-
Thông tin
-
Quiz
Quan điểm của Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, liên hệ bản thân | Bài tập môn Triết học Mác – Lênin Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
-Theo triết học Mác – Lênin, nhận thức thực chất không phải là một sự phản ánh mang tính thụ động, giản đơn, mà nhận thức chính là một quá trình biện chứng.-Nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh về thế giới khách quan dựa trên cơ sở của thực tiễn, nhằm mục đích để qua đó sáng tạo ra những tri thức về thế giới đó. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Quan điểm của Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, liên hệ bản thân | Bài tập môn Triết học Mác – Lênin Trường đại học sư phạm kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh
-Theo triết học Mác – Lênin, nhận thức thực chất không phải là một sự phản ánh mang tính thụ động, giản đơn, mà nhận thức chính là một quá trình biện chứng.-Nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh về thế giới khách quan dựa trên cơ sở của thực tiễn, nhằm mục đích để qua đó sáng tạo ra những tri thức về thế giới đó. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:





Tài liệu khác của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
1. Khái niệm nhận thức?
-Theo triết học Mác – Lênin, nhận thức thực chất không phải là một sự phản ánh mang
tính thụ động, giản đơn, mà nhận thức chính là một quá trình biện chứng.
-Nhận thức được định nghĩa là quá trình phản ánh về thế giới khách quan dựa trên cơ sở
của thực tiễn, nhằm mục đích để qua đó sáng tạo ra những tri thức về thế giới đó.
-Quan niệm được nêu cụ thể trên đây cũng chính là quan niệm duy vật biện chứng về bản
chất của nhận thức. Quan niệm này xuất phát từ bốn nguyên tắc cơ bản sau:
+ Nguyên tắc thừa nhận thế giới vật chất luôn tồn tại một cách khách quan, thế giới vật
chất độc lập với ý thức của con người.
+ Nguyên tắc thừa nhận con người đều có khả năng nhận thức được thế giới khách quan
vào trong bộ óc của con người, đây cũng chính là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ
thể. (nguyên tắc thừa nhận không có cái gì là không thể nhận thức được mà trên thực tế
chỉ có những cái mà con người chưa thể nào có thể nhận thức được.)
+ Nguyên tắc khẳng định sự phản ánh đó chính là một quá trình biện chứng, tích cực, tự
giác và sáng tạo. (quá trình phản ánh đó trên thực tế sẽ diễn ra theo trình tự cụ thể đó là từ
chưa biết đến biết, từ biết ít đến nhiều, từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và
toàn diện hơn, và nhiều các trình tự khác.)
+Nguyên tắc coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; thực tiễn cũng
chính là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để nhằm mục đích có thể kiểm tra chân lý. 2. Quan
điểm của Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý:
-Trong tác phẩm Bút ký triết học Lênin đã khái quát con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trưù
tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận
thức hiện thực khách quan.
-Theo sự khái quát này, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý là một quá trình,
đó là quá trình bắt đầu từ trực quan sinh động tiến đến tư duy trừu tượng. Nhưng những sự
trừu tượng đó không phải là điểm cuối cùng của một chu kỳ nhận thức mà nhận thức phải
tiếp tục tiến tới thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng
minh tính đúng đắn của nó và tiếp tục vòng khâu tiếp theo của quá trình nhận thức. Đây
cũng chính là qui luật chung của quá trình con người nhận thức về hiện thực khách quan.
Giai đoạn trực quan sinh động (Nhận thức cảm tính) bao gồm: Cảm giác; Tri giác;
Biểu tượng. Cụ thể như sau:
-Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) được hiểu cơ bản chính là những tri thức do các
giác quan mang lại. Nét đặc trưng cơ bản ở giai đoạn nhận thức cảm tính (trực quan sinh
động) là nhận thức sẽ được thực hiện trong mối liên hệ trực tiếp với thực tiễn thông qua các
nấc thang cụ thể như là cảm giác, tri giác, biểu tượng. Các thành phần của nhận thức cảm
tính (trực quan sinh động) cụ thể như sau:
+ Cảm giác được hiểu cơ bản chính là tri thức được sinh ra do sự tác động trực tiếp của các
sự vật, hiện tượng lên các giác quan cụ thể của con người. Cảm giác phản ánh đến từng
mặt, từng khía cạnh, từng thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng. Nguồn gốc và nội
dung của cảm giác đó chính là thế giới khách quan, còn bản chất của cảm giác thì đó lại là
hình ảnh chủ quan về thế giới đó.
+ Tri giác được hiểu cơ bản chính là sự tổng hợp của nhiều cảm giác riêng biệt vào một
mối liên hệ có tính thống nhất và cũng từ đó mà đã tạo nên một hình ảnh tương đối hoàn
chỉnh về sự vật, hiện tượng.
+ Biểu tượng thì sẽ được hình thành dựa vào sự phối hợp hoạt động, bổ sung lẫn nhau của
các giác quan và quá trình này cũng đã có sự tham gia của các yếu tố cụ thể như: phân tích,
trừu tượng và khả năng ghi nhận thông tin của não người. Thực chất thì ta nhận thấy rằng,
đây cũng chính là nấc thang cao và có tính chất phức tạp nhất của giai đoạn nhận thức cảm
tính. Đây cũng chính là hình ảnh cảm tính tương đối hoàn chỉnh về sự vật, hiện tượng và
nó được lưu lại trong não người và bởi vì có các tác động nào đó được tái hiện lại khi các
sự vật, hiện tượng không còn nằm trong tầm cảm tính.
Trong biểu tượng thì cũng đã có những phản ánh gián tiếp về sự vật, hiện tượng và với
biểu tượng, con người cũng đã có thể hình dung được cơ bản về sự khác nhau và mâu
thuẫn nhưng con người về căn bản vẫn chưa nắm được sự chuyển hóa từ sự vật, hiện
tượng này sang sự vật, hiện tượng khác.
Kết quả của nhận thức ở giai đoạn trực quan sinh động là không những chỉ là nhận
thức “bề ngoài” về sự vật, hiện tượng, mà đã có “chất”. Tuy vậy, giai đoạn trực
quan sinh động chưa đưa lại nhận thức hoàn chỉnh, khái quát về sự vật, hiện
tượng; các nấc thang khác nhau của giai đoạn này trong quá trình nhận thức mới
chỉ là tiên đề cho nhận thức về bản chất sự vật, hiện tượng.
Giai đoạn tư duy trừu tượng (Nhận thức lý tính): bao gồm: Khái niệm; Phán đoán; Suy luận.
-Ta nhận thấy rằng, nhận thức lý tính sẽ bắt nguồn từ trực quan sinh động và nhận thức lý
tính cũng sẽ bắt nguồn từ những lý luận truyền lại. Nhận thức lý tính cũng đã góp phần có
thể phản ánh sâu sắc, chính xác và đầy đủ hơn về khách thể nhận thức. Cụ thể về các thành
phần của nhận thức lý tính bao gồm:
+ Khái niệm được hiểu cơ bản chính là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng. Khái niệm
thực chất sẽ vừa có tính khách quan, bên cạnh đó thì nó lại vừa có tính chủ quan khi thực
hiện phản ánh cả một tập hợp những thuộc tính cơ bản có tính bản chất và chung nhất của
các sự vật, hiện tượng dựa vào sự tổng hợp, khái quát biện chứng những thông tin mà nó đã
thu nhận được về sự vật, hiện tượng thông qua hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức.
+ Phán đoán được hiểu cơ bản chính là hình thức tư duy thực hiện việc liên kết các khái
niệm lại với nhau để nhằm mục đích có thể khẳng định hoặc phủ định một đặc điểm, một
thuộc tính cụ thể nào đó của sự vật, hiện tượng; phán đoán cũng chính là hình thức được sử
dụng để có thể phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan
vào ý thức của con người tạo nên vai trò của phán đoán là hình thức biểu hiện và giúp có
thể diễn đạt các quy luật khách quan.
+ Suy luận (suy lý) được hiểu cơ bản chính là hình thức của tư duy thực hiện việc liên kết
các phán đoán lại với nhau để nhằm mục đích có thể thông qua đó rút ra tri thức mới theo
phương pháp phán đoán cuối cùng được suy ra từ những phán đoán tiên đề. Suy luận
trong thực tế hiện nay có vai trò quan trọng trong tư duy trừu tượng, bởi thực chất thì suy
luận đã giúp thể hiện quá trình vận động của tư duy đi từ cái đã biết đến nhận thức gián tiếp cái chưa biết. Ví dụ:
-Khi chúng ta đến nhà hàng ăn uống, nhân viên phục vụ bê lên một đĩa thức ăn. Trông
rất hấp dẫn, ngon miệng và khiến bạn có cảm giác muốn ăn ngay lập tức.
+Nhận thức cảm tính: đĩa thức ăn này thật ngon, rất muốn ăn.
+Nhận thức lý tính: Đây là một nhà hàng nhỏ, món ăn lại rẻ, nhưng món ăn xào nấu
rất đẹp mắt. Không biết ăn có ngon hay không nữa.
Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn:
-Như đã phân tích cụ thể bên trên, ta nhận thấy, nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
thực chất cũng chính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận thức. Trên thực tế, nhận
thức cảm tính và nhận thức lý tính thông thường diễn ra một cách đan xen vào nhau trong
một quá trình nhận thức, tuy nhiên thì nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có những
chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính có sự gắn liền với thực tiễn, với
sự tác động của khách thể cảm tính, nhận thức cảm tính cũng chính là cơ sở cho nhận thức
lý tính thì nhận thức lý tính, thông qua việc có tính khái quát cao, nhận thức lý tính lại có
thể hiểu biết được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, hiện
tượng từ đó mà nhận thức lý tính đã giúp cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng
đúng và trở nên sâu sắc hơn.
-Tuy nhiên, ta nhận thấy rằng, trong thực tiễn, nếu như chúng ta chỉ dừng lại ở nhận thức lý
tính thì con người sẽ mới chỉ có được những tri thức cơ bản về đối tượng còn bản thân
những tri thức đó liệu trên thực tế có thật sự chính xác hay không thì thực chất con người
vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức cũng đòi hỏi phải xác định xem những tri
thức đó có sự chân thực hay không. Để nhằm mục đích có thể thực hiện được điều này thì
nhận thức nhất thiết sẽ cần phải trở về với thực tiễn, nhận thức phải dùng thực tiễn làm tiêu
chuẩn, làm thước đo đối với tính chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình
nhận thức. Không những thế, ta cũng thấy rằng, mọi nhận thức suy đến cùng thì cũng sẽ
đều cần phải là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại để có thể phục vụ thực tiễn.
-Thông qua đó, chúng ta cũng có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của
quá trình vận động, phát triển của nhận thức cụ thể đó là từ thực tiễn đến nhận thức, từ
nhận thức trở về với thực tiễn và từ thực tiễn cũng sẽ vẫn tiếp tục quá trình phát triển nhận
thức,… Trên thực tế thì quá trình này sẽ lặp đi lặp lại liên tục và sẽ không có điểm dừng
cuối cùng, thông thường thì trình độ của nhận thức và thực tiễn ở những chu kỳ sau thông
thường thì sẽ cao hơn khi thực hiện so sánh với chu kỳ trước, cũng chính vì vậy mà càng
ngày th quá trình nhận thức đạt dần tới những tri thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn
và có sự sâu sắc hơn về thực tại khách quan.
3. Hoạt động tự học của sinh viên V
iệt Nam hiện nay:
-Ứng dụng lý luận của Triết học Mác-Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý vào hoạt động tự học của sinh viên Việt Nam:
+Cần đào tạo con người một cách có chiều sâu lấy tư tương và chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng, cũng như trên thế giới ở nước ta chiến lược con người nó có một ý nghĩa
hết sức quan trọng và để phát triển đúng hướng chiến lược đó cần có một chính sách phát
triển con người, không để con người đi lệch tư tưởng.
+Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn dân, đưa loài người tới một kỷ
nguyên mới, mở ra nhiều khả năng để tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai con
đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước.
+Hoạt động tự học của sinh viên là một quá trình nhận thức, tiếp thu tri thức, rèn luyện
kỹ năng, phát triển năng lực của bản thân. Để hoạt động tự học đạt hiệu quả cao, sinh
viên cần vận dụng tốt lý luận của Triết học Mác-Lênin về con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý.
Cụ thể, sinh viên cần thực hiện tốt các yêu cầu sau:
Giai đoạn cảm tính: Sinh viên cần quan sát, tìm hiểu, thu thập thông tin về các sự
vật, hiện tượng. Thông tin cần thu thập phải đa dạng, phong phú, chính xác.
Giai đoạn lý tính: Sinh viên cần phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các thông tin
thu thập được để rút ra các kiến thức, quy luật chung.
Giai đoạn thực tiễn: Sinh viên cần vận dụng kiến thức, quy luật đã học vào thực
tiễn để giải quyết các vấn đề, phát triển bản thân.
Ngoài ra, sinh viên cần xây dựng kế hoạch tự học cụ thể, khoa học, phù hợp với trình độ
và năng lực của bản thân. Sinh viên cũng cần thường xuyên tự kiểm tra, đánh giá quá
trình tự học để kịp thời điều chỉnh, bổ sung.
Việc vận dụng tốt lý luận của Triết học Mác-Lênin về con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý sẽ giúp sinh viên Việt Nam nâng cao hiệu quả hoạt động tự
học, đạt được kết quả học tập tốt, phát triển toàn diện bản thân.