-
Thông tin
-
Quiz
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105) 512 tài liệu
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:














Tài liệu khác của Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ====***====
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con
người và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập và rèn
luyện của sinh viên.” Họ và tên : Mã số sinh viên : Lớp TC
: Triết học Mác - Lênin GV hướng dẫn : TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội, tháng 05 năm 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN ====***====
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người
và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên.”
Hà Nội, tháng 05 năm 2022 2 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................4
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CỦA
CON NGƯỜI..................................................................................................5
1. QUAN ĐIỂM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI CỦA NHỮNG NHÀ
TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC..........................................................................5
2. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.......................5
2.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội..................................................6
2.2. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội........................7
2.3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử.......8
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LEENIN VỀ
BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU,
HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN.........................................10
KẾT LUÂUN....................................................................................................13 3 LỜI MỞ ĐẦU
Con người là một khách thể hết sức phong phú được rất nhiều ngành
khoa học nghiên cứu như sinh vật học, tâm lý học, xã hội học, y học,…Mỗi
khoa học có cách tiếp cận và phương pháp giải quyết khác nhau về vấn đề con
người, song chủ đề về bản chất con người vẫn luôn là một vấn đề mới mẻ,
phức tạp đáng để ta phân tích và bàn luận chi tiết cụ thể dưới nhiều góc độ.
Triết học với tư cách là “khoa học của mọi ngành khoa học”, có đối tượng
nghiên cứu là những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội nên vấn đề về
“Bản chất con người” được nghiên cứu một cách bao quát và đầy đủ nhất.
Trong chiều dài của bánh xe lịch sử, con người dần khám phá được
hàng trăm nghìn những điều mới lạ trong và ngoài Trái đất. Chúng ta say mê
tìm kiếm những điều kì bí của vạn vật xung quanh mà đôi khi quên mất rằng
bản chất con người là một sinh vật kì bí hơn cả. Vấn đề về con người đã được
nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý
nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con người. Hơn bất cứ một lĩnh
vực nào khác, lĩnh vực triết học lại có nhiều mâu thuẫn trong quan điểm, nhận
thức và nó đã gây nên sự đấu tranh không biết khi nào dừng. Những lập
trường chính trị trình độ nhận thức và tâm lý của những người nghiên cứu
khác nhau và do đó đã đưa ra những tư tưởng hướng giải quyết khác nhau.
Tùy theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại, cách tiếp cận khác nhau mà các
trường phái, các nhà triết học phát hiện và đóng góp vào việc lý giải con
người. Tuy nhiên, các quan điểm trước Mác và mácxít còn tồn tại cách nhìn
phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con
người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu
tượng về bản chất con người và phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con
người. Chỉ đến khi Triết học Mác - Lênin được ra đời, vấn đề con người mới
được xem xét một cách nhất quán, đầy đủ và sâu sắc hơn, trên cơ sở lập
trường của duy vật triệt để. Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con
người, em đã chọn đề tài: “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất
con người và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên.”. 4
I. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI
1. QUAN ĐIỂM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI CỦA NHỮNG NHÀ
TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC
Các nhà triết học cổ điển Đức trước kia nói chung, từ Cartơ đến
Heghen nói riêng đã phát triển quan điểm triết học về con người theo hướng
của chủ nghĩa duy tâm. Heghen quan niệm con người là sản phẩm của ý niệm,
tức là con người do thần thánh hoặc thượng đế sinh ra, cuộc sống con người
do đấng tối cao sắp đặt. Đối lập với Heghen, Phơbách lại đưa ra quan điểm
duy vật, cho rằng con người không phải là nô lệ của thượng đế hay tinh thần
tuyệt đối, mà là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển của
tự nhiên, là cái cao quý nhất mà giới tự nhiên có. Ông đã sử dụng thành tựu
của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư
duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải
thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì Phơbách lại rơi vào lập
trường của chủ nghĩa duy tâm.
Các quan niệm nói trên đều tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác
con người, tuyệt đối hóa mặt sinh học mà không thấy mặt xã hội của con
người. Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế đó, đồng
thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong các học thuyết triết
học trước đây để đưa ra quan niêm về bản chất con người.
2. QUAN ĐIỂM CỦA MÁC VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học. Với Triết học Mác-Lênin, lần đầu tiên vấn đề con người được giải quyết
một cách đúng đắn trên quan điểm biện chứng duy vật. Theo C.Mác, con
người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ cao nhất của giới tự nhiên và
lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả thành tựu của văn minh và văn hóa1.
1 Theo Giáo trình Triếết h c Mác- Lếnin ọ
, GS.TS. Phạm Văn Đức chủ biên, tr.247 5
2.1. Con người là thực thể sinh học – xã hội
Dựa trên kết quả của những thành tựu của khoa học tự nhiên, triết học
Mác khẳng định: Con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự
nhiên, vừa là sản phẩm hoạt động chính của bản thân con người. Con người
hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Là thực thể
sinh học, con người là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên
(theo thuyết tiến hóa của Đác-Uyn). Vì con người là sản phẩm của quá trình
tiến hóa tự nhiên nên con người là một bộ phận tất yếu, không tách rời của
giới tự nhiên. Ph.Ăngghen cho rằng : “Bản thân cái sự kiện là con người từ
loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn
toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”2. Hay nói cách khác,
tiền đề vật chất đầu tiên quyết định cho sự tồn tại của con người là giới tự nhiên.
Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên
cũng là “thân thể vô cơ của con người”. Con người tồn tại được trước tiên
phải có cơ thể sống, trong khi đó, cơ thể sống là một bộ phận của tự nhiên, là
sản phẩm của sự tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Mặt khác, con người phải
đấu tranh để sinh tồn và chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên, các quy
luật sinh học (Ví dụ: quy luật sinh tử, quy luật về quan hệ giữa cơ thể và môi
trường, quy luật dinh dưỡng, quy luật di truyền và biến dị, quy luật đồng hóa,
dị hóa... ). Tuy nhiên, con người không chỉ sống dựa vào tư nhiên mà còn cải
biến tự nhiên dựa trên các quy luật khách quan, đây cũng là một trong những
điểm đặc biệt để phân biệt con người với các loài vật khác.
Tuy nhiên, chúng ta không được tuyệt đối hóa điều đó. Các đặc tính
sinh học, bản năng sinh học hay sự sinh tồn thể xác không phải là những cái
duy nhất quy định bản chất con người, mà chúng ta còn phải nhắc đến phương
diện xã hội. Bởi lẽ, đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế
giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Con người là một thực thể xã hội
có các hoạt động xã hội mà điển hình chính là hoạt động lao động. Chính nhờ
lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và
2 Theo C.Mác và Ph.Angghen (1994), Toàn tập, t.20. Sdd. Tr.146 6
phát triển thành người. Con người sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải
tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Vì vậy,
ta hoàn toàn có thể khẳng định: Lao động là điều kiện kiên quyết, cần thiết và
chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người. Mặt khác, tính
xã hội của con người chỉ có trong “xã hội loài người”, con người không thể
tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật.
Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội không chỉ phục vụ
cho con người mà còn cho xã hội như ngôn ngữ giao tiếp, lương tâm, ý thức
con người,…. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự
thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân là tiền đề cho
sự phát triển của xã hội.
Con người là một chỉnh thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội.
Hai mặt này vừa đối lập nhau, vừa quy định ràng buộc và làm tiền đề cho
nhau, trong đó mặt tự nhiên quyết định sự tồn tại của con người, còn mặt xã
hội quyết định bản chất con người.
2.2. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người
vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự
nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối
quan hệ đó, suy cho cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa
người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và
mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu
lên một mệnh đề nổi tiếng Luận cương về Phơ-bách: "Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội3”.
Luận đề trên khằng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác
định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất
3 C.Mác và Ph.Angghen (1995). Toàn tậ p, t.3, Nxb. Chính tr Quốốc gia, H ị à Nộ i, tr.11 7
định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể
lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan
hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia
đình, xã hội) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận điểm trên khắng định bản chất xã hội không có
nghĩa là phủ định mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó
muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết
là ở bản chất xã hội và đấy cũng là để khắc phục thiếu sót của các nhà triết
học trước Mác không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái
bản chất với ý nghĩa là cái phổ biển, cái mang tính quy luật chứ không thể là
cái duy nhất; do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng phong phú và đa
dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích của mỗi cá nhân
trong cộng đồng xã hội.
2.3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Không có thế giới tự
nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy con người
là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều
quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
C.Mác đã khằng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người
là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục, cái học thuyết ấy quên
rằng chính bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác
phẩm Biện chứng của tự nhiên. Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có
một lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của
chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà
chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không
hề biết và cũng không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại,con người càng
cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại
càng tự mình làm ra lịch sử một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội, con người hoạt động thực
tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận 8
động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện
có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của
mình để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai
theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biển tự nhiên, con người cũng
làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ
thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người, vừa là phương thức để
làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch
sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã
hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người
đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã
hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài nguòi.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Do vậy, bản chất con người,
trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi,
cũng phải thay đổi cho phù họp. Bản chất con người không phải là một hệ
thống đóng kín, mà là một hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của
con người. Mặc dù là “tổng hòa các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích
cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản
chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng mỗi sự
vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng với sự vận động và
biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải
làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó
chính là toàn bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo
khuynh hưóng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có
ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông qua đó con người tiếp cận hoàn cảnh một
cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau:
hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử , hành vi con người, sự phát triển của
phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người
và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người. 9
II. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC LEENIN VỀ
BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI TRONG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU,
HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN.
Thứ nhất, sinh viên cần hình thành lối sống lành mạnh, cần thiết lập
đồng hồ sinh học hợp lý, xen lẫn học tập, nghiên cứu với rèn luyện sức khỏe,
tu dưỡng phẩm chất đạo đức để phát triển một cách toàn diện về cả thể chất
lẫn trí tuệ, tinh thần. Đặc biệt đối với sinh viên năm nhất mới làm quen với
cuộc sống Đại học tự do, thoải mái, chủ động nhưng cũng đầy rẫy khó khăn
và cạm bẫy, sinh viên cần làm chủ chính bản thân mình, tránh rơi vào trạng
thái buông thả, chạy theo những ham muốn tầm thường của bản năng. Từ
thực trạng đáng buồn là ngoài thời gian trên lớp thì khi đã về nhà, thời gian
học tập một cách tự giác của sinh viên là rất hạn chế. Vậy họ lãng phí thời
gian đó vào việc gì, có nghìn lẻ một lý do cho câu hỏi trên: Ngủ, Sinh nhật, Đi
chơi, Đi shopping và thậm chí là những việc không lành mạnh khác. Do đó
khi ngồi vào bàn học là chân tay rã rời, hoa mắt, mệt mỏi và chẳng mấy chốc
là không thể cưỡng lại cơn buồn ngủ ập đến. Bao nhiêu kiến thức họ tích luỹ
được trên lớp không có cơ hội được củng cố. Bài học rút ra ở đây là cần phải
sắp xếp thời gian giữa học tập và các hoạt động khác trong đó thời gian dành
cho học tập phải chiếm đa số và chúng ta cần phải tuân thủ chặt chẽ thời gian
biểu đó. Bên cạnh việc sắp xếp thời gian học tập, sinh viên cũng cần tích cực
tham gia các môn thể dục thể thao, tích cực tham gia các hoạt động ngoại
khóa của trường, lớp để tăng cường thể chất và phát triển các kĩ năng mềm
của bản thân, từ đó làm tiền đề để sau này trở thành một công dân toàn diện,
đóng góp cho sự tiến bộ chung của toàn xã hội.
Thứ hai, để sinh viên phát huy được năng lực sáng tạo của mình thì phụ
thuộc vào nhiều yếu tố; đặc biệt là môi trường, điều kiện, hoàn cảnh. Con
người là một thành viên, là một tế bào của xã hội. Con người sẽ phát triển tốt
khi được ở trong một môi trường điều kiện xã hội tốt, nhưng môi trường điều
kiện xã hội không tự nhiên xuất hiện mà nó là kết quả hoạt động của con
người. Ở đây, nếu nói một cách biện chứng, cần phải kết hợp những điều kiện
khách quan và phát huy vai trò những nhân tố chủ quan để tạo ra động lực
cho sinh viên phát huy năng lực sáng tạo của bản thân. Trên lớp cần đổi mới 10
cả cách giảng dạy của giảng viên và cách tiếp thu của sinh viên, chúng ta cần
thẳng thắn loại bỏ phương pháp học đọc–chép truyền thống rất dễ gây nhàm
chán cho cả người dạy và người học. Chúng ta cần có thêm nhiều sự trao đổi,
thảo luận giữa các sinh viên và giữa sinh viên với giảng viên để biến cách học
một chiều thành cách học hai chiều có hiệu quả hơn, từ đó sinh viên có nhiều
cơ hội để thể hiện bản thân, phát huy tính chủ động, năng động và sáng tạo
trong quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện.
Cuối cùng,“ Trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hòa các
mối quan hệ xã hội.”. Bởi vậy, đặt trong mối quan hệ với giảng viên và bạn bè
đồng trang lứa, sinh viên cần tạo dựng những mối quan hệ tốt đẹp, lành mạnh;
kết nối giữa bản thân với thầy cô và bạn bè để cùng nhau hoàn thiện và tiến
bộ. Sinh viên cần phải mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình, cần thẳng thắn
trao đổi và bàn luận với bạn bè, với giảng viên. Cần đối chiếu lập trường,
quan điểm của mình với mọi người để tìm ra cái đúng, cái sai trong nhận thức
về vấn đề bàn luận, luôn chính kiến để giải quyết mâu thuẫn trong mối quan
hệ với những người xung quanh. Bên cạnh đó, tránh khuynh hướng đề cao
quá mức cá nhân, nâng cao ý thức tập thể; đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích
chung, luôn biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân.
Thời đại ngày nay, bên cạnh những sinh viên có tư duy độc lập thì vẫn
tồn tại không ít những cá nhân thiếu lập trường, sống “thuận theo chiều gió”.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là cách sống buông thả.
Để rồi theo thời gian, những nếp nghĩ lười nhác sẽ ăn mòn ý chí, dập tắt đam
mê, đẩy con người rơi vào vòng luẩn quẩn thụ động. Một khi hàng rào kỉ luật
bị phá vỡ, sinh viên rất dễ bị ảnh hưởng bởi các tác động tiêu cực. Thực tế
khốc liệt chứng minh cho ta thấy, hàng loạt các vụ thảm sát đã xảy ra: bạn bè
thuê người giết nhau để bán nội tạng, học sinh đâm chết giáo viên tại trường
học hay thậm chí con cái thẳng tay với bố mẹ chỉ vì lấy tiền hút ma túy,…
Thật đau đớn, xót xa thay! Nhưng không dừng lại ở đó, với sự nhảy vọt của
mạng xã hội, con người ta còn mù quáng giẫm đạp lên nhau bằng những ngôn
từ rỉ máu. Hãy thử nhìn lại con người trước Cách mạng Tháng Tám, ngay sau
khi bị vùi dập mất hết cả nhân hình, nhân tính, đến mức trở thành con quỷ dữ 11
của làng Vũ Đại nhưng chỉ cần tình thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị
Nở, chỉ cần hơi rượu tan biến là Chí Phèo sống lại khát vọng hoàn lương.
Phẩm chất “người” đâu đó vẫn âm ỉ chờ ngày bùng cháy mãnh liệt, và khi nó
bùng cháy lên thì không có lý do nào khiến hắn cam lòng trở lại làm quỷ dữ
được nữa! Bị cướp đoạt quyền sống, bị bần cùng đến mức tha hóa nhưng Chí
Phèo sẵn sàng hủy hoại mạng sống của mình để được chết như một con
người. Vậy thì tại sao với những điều kiện đầy đủ như hiện nay, chúng ta, đặc
biệt là thế hệ sinh viên trẻ tuổi, lại đối xử một cách tàn nhẫn với nhau như
vậy? Bỗng vang lên trong đầu tôi tiếng thét phẫn uất “Ai cho ta lương thiện?”.
Sâu thẳm bên trong, tôi có niềm tin rằng chủ nhân của sự lương thiện chính là
mỗi con người chúng ta.“Nhân bất thập toàn”, là con người không ai hoàn hảo
cả, điều đáng quý là ta biết nhìn vào những khuyết điểm, lỗi lầm của mình để
sửa đổi. Lịch sử qua đi, hoàn cảnh biến động, bản chất biến đổi nhưng biến
đổi ra sao là do bạn quyết định. Phật giáo có câu: “Pháp học, Pháp hành, nhân
cách, đạo đức”. Là một sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, thế hệ chúng
em ý thức được rằng song song với việc trau dồi kiến thức, phải luôn bồi
dưỡng nhân cách, rèn luyện đạo đức. Không ngừng gìn giữ và lan truyền
những giá trị tốt đẹp vì bản thân, vì gia đình, vì xã hội, và vì một Việt Nam thân yêu! 12 KẾT LUÂUN
Trong tất cả những nghiên cứu về bản chất con người cho đến thời
điểm hiện tại thì quan điểm triết học Mác-Lênin đã giải quyết vấn đề một
cách đúng đắn và đầy đủ nhất trên quan điểm biên chứng duy vật. Theo ông,
con người là thực thể sinh học-xã hội; là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Song trong đời sống xã hội, khi xem xét con người phải đặt nó trong tổng thể
các quan hệ xã hội, bởi “ Trong tính hiện thực, bản chất con người là tổng hòa
các mối quan hệ xã hội.” Con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch
sử. Để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng
phát triển nhằm đạt tới các giátrị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục.
Quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con người mang lại ý nghĩa
vô cùng to lớn trên nhiều phương diện. Nghiên cứu về vấn đề này, con người
sẽ tiến gần hơn một bước trong việc khám phá về chính mình, từ đó ứng dụng
vào đời sống ở những lĩnh vực khác nhau như: chính trị, kinh tế, xã hội,…..
Hiểu rõ hơn về bản chất của bản thân và những mối quan hệ liên quan , con
người sẽ biết tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp với những mối quan hệ
đó, từ đó có động lực phát triển bản thân nói riêng cũng như cộng đồng, xã
hội nói chung bền vững đi lên. TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
(1) GS.TS. Phạm Văn Đức chủ biên > Giáo trình Triết học Mác- Lênin >
NXB Bản Chính Trị Quốc Gia Sự Thật > Hà Nội – 2019.
(2) Đồng chủ biên GS, TS. Nguyễn Ngọc Long – GS, TS. Nguyễn Hữu Vui >
Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dùng trong các trường đại học cao đẳng) >
NXB Chính trị Quốc gia > Hà Nội, tháng 7 năm 2006.
(3) Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập > C.Mác và
Ph.Angghen Toàn tập, tập 3 > NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật > 1995.
(4) Hội đồng xuất bản C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập > C.Mác và
Ph.Angghen Toàn tập, tập 3 > NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật > 1994. 14