học tập lý luận với rèn luyện, thử
thách trong thực tiễn, góp phần nâng cao nhận thức, hành động trong Đảng
và mỗi cán bộ, đảng viên. Thường xuyên làm tốt công tác dự báo, nắm chắc
tình hình tưởng, không để bị động, bất ngờ; tăng cường bảo vệ nền tảng
tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch; chủ động phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu độc
trên Internet, mạng hội. Tăng cường quản lý, định hướng hoạt động các
quan báo chí; xây dựng đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên bản
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, tinh thông nghề
nghiệp; phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trên lĩnh vực tưởng.
Đồng thời, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu luận, nhất
là những vấn đề khó, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn.
Ba tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. , Theo đó, phải kiên
quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính
trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập làm theo tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp
tục đẩy mạnh nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực và những hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho những
tệ nạn đó. Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho cán bộ, đảng
viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, không bị cám dỗ bởi vật chất,
tiền tài, danh vọng, tránh xa chủ nghĩa nhân, lợi ích nhóm, tham vọng
quyền lực; nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên. Thực hiện
nghiêm tự phê bình phê bình; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, bảo
vệ chính trị nội bộ. Thực hiện tốt quy định nêu gương của cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cán bộ có chức vụ càng cao
càng phải gương mẫu; nêu gương phải trở thành một nội dung quan trọng
trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Cùng với đó, cần giữ vững kỷ luật,
kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước; kịp thời biểu dương
những tấm gương về đạo đức, lối sống; đấu tranh với những biểu hiện lệch
lạc, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống.
Bốn là, xây dựng, củng cố các tổ chức sở đảng thực sự nền
tảng và hạt nhân chính trị sở. Tổ chức sở đảng vị trí vai trò hết
sức quan trọng, cầu nối Đảng với quần chúng, nơi trực tiếp tổ chức,
hướng dẫn cho quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do vậy, cần khảo sát, đánh giá thực
trạng từng tổ chức sở đảng đểbiện pháp đổi mới, chỉnh đốn cho phù
hợp, bảo đảm mỗi loại hình sở hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm
vụ tương thích với tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; tăng cường chấn
chỉnh, củng cố các sở yếu kém; nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể
lãnh đạo, nhân phụ trách các nguyên tắc của Đảng phải được quán
triệt, thực hiện nghiêm túc. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ
sở, bố trí đúng đội ngũ cán bộ chủ chốt, góp phần nâng cao năng lực
lãnh đạo, kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở,
nhất thư cấp ủy. Phát huy vai trò của tổ chức sở đảng trong quy tụ
sức mạnh, lãnh đạo đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị; làm tốt công tác
quản lý, giáo dục, rèn luyện, kết nạp đảng viên thường xuyên soát,
sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất cấp
chiến lược người đứng đầu vững mạnh. Chất lượng cán bộ ảnh hưởng
trực tiếp tới bản chất giai cấp, vai trò, hiệu quả lãnh đạo uy tín của
Đảng. Bởi vậy, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất cấp
chiến lược và người đứng đầu đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ
cán bộ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn
với kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ. Việc xây dựng đội
ngũ cán bộ phải quán triệt tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng: “đừng nhìn hoá cuốc”, “đừng thấy đỏ tưởng
chín”, đừng chỉ thấy “cái bên ngoài, che đậy cái sài bên trong”.
Vì thế, cần đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ; không để lọt những
người hội chính trị, tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, lợi
ích nhóm, vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản các cấp; đồng thời,
không để sót những cán bộ thực sự đức, tài. Tăng cường bồi dưỡng,
giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ; phân công, giao
nhiệm vụ cụ thể, đúng người, đúng việc đưa cán bộ, đảng viên vào hoạt
động thực tiễn để rèn luyện.
Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
mới; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Việc đổi
mới phải theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm chiến lược trong hoạch
định đường lối, chủ trương; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết
không sát thực tiễn, thiếu tính khả thi. Tiếp tục thể chế hóa mối quan hệ
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Với Nhà nước,
Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện làm thay
phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản
đất nước. Với Mặt trận Tổ quốc các đoàn thể nhân dân, cần chú ý xác
định mục tiêu, phương hướng và nội dung hoạt động từng thời kỳ; phát huy
tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận các đoàn thể nhân dân trong tổ
chức hoạt động. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi
mới phong cách hoạt động, lề lối làm việc dân chủ, thiết thực, nói làm
thống nhất, khắc phục bệnh quan liêu, tùy tiện, chủ quan, hình thức.
Xây dựng mối quan hệ gắn máu thịt giữa Đảng với dân một
trong những mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công
tác xây dựng Đảng. Bởi theo Người: Cách mạng sự nghiệp của quần
chúng, thắng lợi của cách mạng sự phấn đấu hy sinh trí thông minh
sáng tạo của hàng triệu nhân dân.vậy, sự gắn với quần chúng, trước
hết, người đảng viên phải tin vào khả năng và lực lượng của nhân dân. Nêu
cao tinh thần phục vụ, trách nhiệm trước quần chúng, chăm lo đến lợi ích
và đời sống của người dân. Phải hoà mình với quần chúng thành một khối,
hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, gương mẫu trước quần
chúng từ lời nói đến việc làm, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Thông qua phong trào cách mạng của quần chúng mà rèn luyện và sàng lọc
đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Kết luận chung
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh
đã không ngừng tiếp thu tri thức, tinh hoa văn hóa nhân loại để hình thành
nên hệ tưởng của mình. Với xuất phát một người yêu nước – Nguyễn
Ái Quốc đã đi khắp năm châu bốn bể để tìm thấy cho dân tộc mình con
đường giải phóng, con đường của độc lập, tự do hạnh phúc. Thực tế đã
chứng minh: Hồ Chí Minh trở thành vị lãnh tụ đại đưa Cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành công, sở cho cách mạng dân
tộc, dân chủ trên toàn thế giới đặt nền móng tưởng cho Đảng Cộng
sản Việt Nam trên con đường lãnh đạo và phát triển đất nước.
Càng đi sâu hơn vào tìm hiểu tưởng Hồ Chí Minh, ta khâm phục
kính trọng vị Chủ tịch đại của dân tộc, cũng của thế giới. Đối
với Đảng Cộng sản Việt Nam, phải coi tưởng Hồ Chí Minh kim chỉ
nam, nền móng trong công tác xây dựng Đảng đất nước. Với mỗi
công dân, Hồ Chí Minh tấm gương sáng về tưởng đạo đức ta
cần học tập và tôn vinh, cũng như tự hào.
*Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh dành cho sinh viên đại
học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin (NXB
Chính trị Quốc gia (2017)).
2. Hồ Chí Minh Toàn tập (NXB Chính trị Quốc gia).
3. Hồ Chí Minh – Con Người Của Sự Sống (NXB Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh)
4. Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin và
Hồ Chí Minh (NXB Chính trị Quốc gia Sự thật).
5. Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam:
www.dangcongsan.vn
*Phụ lục danh sách phân công thực hiện đề tài tiểu
luận:
| 1/18

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ 
TIỂU LUẬN MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỀ TÀI:
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN VÀ Ý
NGHĨA VỚI VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thu Hà
Nhóm sinh viên thực hiện Họ và tên MSSV Mã lớp bài tập
Hà Nội, 9 tháng 1 năm 2022 Mở đầu 1.Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh (1890-1969) là nhà lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, được thế giới
công hận là nhà văn hóa kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc. Những
giá trị mà tư tưởng Hồ Chí Minh để lại cho hậu thế là vô cùng quý giá,
được Đảng Cộng sản Việt Nam coi là kim chỉ nam trong mọi công tác
Đảng, mọi đường lối chính sách lãnh đạo đất nước. Người cũng là tấm
gương sáng ngời về đạo đức, phong cách sống và làm việc cho các thế hệ nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt
Nam trong suốt hơn nửa thể kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường
cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc
ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây cũng là lí do nhóm
tác giả chọn đề tài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền và ý
nghĩa với vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay”
để làm
rõ hơn những quan điểm của Người về vai trò của Đảng trong chiều dài
lịch sử của dân tộc Việt Nam.
2. Tổng quan đề tài (lịch sử nghiên cứu)
Đề tài nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một mảng nghiên cứu
vô cùng rộng lớn và có giá trị với thực tiễn xã hội – cách mạng Việt Nam
trong suốt tiến trình lịch sử hàng thế kỉ của dân tộc. Với quy mô của một
bài tiểu luận, nhóm tác giả tập trung phân tích những tư tưởng, quan điểm
của Bác về Đảng cộng sản để chỉ ra ý nghĩa vai trò của Đảng trong cuộc
sống hiện nay. Tiểu luận có tham khảo nhiều bài báo và đầu sách khác nhau
với hi vọng có thể đưa ra lập luận chính xác, cụ thể nhất trong khả năng của nhóm tác giả.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện nhằm đưa ra một góc nhìn về tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng Cộng sản Việt Nam đồng thời liên hệ ý nghĩa vài trò đó đến cuộc sống hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tiểu luận đề tài “Quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền và ý
nghĩa với vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay”
tập
trung nghiên cứu về tính tất yêu và vài trò của Đàng cầm quyền, Đảng phải
trong sạch, vững mạnh thông qua 3 vấn đề: Đảng là đạo đức, là văn minh,
những nguyên tắc trong hoạt động của Đảng và xây dựng đội ngũ cán bộ,
Đảng viên. Từ đó nhóm tác giả liên hệ chúng với thực tiễn tình hình hiện
nay. Đề tài không đi sâu vào nghiên cứu các khía cạnh đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh cũng như ảnh hưởng của nó.
5. Đóng góp của đề tài
Với những nghiên cứu hết sức cơ bản của mình, nhóm tác giả tiểu luận hi
vọng được đóng góp một phần nhỏ so với các trước các tác giả hết sức đồ
sộ về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng thời, đề tài này cũng đưa ra một phương pháp tiếp cận mới tới những
vấn đề của tư tưởng Hồ Chí Minh thông qua việc nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm chương mở đầu 2 phần nội dung, kết luận đi kèm với Danh
mục tài liệu tham khảo và Phụ lục phân công tiểu luận. Nội dung:
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam
1.Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Đảng Cộng sản là chính đảng của giai cấp công nhân. Nó là đội tiên
phong, bộ tham mưu chiến đấu, lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân,
đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản bao gồm những bộ phận tiên tiến
của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Đảng Cộng sản
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của mình.
Trong lịch sử chưa có giai cấp nào giành được địa vị thống trị, giữ
vai trò lãnh đạo xã hội mà không tạo ra được trong hàng ngũ của mình một
đảng chính trị, lực lượng tiên phong để lãnh đạo toàn bộ cuộc đấu tranh.
Trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, chừng nào và chỉ khi nào giai
cấp công nhân tự tổ chức ra chính đảng của mình để lãnh đạo cuộc đấu
tranh thì mới đảm bảo giành được thắng lợi trọn vẹn, hoàn thành được sứ
mệnh lịch sử của mình. Nếu không có chính đảng lãnh đạo, giai cấp công
nhân chỉ có thể đấu tranh tự phát , đấu tranh vì mục đích kinh tế, chứ không
phải là cuộc đấu tranh tự giác, đấu tranh vì mục đích chính trị. Vì vậy, sự
có mặt và lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một tất yếu xuất phát từ yêu cầu
phát triển của cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản ra đời đánh dấu sự phát
triển nhảy vọt của phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác, cuộc đấu
tranh vì lợi ích kinh tế trong giới hạn của chủ nghĩa tư bản cho phép
chuyển sang cuộc đấu tranh chính trị nhằm lật đổ giai cấp tư sản, xóa bỏ
chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở
nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem yếu tố tự giác vào phong trào
công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước nhảy vọt về
chất, lên một tầm cao mới.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh khẳng
định: Cách mạng trước hết phải có “đảng cách mệnh, để trong thì vận động
và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai
cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Câu nói trên một lần nữa khẳng định
tính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho ta thấy Đảng Cộng sản
chính là nhân tố quyết định hàng đầu giúp cho giai cấp công nhân hoàn
thành sứ mệnh của mình.
Đồng thời, câu nói trên của Bác cũng đã nói lên vai trò của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định trước tiên trong
việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Khẳng định đảng
cộng sản “như người cầm lái” cho con thuyền là quan điểm nhất quán của
Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt
cả quá trình cách mạng, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cả
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và trước hết phải có Đảng
cách mạng. Dĩ nhiên, quần chúng nhân dân phải được giác ngộ, tổ chức và
lãnh đạo theo một đường lối chính trị đúng đắn thì mới trở thành lực lượng
to lớn. Mà muốn vận động, giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo được dân chúng làm
cách mạng thì phải có Đảng cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng được hình thành và phát triển từ
chủ nghĩa Mác – Lê nin. Từ lí tuởng của chủ nghĩa ứng vào hoàn cảnh đất
nước, Người đã rút ra: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công
nhân, là Đảng của Nhân dân lao động và là Đảng của dân tộc Việt Nam. Vì
vậy mọi hoạt động của Đảng đều hướng tới nhân dân. Vai trò của Đảng là
lựa chọn con đường, xây dựng đường lối chiến lược, sách lược Cách Mạng,
tổ chức đoàn kết, tập hợp lực lượng Cách mạng,… nhằm phục vụ cho lợi
ích chính đáng của nhân dân.
2.Đảng phải trong sạch vững mạnh
a.Đảng là đạo đức, là văn minh
Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người
cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức của Đảng thể hiện trên những điểm sau đây:
(1)Mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đảng cộng
sản Việt Nam chính là đảng cách mạng mang bản chất của giai cấp công
nhân Việt nam, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có khả năng đoàn
kết tập hợp các tầng lớp nhân dân khác làm cách mạng. Đảng cộng sản Việt
nam tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, trung thành
tuyệt đối với lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có
lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân và của dân tộc. Đảng là đội tiên
phong dũng cảm luôn luôn phấn đấu vì mục tiêu độc lập cho dân tộc, tự do
cho nhân dân, hạnh phúc cho mọi người.
(2)Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của
Đảng đều phải nhằm mục đích trên. Sự ra đời của Đảng Cộng sản là do tính
tất yếu từ yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam
là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Đảng luôn luôn tận tâm, tận lực phụng sự tổ quốc
và nhân dân, trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp và dân tộc, Đảng
không có lợi ích nào khác.
(3)Đội ngũ đảng viên phải luôn luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng,
ra sức tu dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước.
Đảng văn minh còn là ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng viên giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể
quần chúng,, nhất là những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt,
cho đến đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những chiên
sĩ tiên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày. Phải xây
dựng Đảng thành một tổ chức chính trị trong sạch,vững mạnh, một tổ chức
chiến đấu kiên cường. Xây dựng một tổ chức trọng chất lượng, lấy việc
nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ thường
xuyên của mỗi cán bộ,đảng viên và toàn Đảng. Đảng cần phải chú trọng
công tác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống cho các cán bộ đảng viên
theo tinh thần cần, kiệm, liên, chính, chí công vô tư và phải thường xuyên
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng viên, tổ chức cơ sở
đảng,gắn bó với nhân dân,không ngừng học tập,làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, dám hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng,của nhân
dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Đảng “là Đảng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động
trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng
sự Tổ quốc và nhân dân. Những người mà:
Giàu sang không thể quyến rũ
Nghèo khó không thể chuyển lay,
Uy lực không thể khuất phục”.
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng có đạo đức
cách mạng, về ý nghĩa cơ bản mà xét, cũng tức là xây dựng Đảng để Đảng
trở thành một Đảng văn minh, hoặc Hồ Chí Minh hay gọi đó là «một Đảng
cách mạng chân chính ». Để xứng đáng là một Đảng cách mạng chân
chính”vừa là đạo đức, vừa là văn minh”, luôn tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự,
lương tâm của cả dân tộc và thời đại thì Đảng phải thường xuyên tự chỉnh
đốn, tự đổi mới. Chỉnh đốn và đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh cả về ba mặt:chính trị, tư tưởng và tổ chức. Điều
này thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây :
(1) Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc.
(2) Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn
minh tiến bộ của dân tộc và của nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều
xuất phát từ yêu cầu phát triển của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc
làm trọng, mọi lợi ích giai cấp đều phải đặt dưới sự phát triển của dân tộc;
mọi hoạt động của Đảng đều phải phù hợp với quy luật vận động của xã hội Việt Nam.
(3) Đảng phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh
lịch sử do nhân dân, dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ
quốc và đưa lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn
Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh càng chú trọng hơn việc phòng và chống
các tiêu cực trong Đảng.
(4) Xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm
quyền, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, Đảng
không phải là tổ chức đứng trên dân tộc.
(5) Đảng văn minh còn là ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng
viên giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn
thể quần chúng,, nhất là những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý chủ
chốt, cho đến đảng viên không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những
chiên sĩ tiên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày.
(6) Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt
động không những vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà còn vì độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác; vì hòa bình,
hữu nghị, hợp tác cùng phát triển của các dân tộc trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản là tư tưởng chỉ đạo cho
việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt nam thực sự là một đảng Mácxít-
Lêninnít chân chính, là Đảng của Hồ Chí Minh để làm tròn sứ mệnh lịch sử
vẻ vang và trách nhiệm nặng nề trước dân tộc, đồng thời có những đóng
góp tích cực vào phong trào cách mạng thế giới.
b) Những nguyên tắc trong hoạt động của Đảng
1.Lấy chủ nghĩa Mác Lenin làm nền tảng
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh giành
chính quyền, đập tan xiềng xích đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, khai
sinh ra Nhà nước dân chủ công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á, tiếp
đến là hai cuộc kháng chiến trường kỳ để giành lại độc lập, tự do cho dân
tộc, đưa đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm
Đường cách mệnh (năm 1927), Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn
vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người
không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều,
chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. 2. Tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản của Đảng. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này bao gồm:
Một là, cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Hai là, cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn
quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng
viên. Giữa hai kỳ đại hội; cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành
Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
Ba là, cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ
thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc,
thực hiện tự phê bình và phê bình.
Bốn là, tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng.
Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng
tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc
và Ban Chấp hành Trung ương.
Năm là, nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi
hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước
khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên
có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp
trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm
chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của
Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân
biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
Sáu là, tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn
của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
3.Tự phê bình và phê bình
-Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, mục đích của tự phê bình và phê bình là: Làm cho
phần tốt tăng lên, phần xấu bị mất dần đi; làm cho các tổ chửc Đảng luôn
luôn trong sạch, vững mạnh. Tự phê bình, phê bình để tăng cường đoàn
kết, thống nhất trong nội bộ Đảng; để các tổ chức đảng và đảng viên luôn
luôn hoàn thiện mình, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao cho.
-Tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên, như người ta rửa mặt hằng ngày.
-Tự phê bình phải thành khẩn. Thành khẩn, thành tâm, không “giấu
bệnh sợ thuốc” sẽ giúp cho việc tự phê bình có kết quả tốt. Phê bình phải
trung thực, “không đặt điều”, “không thêm bớt”. Tự phê bình và phê bình
phải kiên quyết, “ráo riết”, không nể nang. Tự phê bình và phê bình phải có
tính chất xây dựng, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
4.Kỷ luật nghiêm minh tự giác
Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng một kỷ luật nghiêm minh
và tự giác trong Đảng để tạo nên sức mạnh to lớn trong Đảng : “Sức mạnh
vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự giác ,ý thức tổ chức nghiêm minh
của cán bộ ,đảng viên.Mọi đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của
Đảng. Nghiêm minh là nguyên tắc thuộc về tổ chức Đảng, vì đó là kỉ luật
đối với mọi cán bộ, đảng viên, không phân biệt cán bộ lãnh đạp cao hay
thấp, là cán bộ lãnh đạo hay đảng viên thường, mọi cán bộ ,đảng viên đều
bình đẳng trước kỷ luật của Đảng. Tự giác thuộc về mỗi cán bộ, đảng viên
đối với Đảng –một tổ chức của những người tự nguyện đứng trong một
hàng ngũ để cùng chiến đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội: “Kỷ
luật này là do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với
Đảng”. Mỗi đảng viên dù ở cương vị nào ,mỗi cấp ủy dù ở cấp bộ nào cũng
đều phải nghiêm túc chấp hành kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của
Nhà nước, tuyệt đối không ai được coi thường, thậm chí đứng trên tất cả.
5. Thường xuyên tự chỉnh đốn
Quyền lực của Đảng là do giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
toàn dân tộc giao phó. Đảng phải không ngừng tự chỉnh đốn bản thân mình.
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không có mục đích tự thân, Đảng không phải
là tổ chức để làm quan phát tài mà Đảng từ trong xã hội mà ra, hoạt động vì
Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Thường xuyên tự chỉnh đốn, do
đó, trở thành một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong xây dựng Đảng. Điều
này càng đặc biệt quan trọng hơn khi Đảng đứng trước những thử thách lớn
trong quá trình hoạt động, chẳng hạn, Hồ Chí Minh nêu ý kiến rằng, ngay
sau khi cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam hoàn toàn thắng
lợi, “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng
viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao
phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù
công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
6. Đoàn kết thống nhất trong Đảng
Đoàn kết trong Đảng là điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc; đoàn kết, thống nhất trong Đảng trước hết là trong cấp uỷ, trong
những cán bộ lãnh đạo chủ chốt; đoàn kết trên cơ sở chủ nghĩa Mác -
Lênin, trên cơ sở cương lĩnh, đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng.
Muốn đoàn kết, phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường xuyên
và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức
cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện đoàn kết là trách nhiệm của toàn Đảng.
“Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết
nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
7. Liên hệ mật thiết với nhân dân
-Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp của phong trào yêu
nước, phong trào công nhân và chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng không có lợi
ích nào khác là vì Tổ quốc, vì nhân dân. Gắn bó với nhân dân, vì lợi ích
của nhân dân mà phấn đấu là mục đích hoạt động của Đảng.
-Đảng sinh ra trong lòng dân tộc, được nhân dân cưu mang, giúp đỡ mà
tồn tại và phát triển. Đảng với dân như cá với nước. Gắn bó mật thiết với
nhân dân Đảng mới có lực lượng. Bài học thực tiễn của cách mạng Việt
Nam là khi Đảng có dân là có tất cả.
-Gắn bó mật thiết với nhân dân là một phương thức để xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh. Nhân dân yêu quý Đảng gọi Đảng là Đảng ta; đồng
thời đặt yêu cầu cao với cán bộ, đảng viên của Đảng, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
-Gắn bó với nhân dân yêu cầu Đảng phải thường xuyên có mối liên hệ
trực tiếp với nhân dân ở tất cả các cấp, các ngành. Đảng phải luôn luôn
xuất phát từ lợi ích chính đáng của nhân dân để phấn đấu. Có vậy nhân dân mới yêu quý và tin theo.
c.Xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao đạo đức của người cán bộ cách
mạng. Người cho rằng, cán bộ chỉ có giác ngộ chính trị chưa đủ, mà còn
phải thấm nhuần, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người từng viết: “…
Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi đến
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc,
giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo
đức, không có căn bản, tự mình hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”.
Người coi đó là thuộc tính nhất quán trong mọi hoàn cảnh, bởi đã là cán bộ
cách mạng thì phải có đạo đức cách mạng.
+Phải tuyệt đối trung thành với Đảng:
Theo đó, người cán bộ cách mạng phải thể hiện trung thành, tận tụy,
cống hiến, suốt đời phấn đấu vì lợi ích của Tổ quốc; vì lợi ích của cách
mạng, vì lợi ích của nhân dân, mưu cầu hạn phúc cho nhân dân. Người
cách mạng bao giờ cũng cần đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trên lợi
ích cá nhân. Nếu lợi ích Đảng mâu thuẫn với lợi ích cá nhân thì phải kiên
quyết hi sinh lợi ích cá nhân để hoàn thành mục tiêu cao cả của
Đảng.Trung với nước, hiếu với dân là hạt nhân cơ bản của tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh, là tiêu chuẩn đạo đức quan trọng nhất đối với cán bộ, đảng viên
+Nghiêm chỉnh thực hiện cương lĩnh đường lối của đảng:
Cán bộ cách mạng cần nghiêm chỉnh chấp hành cương lĩnh của
Đảng, luôn tin tưởng, làm theo đường lối đúng đắn của đảng đề ra để
hướng công cuộc cách mạng của dân tộc đi đến thành công. Người đòi hỏi
mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải trở thành những tấm gương có sức
cảm hóa, dẫn dắt quần chúng nhân dân đi theo con đường đúng đắn, cùng
đồng chí mình vượt qua khó khăn và thách thức.
+Luôn học tập nâng cao trình độ về mọi mặt:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc học tập chính trị
của cán bộ. Người từng nhắc nhở: “mỗi cán bộ, đảng viên phải học lý luận,
phải đem lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa bệnh kém lý
luận, khinh lý luận và lý luận suông”. Người cho rằng, phải có lý luận, phải
có chủ nghĩa thì tinh thần mới vững, hành động mới nhất quán. Người cán
bộ phải trước hết là người hiểu đúng, quán triệt sâu sắc mọi chủ trương,
đường lối của Đảng. Hiểu đúng rồi thì đem ra vận dụng để cho công việc
thành công. Với quan niệm “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, Chủ tịch
Hồ Chí Minh xác định “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Để
huấn luyện, bồi dưỡng và làm cho cán bộ trưởng thành, Đảng phải bỏ nhiều
công sức, phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây
cối quý báu. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để huấn luyện, học tập có kết
quả thì trước hết phải xác định đúng mục đích huấn luyện, học tập. Người
căn dặn, cán bộ đi học là để “làm việc, làm người, làm cán bộ”; học để sửa
chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng.
+Liên hệ mật thiết với nhân dân:
Người cán bộ phải tìm hiểu về dân, có thể cùng chung sống với nhân
dân để biết được dân làm gì và cần gì. Người cán bộ cần phải vì lợi ích của
nhân dân, mưu cầu hạn phúc cho nhân dân. Người khuyên cán bộ, đảng
viên phải gắn bó với dân, thương dân, lấy trí tuệ ở dân, học hỏi dân. Mỗi
cán bộ, đảng viên phải xác định mình là công bộc của dân: “Việc gì lợi cho
dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”
+Luôn chịu trách nhiệm, lao động, sáng tạo:
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các cán bộ của Đảng, dù ở
bất kỳ cương vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh
thần trách nhiệm. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người có tinh thần trách
nhiệm là khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho việc gì, bất kỳ to hay
nhỏ, khó hay dễ, thì cũng đem cả tinh thần và sức lực làm cho đến nơi đến
chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công; luôn nắm vững chính sách,
đi đúng đường lối quần chúng và làm tròn nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, bất cứ nấu bếp, quét nhà hay làm chủ tịch đều phải lao động cả.
Bởi lao động là vẻ vang. Do đó, tình yêu lao động và lao động sáng tạo là
một trong những chuẩn mực cơ bản của đạo đức cách mạng. Điều đó đòi
hỏi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong lao động, đem hết nhiệt tình,
trí tuệ làm cho lao động của mình, của tập thể đạt được năng suất và hiệu
quả ngày càng cao trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần làm
cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc mau đến thành công.
+Luôn phòng và chống các tiêu cực:
Trong việc phòng và chống các tiêu cực, phải đặc biệt phòng và
chống tham ô, lãng phí, quan liêu mà Hồ Chí Minh cho đó là giặc nội xâm,
là những kẻ địch bên trong, “mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh
của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng
sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong sự tổng hòa các mối
quan hệ. Người coi “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Vai trò của
người cán bộ được Người ví theo cách rất tự nhiên, như: cây thì phải có
gốc, không có gốc thì cây héo, sông thì phải có nguồn, không có nguồn thì
sông cạn. Trong mọi việc của cách mạng, của Đảng phải có người cán bộ
đứng ra để thực hiện, không có cán bộ thì không thể hoàn thành. Người còn
ví, cán bộ như cái dây chuyền của bộ máy liên quan đến nhiều bộ phận, nếu
dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy
cũng tê liệt. Người cũng ví: cán bộ là cầu nối, là người trực tiếp đem chính
sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo
cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Như
vậy, nếu cán bộ dở thì một mặt chính sách không thể thực hiện được, mặt
khác việc hoạch định, xây dựng chính sách mới sẽ sai lầm hoặc không phù
hợp. Thực tiễn của các thời kỳ cách mạng cho thấy, trong tất cả mọi công
việc của Đảng dù to hay nhỏ, cán bộ là yếu tố trung tâm, then chốt và mang tính quyết định.
II. Liên hệ thực tiễn tình hình hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi là kim
chỉ nam cho Đảng ta xác định phương hướng xây dựng Đảng qua các kỳ
đại hội, đặc biệt là Đại hội XIII sắp tới. Vận dụng tư tưởng của Người trong
tình hình hiện nay, Đảng ta xác định phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; gắn xây dựng với chỉnh đốn Đảng.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xây dựng
Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Một là, nâng
cao bản lĩnh chính trị và trí tuệ của Đảng. Bản lĩnh
chính trị của Đảng thể hiện ở việc kiên định và vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng. Do đó, cần phải
thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, truyền thống dân tộc
và kiến thức mới của thời đại; kiên định đường lối đổi mới và những
nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng; giữ vững bản chất giai cấp công
nhân; nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên, trước
hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Thực hành dân chủ gắn
với tăng cường kỷ cương; phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán
bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Trí tuệ, sự sáng suốt trong lãnh đạo
của Đảng thể hiện ở việc vạch ra đường lối, chủ trương, chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm và điều kiện
của nước ta; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó với các thách thức, biến
động của tình hình. Kiên quyết đấu tranh có hiệu quả với những biểu hiện
cơ hội, giáo điều, bảo thủ, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, v.v. Hai là coi ,
trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Trong đó, tập trung đổi
mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng, bảo đảm tính đảng,
tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn; nâng cao chất lượng công tác
tuyên truyền, giáo dục, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý
luận chính trị; kết hợp chặt chẽ giáo dục, học tập lý luận với rèn luyện, thử
thách trong thực tiễn, góp phần nâng cao nhận thức, hành động trong Đảng
và mỗi cán bộ, đảng viên. Thường xuyên làm tốt công tác dự báo, nắm chắc
tình hình tư tưởng, không để bị động, bất ngờ; tăng cường bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch; chủ động phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu độc
trên Internet, mạng xã hội. Tăng cường quản lý, định hướng hoạt động các
cơ quan báo chí; xây dựng đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên bản
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, tinh thông nghề
nghiệp; phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trên lĩnh vực tư tưởng.
Đồng thời, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhất
là những vấn đề khó, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn. Ba là tập ,
trung xây dựng Đảng về đạo đức. Theo đó, phải kiên
quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính
trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp
tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, tiêu cực và những hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho những
tệ nạn đó. Tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho cán bộ, đảng
viên thấy rõ bổn phận, trách nhiệm của mình, không bị cám dỗ bởi vật chất,
tiền tài, danh vọng, tránh xa chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, tham vọng
quyền lực; nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên. Thực hiện
nghiêm tự phê bình và phê bình; coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, bảo
vệ chính trị nội bộ. Thực hiện tốt quy định nêu gương của cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cán bộ có chức vụ càng cao
càng phải gương mẫu; nêu gương phải trở thành một nội dung quan trọng
trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Cùng với đó, cần giữ vững kỷ luật,
kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước; kịp thời biểu dương
những tấm gương về đạo đức, lối sống; đấu tranh với những biểu hiện lệch
lạc, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống.
Bốn là, xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng thực sự là nền
tảng và hạt nhân chính trị ở cơ sở. Tổ chức cơ sở đảng có vị trí vai trò hết
sức quan trọng, là cầu nối Đảng với quần chúng, nơi trực tiếp tổ chức,
hướng dẫn cho quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Do vậy, cần khảo sát, đánh giá thực
trạng từng tổ chức cơ sở đảng để có biện pháp đổi mới, chỉnh đốn cho phù
hợp, bảo đảm mỗi loại hình cơ sở hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm
vụ và tương thích với tổ chức bộ máy hệ thống chính trị; tăng cường chấn
chỉnh, củng cố các cơ sở yếu kém; nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách và các nguyên tắc của Đảng phải được quán
triệt, thực hiện nghiêm túc. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ
cơ sở, bố trí đúng đội ngũ cán bộ chủ chốt, góp phần nâng cao năng lực
lãnh đạo, kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở,
nhất là bí thư cấp ủy. Phát huy vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong quy tụ
sức mạnh, lãnh đạo đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị; làm tốt công tác
quản lý, giáo dục, rèn luyện, kết nạp đảng viên và thường xuyên rà soát,
sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.
Năm là, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược và người đứng đầu vững mạnh. Chất lượng cán bộ ảnh hưởng
trực tiếp tới bản chất giai cấp, vai trò, hiệu quả lãnh đạo và uy tín của
Đảng. Bởi vậy, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược và người đứng đầu đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ
cán bộ. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn
với kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ. Việc xây dựng đội
ngũ cán bộ phải quán triệt tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng: “đừng nhìn gà hoá cuốc”, “đừng thấy đỏ tưởng là
chín”, đừng chỉ thấy “cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài bên trong”.
Vì thế, cần đổi mới mạnh mẽ công tác đánh giá cán bộ; không để lọt những
người cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, chạy chức, chạy quyền, lợi
ích nhóm, … vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đồng thời,
không để sót những cán bộ thực sự có đức, có tài. Tăng cường bồi dưỡng,
giáo dục, rèn luyện nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ; phân công, giao
nhiệm vụ cụ thể, đúng người, đúng việc và đưa cán bộ, đảng viên vào hoạt
động thực tiễn để rèn luyện.
Sáu là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
mới; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Việc đổi
mới phải theo hướng nâng cao năng lực dự báo, tầm chiến lược trong hoạch
định đường lối, chủ trương; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết
không sát thực tiễn, thiếu tính khả thi. Tiếp tục thể chế hóa mối quan hệ
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Với Nhà nước,
Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện làm thay mà
phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý
đất nước. Với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, cần chú ý xác
định mục tiêu, phương hướng và nội dung hoạt động từng thời kỳ; phát huy
tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong tổ
chức và hoạt động. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng gắn với đổi
mới phong cách hoạt động, lề lối làm việc dân chủ, thiết thực, nói và làm
thống nhất, khắc phục bệnh quan liêu, tùy tiện, chủ quan, hình thức.
Xây dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân là một
trong những mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công
tác xây dựng Đảng. Bởi theo Người: Cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, thắng lợi của cách mạng là sự phấn đấu hy sinh và trí thông minh
sáng tạo của hàng triệu nhân dân. Vì vậy, sự gắn bó với quần chúng, trước
hết, người đảng viên phải tin vào khả năng và lực lượng của nhân dân. Nêu
cao tinh thần phục vụ, trách nhiệm trước quần chúng, chăm lo đến lợi ích
và đời sống của người dân. Phải hoà mình với quần chúng thành một khối,
hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, gương mẫu trước quần
chúng từ lời nói đến việc làm, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Thông qua phong trào cách mạng của quần chúng mà rèn luyện và sàng lọc
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kết luận chung
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của mình, Hồ Chí Minh
đã không ngừng tiếp thu tri thức, tinh hoa văn hóa nhân loại để hình thành
nên hệ tư tưởng của mình. Với xuất phát là một người yêu nước – Nguyễn
Ái Quốc đã đi khắp năm châu bốn bể để tìm thấy cho dân tộc mình con
đường giải phóng, con đường của độc lập, tự do và hạnh phúc. Thực tế đã
chứng minh: Hồ Chí Minh trở thành vị lãnh tụ vĩ đại đưa Cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam đi đến thành công, là cơ sở cho cách mạng dân
tộc, dân chủ trên toàn thế giới và đặt nền móng tư tưởng cho Đảng Cộng
sản Việt Nam trên con đường lãnh đạo và phát triển đất nước.
Càng đi sâu hơn vào tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, ta khâm phục
và kính trọng vị Chủ tịch vĩ đại của dân tộc, và cũng là của thế giới. Đối
với Đảng Cộng sản Việt Nam, phải coi tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ
nam, là nền móng trong công tác xây dựng Đảng và đất nước. Với mỗi
công dân, Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về tư tưởng và đạo đức mà ta
cần học tập và tôn vinh, cũng như tự hào.
*Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh dành cho sinh viên đại
học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin (NXB
Chính trị Quốc gia (2017)).
2. Hồ Chí Minh Toàn tập (NXB Chính trị Quốc gia).

3. Hồ Chí Minh – Con Người Của Sự Sống (NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh)
4. Tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph.Ăng ghen, V.I.Lênin và
Hồ Chí Minh (NXB Chính trị Quốc gia Sự thật).
5. Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam: www.dangcongsan.vn

*Phụ lục danh sách phân công thực hiện đề tài tiểu luận: