Quan điểm của Thuyết bất khả tri - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Thuyết bất khả tri (Tiếng Anh: agnosticism) là quan điểm triết học chorằng tính đúng hay sai của một số tuyên bố nhất định - đặc biệt là các tuyênbố thần học về sự tồn tại của Chúa Trời hay các vị thần - là chưa biết vàkhông thể biết được hay không mạch lạc. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

1.3. Quan điểm của Thuyết bất khả tri (Thuyết không thể biết)\
Thuyết bất khả tri (Tiếng Anh: agnosticism) quan điểm triết học cho
rằng tính đúng hay sai của một số tuyên bố nhất định - đặc biệt các tuyên
bố về sự tồn tại của thần học Chúa Trời hay các vị thần - chưa biết
không thể biết được hay không mạch lạc. Một số người theo thuyết bất khả
tri suy diễn từ đó rằng các tuyên bố đó không liên quan đến ý nghĩa cuộc
sống.
Bất khả tri không phủ nhận tuyệt đối những thực tại siêu nhiên hay những
thực tại do con người nhận thức được, nhưng tuy nhiên khẳng định rằng ý
thức của con người không thể đạt tới thực tại tuyệt đối hay thực tại như
vốn có, bởi mọi thực tại tuyệt đối đều nằm ngoài kinh nghiệm. chỉ phủ
định những khả năng không giới hạn của tri giác.
dụ, con người không thể biết mọi thứ. một hiện tượng nào đó nếu
chúng ta không sử dụng các giác quan để cảm nhận, đo lường thông tin về
sự vật, hiện tượng này hoặc con người thậm chí thể tiếp nhận các giác
quan do bên thứ ba tác động (một sự vật, hiện tượng) con người không
thể tìm thấy (được tìm thấy đây như một dạng biểu hiện hoặc một hiện
tượng triết học hiện đại) một yếu tố khoa học cần để giải thích thế
giới.
Thuật ngữ "bất khả tri" được đặt ra vào năm 1869 bởi Thomas Henry
Huxley (1826 - 1895) - nhà tự nhiên học người Anh, người được truyền cảm
hứng từ những ý tưởng triết học của David Hume (7 tháng 5 năm 1711 - 25
tháng 8 năm 1776 Immanuel Kant (22 tháng 4 năm 1724 - 12 tháng 2
năm 1804 Đại diện tiêu biểu cho các triết gia của “thuyết bất khả tri” còn có
Hume và Kant.
Quan niệm bất khả tri đã có trong triết học ngay từ thời Epicurus (341 – 270
Trước CN) khi ông đưa ra những luận thuyết chống lại quan niệm đương
thời về chân lý tuyệt đối. Nhưng phải đến Kant, bất khả tri mới trở thành học
thuyết triết học ảnh hưởng sâu rộng đến triết học, khoa học thần học
châu Âu.
Những người theo khả tri luận tin rằng, nhận thức một quá trình không
ngừng đi sâu khám phá bản chất của sự vật. Nhận thức là một quá trình phức
tạp; trong mỗi thời kỳ phát triển của nhận thức nhân loại, bất kỳ lĩnh vực tri
thức cụ thể nào cũng tính lịch sử, tính tương đối. Song đó không phải
căn cứ để phủ nhận chân tuyệt đối, hạn chế vai trò nhận thức của khoa
học.
1.4. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác
Các đại biểu của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác nhìn chung đều công nhận
khả năng nhận thức thế giới của con người. Họ đều coi thế giới khách quan
đối tượng của nhận thức con người. Họ bảo vệ nguyên tắc nhận thức
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người. Quan điểm nhất quán từ
xưa đến nay của các nhà triết học duy vật là thừa nhận sự tồn tại khách quan
của thế giới vật chất, lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật trong thời cổ đại: Thời cổ đại, đặc biệt Hy Lạp,
Trung Quốc và Ấn Độ, chủ nghĩa duy vật xuất hiện với quan niệm ngây thơ
về thế giới tự nhiên và sự vật. Các nhà triết học duy vật cũng có những quan
niệm rất khác nhau về vật chất,chẳng hạn: Thales (624 - 547 TCN) coi vật
chất nước; Anaximenes (585 - 524 TCN) coi vật chất không khí;
Heraclitus (540 - 480 TCN) coi vật chất là lửa; Democritus (460 - 370 TCN)
coi vật chất các nguyên tử; đất, nước, lửa, gió (Tứ đại - Ấn Độ); kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ (Ngũ hành - Trung Quốc). Một số trường hợp đặc biệt
quy vật chất (không chỉ vật chất thế giới) về những cái trừu tượng như
Không (Phật giáo), Đạo (Lão Trang).
Bước quan trọng nhất trong sự phát triển của phạm trù vật chất định
nghĩa về vật chất của hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại, Leucippus (Lescipo)
(khoảng 500 440 TCN) và Democritus (Democritus) (khoảng 460 370 TCN)
TCN tin rằng vật chất nguyên tử. Từ nguyên tử bắt nguồn từ tính từ
nguyên tử trong tiếng Hy Lạp cổ đại, có nghĩa "không thể phân chia".
Theo họ, nguyên tử hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác
biệt về chất, tồn tại vĩnh cửusự phong phú về hình thức, vị trí và cách
sắp xếp của chúng quyết định sự đa dạng của vạn vật. Theo thuyết
nguyên tử, vật chất theo nghĩa rộng nhất khái quát nhất không đồng
nghĩa với những vật thể con người thể trực tiếp nhận thức được,
một lớp rộng lớn các nguyên tố thể nhìn thấy độ sâu. Khái
niệm này không chỉ thể hiện một bước tiến khá xa của các nhà triết học
duy vật trong việc tìm kiếm một định nghĩa đúng đắn về vật chất,
còn có ý nghĩa như một dự báo khoa học về sự khéo léo của con người về
cấu trúc của thế giới vật lý nói chung.
Do tính chất trực quan, chủ nghĩa duy vật trước C. Mác hiểu sự phản ánh chỉ
sự tiếp nhận thụ động một chiều những tác động trực tiếp của sự vật lên
giác quan của con người. Các nhà duy vật trước C. Mác chưa hiểu vai trò
của thực tiễn trong nhận thức. Vì vậy, C. Mác đã viết: “Khuyết điểm chủ yếu
của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của
Phoi-ơ-bắc - sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức
dưới hình thức hay hình thức , chứ không được nhậnkhách thể trực quan
thức , , không được nhậnhoạt động cảm giác của con người thực tiễn
thức về mặt chủ quan”.
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XV - XVIII mặcđã có những giai đoạn phát
triển nhưng những ý tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm vật chất,
nhưng quan niệm này của các nhà triết học duy vật thời kỳ này về bản
vẫn mang tính chất máy móc, đó khuynh hướng đồng nhất vật chất với
nguyên tử hoặc với khối lượng. Thuyết nguyên tử vẫn được các nhà triết
học, nhà khoa học tự nhiên thời kỳ Phục hưngđầu thời kỳ cận đại (thế
kỷ XV - XVIII) như Galilei , Bacon, Hobbes, Spinoza, Holbach, Diderot,
Newton ... tiếp tục nghiên cứu khẳng định lập trường duy vật. Đặc biệt,
những thành tựu đáng kinh ngạc của Newton trong vật cổ điển (nghiên
cứu cấu trúc tính chất của các đối tượng vật từ nguyên tử trở
lên) thực nghiệm khoa học vật chứng minh sự tồn tại thực sự của
nguyên tử càng củng cố thêm quan điểm trên.
Tuy nhiên, chưa thoát khỏi phương thức tưởng siêu hình, nhìn chung các
nhà triết học duy vật thời cận đại vẫn chưa thể đưa ra những khái quát triết
học đúng đắn. Cũng bởi bản chất siêu hình của mình, chủ nghĩa duy vật
trước Mác hiểu rằng phản ánh chỉ là một bản sao đơn giản.
Các đại biểu của chủ nghĩa duy vật trước C. Mác nhìn chung đều công nhận
khả năng nhận thức thế giới của con người. Họ đều coi thế giới khách quan
đối tượng của nhận thức con người. Họ bảo vệ nguyên tắc nhận thức
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người. Tuy nhiên, quan niệm của
họ về phản ánh và nhận thức còn có những hạn chế.
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước triết học Mác - Lênin
đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận
thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy được vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức.
| 1/3

Preview text:

1.3. Quan điểm của Thuyết bất khả tri (Thuyết không thể biết)\
Thuyết bất khả tri (Tiếng Anh: agnosticism) là quan điểm triết học cho
rằng tính đúng hay sai của một số tuyên bố nhất định - đặc biệt là các tuyên
bố thần học về sự tồn tại của Chúa Trời hay các vị thần - là chưa biết và
không thể biết được hay không mạch lạc. Một số người theo thuyết bất khả
tri suy diễn từ đó rằng các tuyên bố đó không liên quan đến ý nghĩa cuộc sống. 
Bất khả tri không phủ nhận tuyệt đối những thực tại siêu nhiên hay những
thực tại do con người nhận thức được, nhưng tuy nhiên khẳng định rằng ý
thức của con người không thể đạt tới thực tại tuyệt đối hay thực tại như nó
vốn có, bởi vì mọi thực tại tuyệt đối đều nằm ngoài kinh nghiệm. chỉ phủ
định những khả năng không giới hạn của tri giác. 
Ví dụ, con người không thể biết mọi thứ. Có một hiện tượng nào đó nếu
chúng ta không sử dụng các giác quan để cảm nhận, đo lường thông tin về
sự vật, hiện tượng này hoặc con người thậm chí có thể tiếp nhận các giác
quan do bên thứ ba tác động (một sự vật, hiện tượng) mà con người không
thể tìm thấy (được tìm thấy ở đây như một dạng biểu hiện hoặc một hiện
tượng triết học hiện đại) một yếu tố mà khoa học cần để giải thích thế giới. 
Thuật ngữ "bất khả tri" được đặt ra vào năm 1869 bởi Thomas Henry
Huxley (1826 - 1895) - nhà tự nhiên học người Anh, người được truyền cảm
hứng từ những ý tưởng triết học của David Hume (7 tháng 5 năm 1711 - 25
tháng 8 năm 1776 và Immanuel Kant (22 tháng 4 năm 1724 - 12 tháng 2
năm 1804 Đại diện tiêu biểu cho các triết gia của “thuyết bất khả tri” còn có Hume và Kant. 
Quan niệm bất khả tri đã có trong triết học ngay từ thời Epicurus (341 – 270
Trước CN) khi ông đưa ra những luận thuyết chống lại quan niệm đương
thời về chân lý tuyệt đối. Nhưng phải đến Kant, bất khả tri mới trở thành học
thuyết triết học có ảnh hưởng sâu rộng đến triết học, khoa học và thần học châu Âu. 
Những người theo khả tri luận tin rằng, nhận thức là một quá trình không
ngừng đi sâu khám phá bản chất của sự vật. Nhận thức là một quá trình phức
tạp; trong mỗi thời kỳ phát triển của nhận thức nhân loại, bất kỳ lĩnh vực tri
thức cụ thể nào cũng có tính lịch sử, tính tương đối. Song đó không phải là
căn cứ để phủ nhận chân lý tuyệt đối, hạn chế vai trò nhận thức của khoa học.
1.4. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác
Các đại biểu của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác nhìn chung đều công nhận
khả năng nhận thức thế giới của con người. Họ đều coi thế giới khách quan
là đối tượng của nhận thức con người. Họ bảo vệ nguyên tắc nhận thức là
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người. Quan điểm nhất quán từ
xưa đến nay của các nhà triết học duy vật là thừa nhận sự tồn tại khách quan
của thế giới vật chất, lấy bản thân giới tự nhiên để giải thích tự nhiên. 
Chủ nghĩa duy vật trong thời cổ đại: Thời cổ đại, đặc biệt là ở Hy Lạp,
Trung Quốc và Ấn Độ, chủ nghĩa duy vật xuất hiện với quan niệm ngây thơ
về thế giới tự nhiên và sự vật. Các nhà triết học duy vật cũng có những quan
niệm rất khác nhau về vật chất,chẳng hạn: Thales (624 - 547 TCN) coi vật
chất là nước; Anaximenes (585 - 524 TCN) coi vật chất là không khí;
Heraclitus (540 - 480 TCN) coi vật chất là lửa; Democritus (460 - 370 TCN)
coi vật chất là các nguyên tử; đất, nước, lửa, gió (Tứ đại - Ấn Độ); kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ (Ngũ hành - Trung Quốc). Một số trường hợp đặc biệt
quy vật chất (không chỉ vật chất mà thế giới) về những cái trừu tượng như
Không (Phật giáo), Đạo (Lão Trang). 
Bước quan trọng nhất trong sự phát triển của phạm trù vật chất là định
nghĩa về vật chất của hai nhà triết học Hy Lạp cổ đại, Leucippus (Lescipo)
(khoảng 500 440 TCN) và Democritus (Democritus) (khoảng 460 370 TCN)
TCN tin rằng vật chất là nguyên tử. Từ nguyên tử bắt nguồn từ tính từ
nguyên tử trong tiếng Hy Lạp cổ đại, có nghĩa là "không thể phân chia".
Theo họ, nguyên tử là hạt nhỏ nhất, không thể phân chia, không khác
biệt về chất, tồn tại vĩnh cửu và sự phong phú về hình thức, vị trí và cách
sắp xếp của chúng quyết định sự đa dạng của vạn vật. Theo lý thuyết
nguyên tử, vật chất theo nghĩa rộng nhất và khái quát nhất không đồng
nghĩa với những vật thể mà con người có thể trực tiếp nhận thức được,
mà là một lớp rộng lớn các nguyên tố có thể nhìn thấy ở độ sâu. Khái
niệm này không chỉ thể hiện một bước tiến khá xa của các nhà triết học
duy vật trong việc tìm kiếm một định nghĩa đúng đắn về vật chất, mà nó
còn có ý nghĩa như một dự báo khoa học về sự khéo léo của con người về
cấu trúc của thế giới vật lý nói chung. 
Do tính chất trực quan, chủ nghĩa duy vật trước C. Mác hiểu sự phản ánh chỉ
là sự tiếp nhận thụ động một chiều những tác động trực tiếp của sự vật lên
giác quan của con người. Các nhà duy vật trước C. Mác chưa hiểu vai trò
của thực tiễn trong nhận thức. Vì vậy, C. Mác đã viết: “Khuyết điểm chủ yếu
của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả chủ nghĩa duy vật của
Phoi-ơ-bắc - là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức
dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận
thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được nhận
thức về mặt chủ quan”. 
Chủ nghĩa duy vật thế kỷ XV - XVIII mặc dù đã có những giai đoạn phát
triển nhưng những ý tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm vật chất,
nhưng quan niệm này của các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản
vẫn mang tính chất máy móc, đó là khuynh hướng đồng nhất vật chất với
nguyên tử hoặc với khối lượng. Thuyết nguyên tử vẫn được các nhà triết
học, nhà khoa học tự nhiên ở thời kỳ Phục hưng và đầu thời kỳ cận đại (thế
kỷ XV - XVIII) như Galilei , Bacon, Hobbes, Spinoza, Holbach, Diderot,
Newton ... tiếp tục nghiên cứu và khẳng định lập trường duy vật. Đặc biệt,
những thành tựu đáng kinh ngạc của Newton trong vật lý cổ điển (nghiên
cứu cấu trúc và tính chất của các đối tượng vật lý vĩ mô từ nguyên tử trở
lên) và thực nghiệm khoa học vật lý chứng minh sự tồn tại thực sự của
nguyên tử càng củng cố thêm quan điểm trên. 
Tuy nhiên, chưa thoát khỏi phương thức tư tưởng siêu hình, nhìn chung các
nhà triết học duy vật thời cận đại vẫn chưa thể đưa ra những khái quát triết
học đúng đắn. Cũng bởi bản chất siêu hình của mình, chủ nghĩa duy vật
trước Mác hiểu rằng phản ánh chỉ là một bản sao đơn giản. 
Các đại biểu của chủ nghĩa duy vật trước C. Mác nhìn chung đều công nhận
khả năng nhận thức thế giới của con người. Họ đều coi thế giới khách quan
là đối tượng của nhận thức con người. Họ bảo vệ nguyên tắc nhận thức là
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người. Tuy nhiên, quan niệm của
họ về phản ánh và nhận thức còn có những hạn chế.
Như vậy có thể nói, tất cả các trào lưu triết học trước triết học Mác - Lênin
đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận
thức chưa được giải quyết một cách khoa học, đặc biệt chưa thấy được vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức.