Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và bản chất con người. Ý nghĩa của việc nghiên cứu con người đối với xã hội và bản thân | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

Triết học là một trong những môn khoa học rất quan trọng trên toàn thế giới nói chung và quan trọng với sinh viên Việt Nam nói riêng. Chính vì thế, việc hiểu được ý nghĩa và sự ảnh hưởng của Triết học Mác – Lênin đến mỗi con người là một vấn đề quan trọng và cấp thiết. Việc tìm hiểu và nghiên cứu về những ảnh hưởng và ý nghĩa của Triết học Mác – Lênin đến với con người...Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và bản
chất con người. Ý nghĩa của việc nghiên cứu con người đối
với xã hội và bản thân.
Tiểu luận cuối kì
(Môn học: Triết học Mác – Lênin)
BUỔI: SÁNG THỨ 4 TIẾT 1 – 3
NHÓM THỰC HIỆN: CARBON
HỌC KÌ: 1 – NĂM HỌC: 2023 – 2024
GVHD: ThS. Trần Ngọc Chung
TP.HỒ CHÍ MINH – 11/2023
DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
STT Họ tên
SV
Mã số SV Sự
nhiệt
tình và
nghiêm
túc
Đóng
góp ý
tưởng
Tổ
chức,
quản
nhóm
Làm
việc
nhóm
Tính
hiệu
quả
TỔNG
ĐIỂM
(điểm
tối đa
10đ)
tên
1
Nguyễn
Trần
Minh
Tâm
23145192 2 2 2 2 2 10
2
Trần
Ngọc
Minh
Quân
23144146 3 2 1 2 2 10
3
Nguyễn
Quang
Minh
Thuận
23145208 1 2 2 2 3 10
VÀ BẢNG ĐIỂM TỰ ĐÁNH GIÁ CHO TỪNG THÀNH VIÊN
Quy cách chấm điểm
3 = tốt hơn các thành viên khác trong
nhóm
2 = tương đương với mức độ trung bình
của nhóm
1 = dưới mức trung bình của nhóm
0 = không tham gia và giúp gì cho nhóm
-1 = là trở ngại đối với nhóm
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Ngọc Chung
ĐIỂM TIỂU LUẬN: ……………………………………..
NHẬN XÉT CỦA GV:
…………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………..
GV ký tên
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài:
Triết học là một trong những môn khoa học rất quan trọng trên toàn thế giới
nói chung và quan trọng với sinh viên Việt Nam nói riêng. Chính vì thế, việc
hiểu được ý nghĩa và sự ảnh hưởng của Triết học Mác – Lênin đến mỗi con
người là một vấn đề quan trọng và cấp thiết.
Việc tìm hiểu và nghiên cứu về những ảnh hưởng và ý nghĩa của Triết học
Mác – Lênin đến với con người sẽ giúp mọi người hiểu được tầm quan trọng và
ý nghĩa của việc nghiên cứu về con người để từ đó hiểu về vai trò to lớn của
Triết học Mác – Lênin đối với xã hội và con người.
Đề tài được lựa chọn dựa trên nhận thức về tính cấp thiết và áp lực từ thực tế
cuộc sống. Chúng tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu con người là cần thiết và
cần khẳng định vai trò cũng như sự cần thiết đối với cuộc sống.
Một trong những lí do khác để cần thiết phải tìm hiểu về ý nghĩa của việc
nghiên cứu con người là vì sự bất đồng quan điểm của một số người về sự cần
thiết và tính ứng dụng thực tiễn của Triết học Mác – Lênin.
Chính vì những lý do trên, nhóm chúng tôi đã chọn nghiên cứu chủ đề “Quan
điểm của triết học Mác – Lênin về con người và bản chất con người. Ý nghĩa
của việc nghiên cứu con người đối với xã hội và bản thân”.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu chung là trình bày những quan điểm của Triết học Mác Lênin về
con người và tầm quan trọng của việc nghiên cứu về con người
Trang 1
CHƯƠNG 1:
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ
BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1.1: Khái niệm về con người
Con người một thực thể tự nhiên mang đặc tính hội sự thống nhất biện chứng
giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành,
tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên là một
trong những phương diện bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu,
khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên nguồn gốc tự nhiên của con người sở
khoa học quan trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản
thân mình trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại
1.1.1: Bản tính tự nhiên của con người
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
+ Thứ nhất: con người kết quả của quá trình tiến hóa phát triển lâu dài của giới tự
nhiên. sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển
của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến
hóa của các loài.
+ Thứ hai: con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là
thân thể của con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên tác động của
quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người
hội loài người, môi trường trao đổi vật chất giữa con người giới tự nhiên;
ngược lại, sự biến đổi vàhoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại
môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính mối quan hệ biện chứng
giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. Tuy nhiên,
con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội
bởi vì mỗi con người với cách "người" chính xét trong mối quan hệ của các cộng
đồng hội, đó các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại....
vậy, bản tính hội nhất định phải một phương diện khác của bản tính con người, hơn
nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
1.1.2: Bản tính xã hội của con người
Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:
+ Một xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ cónguồn gốc từ
sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước
Trang 2
Trang 3
hóa sinh học các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người một bộ phận đặc
biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại thể biến đổi giới tự nhiên chính bản
thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính điểm khác biệt đặc biệt, rất
quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể xác, con người sống
bằng những sản phẩm tự nhiên, dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà
ở, v.v… . Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có
quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên “thân thể
cơ của con người”. Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên,
hòa hợp với giới tự nhiên mới thể tồn tại phát triển. Quan điểm này nền tảng
luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh
thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay.
Con người còn một thực thể hội các hoạt động hội. Hoạt động hội quan
trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất thể bằng
lao động thoát khỏi trạng thái thuần túy loài vật” . Nếu convật phải sống dựa hoàn
toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng lao
động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu
của mình. Nhờ lao động sản xuất mà con người về mặt sinh học thể trở thành thực
thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử tính tự nhiên”, tính, “bản năng xã hội”.
Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con người trở
thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động điều kiện kiên quyết, cần thiết chủ
yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn
phương diện xã hội.
Trong hoạt động con người không chỉcác quan hệ lẫn nhau trong sản xuất, còn
hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển phong phú, đa
dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến cùng, là sản phẩm
của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội của con người chỉ
trong “xã hội loài người”, con người không thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm
cho con người khác với con vật. Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội
không chỉ phục vụcho con người còn cho hội, khác với hoạt động của con vật chỉ
phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của nó. Hoạt động giao tiếp của con
ngườiđã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao
động và giao tiếp xã hội với nhau. Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ
xuất hiện phát triển. Ngôn ngữ duy của con người thể hiện tập trung nổi trội
tính xã hội của con người, là một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người
một thực thể hội. Chính vậy, khác với con vật, con người chỉ thể tồn tại phát
triển trong xã hội loài người
Trang 4
1.2.2: Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời,
lại chủ thể của lịch sử bởi lao động sáng tạo thuộc tính hội tối cao của con
người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác với
lịch sử động vật. Lịch sử của động vật là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần
dần của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do
chúng làm ra, trong chừng mực chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy, thì
điều đó diễn rachúng không hề biết không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại,
con người càng cách xa con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu, thì con người
lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu. Hoạt động lịch sử
đầu tiên khiến con người tách khỏi con vật, ý nghĩa sáng tạo chân chính hoạt động
chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động
con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn
hội. Chính thời điểm đó con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch
sử” bản chất của con người, nhưng con người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý
muốn tùy tiện của mình,phải dựa vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước
để lại trong những hoàn cảnh mới. Con người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên
các tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ trước để lại, mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động
mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào
thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con người tạo ra lịch
sử cho đến nay con người luôn chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn sản phẩm của
lịch sử.
Con người tồn tại phát triển luôn luôn trong một hệ thống môi trường xác
định. Đó toàn bộ điều kiện tự nhiên hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần,
quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người hội. Đó những điều
kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Một
mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải quan hệ với
giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn lực của tự
nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình. Mặt khác, một bộ
phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật của tự nhiên, tuân theo các
quá trình tự nhiên như học,vật lý, hóa học, đặc biệt các quá trình y, sinh học, tâm
sinh lý khác nhau. Về phương diện sinh thể hay sinh học, con người một tiểu trụ
cấu trúc phức tạp, một hệ thống mở, biến đổi phát triển không ngừng, thay đổi
thích nghi khá nhanh chóng so với các động vật khác trước những biến đổi của môi
trường. vừa tiếp nhận, thích nghi, hòa nhịp với giới tự nhiên, nhưng cũng bằng cách
đó cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.
của con người. Các quan hệ hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất
con người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ hội cụ thể, xác định, con người
mới có thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã hội đó
thì bản chất người của con người mới được phát triển. Các quan hệ hội khi đã hình
thành thì có vai trò chi phốiquyết định các phương diện khác của đời sống con người
khiến cho con người không còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con
người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội” . Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên
đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.
1.2.4: Ý nghĩa lí luận từ quan điểm trên
Một là, trong nhận thức, đánh giá con người thì cần phải xem xét cả phương diện
bản tính tự nhiên lẫn phương diện bản tínhhội, song trong đó, phải coi trọng hơn việc
xem xét con người từ phương diện bản tính xã hội. Mặt khác, trong việc xây dựng thái độ
sống vừa phải biết tính đến nhu cầu sinh học song cần coi trọng rèn luyện phẩm chất
hội, tránh rơi vào thái độ sống chạy theo nhu cầu bản năng tầm thường.
Hai là, trong cuộc sống vừa phải biết phát huy vai trò chủ thể tích cực sáng tạo của
con người lại vừa phải ý thức tự giác vượt ra khỏi tác động tiêu cực từ hoàn cảnh lịch
sử. Vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát
triển của xã hội.
Ba là, cần chú trọng việc xây dựng môi trường hội tốt đẹp, với những quan hệ
xã hội tốt đẹp để có thể xây dựng, phát triển được những con người tốt đẹp. Cùng với mục
tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - hội áp bức bóc lột, ràng buộc khả năng
sáng tạo lịch sử của con người. Mặt khác, phải luôn chú ý giảiquyết đúng đắn mối quan
hệ xã hội –nhân, tránh khuynh hướng đề cao quá mứcnhân hoặchội. Thực hiện
triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mỗi người vì mọi người,
mọi người vì mỗi người”
Trang 7
CHƯƠNG 2:
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐỐI VỚI XÃ HỘI
VÀ BẢN THÂN
2.1 Đặc điểm và tác động của xã hội Việt Nam đến con người
2.1.1: Đặc điểm của xã hội Việt Nam
Xã hội Việt Nam hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này đã tạo ra những thay đổi
sâu sắc về cơ cấu, thành phần, tính chất của xã hội Việt Nam.
Có thể kể đến một số đặc điểm cơ bản của xã hội Việt Nam hiện nay như sau:
- Cơ cấu xã hội đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Tỷ trọng lao
động trong nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng lao động trong công nghiệp, dịch vụ tăng lên.
- Xã hội Việt Nam đang trở nên đa dạng hơn về thành phần: Xã hội Việt Nam không chỉ
gồm người Việt Nam mà còn có người nước ngoài sinh sống và làm việc.
- Xã hội Việt Nam đang trở nên hội nhập hơn với thể giới: Việt Nam đã tham gia nhiều tổ
chức quốc tế, mở rộng hợp tác với các nước trên thể giới.
Ngoài ra, xã hội Việt Nam hiện nay còn có một số đặc điểm khác như:
- Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao: Tỷ lệ người dân được đi học, tỷ lệ biết chữ,
sử dụng internet đều tăng lên.
- Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao: Tỷ lệ người dân được đi học, tỷ lệ biết chữ,
sử dụng internet đều tăng lên.
- Cuộc sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện: Thu nhập bình
quân đầu người tăng lên, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện.
- Xã hội Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức: Tệ nạn xã hội, ô nhiềm môi trường,
biến đổi khí hậu,... là những thách thức mà xã hội Việt Nam đang phải đối mặt.
Những đặc điểm này đã tạo nên một xã hội Việt Nam năng động, phát triển, hội nhập với
thể giới. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, xã hội Việt Nam hiện nay cũng đang
Trang 8
đối mặt với nhiều thách thức cần được giải quyết.
Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con người trong các tôn giáo và các hệ
tưởng truyền thống. người lại sáng tạo ra tưởng tôn giáo mới cho phù hợp với
con người Việt Nam. Song nhìn lại một cách khách quan khoa học sự tồn tại của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong hội Việt Nam lẽ không ai có thể phủ nhận được vai trò ưu
trội triển vọng cuả nó trong sự nghiệp phát triển con người tạo đà cho bước phát triển
tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì một nước đang còn tình trạng
kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu dài,
có tầm nhìn xa trông rộng phát triển con người nâng cao chất lượng của người.
Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh
vực của đời sống hội trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước theo cớ chế thị
trường, dưới sự quản của nhà nước, theo định hướng hội chủ nghĩa thì chất lượng
của người lao động nhân tố quyết định nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng đã khẳng định "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi cuả công cuộc đổi mới đất nước".
Thực tiễn đã chứng tỏ xã hội ta hiện nay tình trạng mất hài hoà về mặt bản thể của mỗi cá
nhân chủ yếu, tất cả bản thể nhân phát triển toàn diện hài hoà về đạo đức, trí
tuệ, thể lực là mục tiêu xây dựng con người trong chủ nghĩa xã hội nhưng mục tiêu cơ bản
và quan trọng hơn cả là vấn đề con người phải trở thành nhân tố quyết định lịch sử xã hội
và lịch sử của chính mình.
Các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc chủ nghĩa Mác cho rằng đó là "chủ nghĩa không
có con người" thực tế thì, chủ nghĩa Mác là một chỉnh thể thống nhất của ba bộ phận triết
học nghiên cứu các quy luật của thế giới, giúp ta hiểu bản chất, mới quan hệ tự nhiên - xã
hội - con người, chính trị kinh tế vạch ra quy luật đi lên của xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa
học chỉ ra con đường phương pháp nghiên cứu con người. Chủ nghĩa Mác một chỉ
nghĩ vì con người, chủ nghĩa nhân đạo. Học thuyết đó không chỉ chứng minh bản chất của
con người ("tổng hoà của các quan hệ hội") bản tính con người ("luôn vươn tới sự
hoàn thiện") còn vạch hướng đưa con người đi đúng bản chất bản tính của mình,
giải phóng, xoá bỏ sự tha hoá, tạo điều kiện phát huy mọi sức mạnh bản chất người, phát
triển toàn diện, hài hoà cho từng cá nhân. Sự phù hợp giữa tư tưởng Mác Xít với bản chất
và bản tính người đã thu phục làm say những con người hằng mong vươn lên xây
dựng xã hội mới, mở ra mọi khả năng cho sự phát triển con người.
Trang 10
PHẦN KẾT LUẬN
Trong cuộc sống đầy thách thức và phức tạp của xã hội, quan điểm triết học Mác-
Lênin về bản chất con người nổi bật như một phương tiện hiệu quả để hiểu sâu hơn về tồn
tại và phát triển của loài người. Với góc độ biện chứng duy vật, Mác-Lênin nhấn mạnh
con người không chỉ là một thực thể sinh học, mà còn là một yếu tố quyết định và định
hình bởi quá trình lịch sử và các quan hệ xã hội.
Theo quan điểm này, con người không chỉ đơn thuần là một cá thể đơn lẻ mà là
một chủ thể phức tạp, phản ánh tất cả các mặt khác nhau của môi trường xã hội. Con
người không chỉ là kết quả của lịch sử mà còn là người tạo ra lịch sử thông qua những
hành động và quyết định của mình. Ông Mác-Lênin khẳng định rằng để hiểu đúng con
người, chúng ta cần phải đặt nó vào ngữ cảnh toàn bộ hệ thống quan hệ xã hội.
Trong tầm nhìn của Mác-Lênin, nhân đạo hóa hoàn cảnh và tạo ra môi trường hợp
lý là chìa khóa để phát triển bản chất con người và hoàn thiện nhân cách. Việc làm chủ tự
nhiên và xã hội không chỉ mang lại sự tự do mà còn tạo nên bước đột phá quan trọng
trong sự tiến bộ của con người. Khả năng lao động và sự sáng tạo của con người đã thúc
đẩy những cuộc cách mạng lớn từ thời kỳ văn minh cổ đại đến thời kỳ văn minh hiện đại.
Với tầm quan trọng này, việc nghiên cứu về con người không chỉ là một nhiệm vụ
cần thiết mà còn là một trách nhiệm vô cùng quan trọng. Nghiên cứu này không chỉ giúp
chúng ta hiểu rõ về bản chất con người mà còn đặt ra những cơ hội và thách thức cho sự
phát triển của loài người trong thế kỷ 21. Đồng thời, nó làm nổi bật sự cần thiết của việc
tập trung vào con người trong quá trình xây dựng xã hội và nền văn minh mới.
Trang 11
| 1/15

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ VÀ LUẬT
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và bản
chất con người. Ý nghĩa của việc nghiên cứu con người đối
với xã hội và bản thân.
Tiểu luận cuối kì
(Môn học: Triết học Mác – Lênin) BUỔI: SÁNG THỨ 4 TIẾT 1 – 3
NHÓM THỰC HIỆN: CARBON
HỌC KÌ: 1 – NĂM HỌC: 2023 – 2024
GVHD: ThS. Trần Ngọc Chung
TP.HỒ CHÍ MINH – 11/2023
DANH SÁCH SINH VIÊN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI STT Họ tên Mã số SV Sự Đóng Tổ Làm Tính TỔNG Ký SV nhiệt góp ý chức, việc hiệu ĐIỂM tên
tình và tưởng quản nhóm quả (điểm nghiêm tối đa túc nhóm 10đ) 1 Nguyễn 23145192 2 2 2 2 2 10 Trần Minh Tâm 2 Trần 23144146 3 2 1 2 2 10 Ngọc Minh Quân 3 Nguyễn 23145208 1 2 2 2 3 10 Quang Minh Thuận
VÀ BẢNG ĐIỂM TỰ ĐÁNH GIÁ CHO TỪNG THÀNH VIÊN Quy cách chấm điểm
3 = tốt hơn các thành viên khác trong
1 = dưới mức trung bình của nhóm nhóm
0 = không tham gia và giúp gì cho nhóm
2 = tương đương với mức độ trung bình
-1 = là trở ngại đối với nhóm của nhóm
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Ngọc Chung
ĐIỂM TIỂU LUẬN: …………………………………….. NHẬN XÉT CỦA GV:
…………………………………………………………………………..
…………………………………………………………………………..
GV ký tên MỤC LỤC 1. Lý do chọn đề tài:
Triết học là một trong những môn khoa học rất quan trọng trên toàn thế giới
nói chung và quan trọng với sinh viên Việt Nam nói riêng. Chính vì thế, việc
hiểu được ý nghĩa và sự ảnh hưởng của Triết học Mác – Lênin đến mỗi con
người là một vấn đề quan trọng và cấp thiết.
Việc tìm hiểu và nghiên cứu về những ảnh hưởng và ý nghĩa của Triết học
Mác – Lênin đến với con người sẽ giúp mọi người hiểu được tầm quan trọng và
ý nghĩa của việc nghiên cứu về con người để từ đó hiểu về vai trò to lớn của
Triết học Mác – Lênin đối với xã hội và con người.
Đề tài được lựa chọn dựa trên nhận thức về tính cấp thiết và áp lực từ thực tế
cuộc sống. Chúng tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu con người là cần thiết và
cần khẳng định vai trò cũng như sự cần thiết đối với cuộc sống.
Một trong những lí do khác để cần thiết phải tìm hiểu về ý nghĩa của việc
nghiên cứu con người là vì sự bất đồng quan điểm của một số người về sự cần
thiết và tính ứng dụng thực tiễn của Triết học Mác – Lênin.
Chính vì những lý do trên, nhóm chúng tôi đã chọn nghiên cứu chủ đề “Quan
điểm của triết học Mác – Lênin về con người và bản chất con người. Ý nghĩa
của việc nghiên cứu con người đối với xã hội và bản thân”. 2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu chung là trình bày những quan điểm của Triết học Mác Lênin về
con người và tầm quan trọng của việc nghiên cứu về con người Trang 1 CHƯƠNG 1:
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ
BẢN CHẤT CON NGƯỜI
1.1: Khái niệm về con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng
giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành,
tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên là một
trong những phương diện cơ bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu,
khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở
khoa học quan trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản
thân mình trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại
1.1.1: Bản tính tự nhiên của con người
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
+ Thứ nhất: con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển
của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
+ Thứ hai: con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là
thân thể vô cơ của con người". Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của
quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người
và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên;
ngược lại, sự biến đổi vàhoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại
môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng
giữa sự tồn tại của con người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. Tuy nhiên,
con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang đặc tính xã hội
bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ của các cộng
đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì
vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn
nữa đây là bản tính đặc thù của con người.
1.1.2: Bản tính xã hội của con người
Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:
+ Một là xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ cónguồn gốc từ
sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước Trang 2 Trang 3
hóa sinh học và các quá trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một bộ phận đặc
biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản
thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt đặc biệt, rất
quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể xác, con người sống
bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà
ở, v.v… . Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận của giới tự nhiên có
quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô
cơ của con người”. Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên,
hòa hợp với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển. Quan điểm này là nền tảng lý
luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh
thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay.
Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan
trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có thể bằng
lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” . Nếu convật phải sống dựa hoàn
toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng lao
động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu
của mình. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh học có thể trở thành thực
thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính, có “bản năng xã hội”.
Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con người trở
thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện kiên quyết, cần thiết và chủ
yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.
Trong hoạt động con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất, mà còn có
hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển phong phú, đa
dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến cùng, là sản phẩm
của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội của con người chỉ có
trong “xã hội loài người”, con người không thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm
cho con người khác với con vật. Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội
không chỉ phục vụcho con người mà còn cho xã hội, khác với hoạt động của con vật chỉ
phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của nó. Hoạt động và giao tiếp của con
ngườiđã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao
động và giao tiếp xã hội với nhau. Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ
xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội
tính xã hội của con người, là một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là
một thực thể xã hội. Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát
triển trong xã hội loài người Trang 4
1.2.2: Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời,
lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao của con
người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác với
lịch sử động vật. Lịch sử của động vật là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần
dần của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do
chúng làm ra, và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy, thì
điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại,
con người càng cách xa con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu, thì con người
lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu. Hoạt động lịch sử
đầu tiên khiến con người tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là hoạt động
chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động mà
con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn xã
hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch
sử” là bản chất của con người, nhưng con người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý
muốn tùy tiện của mình, mà là phải dựa vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước
để lại trong những hoàn cảnh mới. Con người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên
các tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ trước để lại, mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động
mới của mình để cải biến những điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào
thì tương ứng, con người cũng sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con người tạo ra lịch
sử cho đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm của lịch sử.
Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường xác
định. Đó là toàn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần, có
quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người và xã hội. Đó là những điều
kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Một
mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải quan hệ với
giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn lực của tự
nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình. Mặt khác, là một bộ
phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật của tự nhiên, tuân theo các
quá trình tự nhiên như cơ học,vật lý, hóa học, đặc biệt là các quá trình y, sinh học, tâm
sinh lý khác nhau. Về phương diện sinh thể hay sinh học, con người là một tiểu vũ trụ có
cấu trúc phức tạp, là một hệ thống mở, biến đổi và phát triển không ngừng, thay đổi và
thích nghi khá nhanh chóng so với các động vật khác trước những biến đổi của môi
trường. Nó vừa tiếp nhận, thích nghi, hòa nhịp với giới tự nhiên, nhưng cũng bằng cách
đó cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.
của con người. Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất
con người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người
mới có thể bộc lộ được bản chất thực sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã hội đó
thì bản chất người của con người mới được phát triển. Các quan hệ xã hội khi đã hình
thành thì có vai trò chi phối và quyết định các phương diện khác của đời sống con người
khiến cho con người không còn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con
người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội” . Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên
đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.
1.2.4: Ý nghĩa lí luận từ quan điểm trên
Một là, trong nhận thức, đánh giá con người thì cần phải xem xét cả phương diện
bản tính tự nhiên lẫn phương diện bản tính xã hội, song trong đó, phải coi trọng hơn việc
xem xét con người từ phương diện bản tính xã hội. Mặt khác, trong việc xây dựng thái độ
sống vừa phải biết tính đến nhu cầu sinh học song cần coi trọng rèn luyện phẩm chất xã
hội, tránh rơi vào thái độ sống chạy theo nhu cầu bản năng tầm thường.
Hai là, trong cuộc sống vừa phải biết phát huy vai trò chủ thể tích cực sáng tạo của
con người lại vừa phải có ý thức tự giác vượt ra khỏi tác động tiêu cực từ hoàn cảnh lịch
sử. Vì con người chính là phát huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, cần chú trọng việc xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, với những quan hệ
xã hội tốt đẹp để có thể xây dựng, phát triển được những con người tốt đẹp. Cùng với mục
tiêu xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức và bóc lột, ràng buộc khả năng
sáng tạo lịch sử của con người. Mặt khác, phải luôn chú ý giảiquyết đúng đắn mối quan
hệ xã hội – cá nhân, tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân hoặc xã hội. Thực hiện
triết lý đạo đức nhân sinh cao đẹp nhất của chủ nghĩa cộng sản: “mỗi người vì mọi người,
mọi người vì mỗi người” Trang 7 CHƯƠNG 2:
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐỐI VỚI XÃ HỘI VÀ BẢN THÂN
2.1 Đặc điểm và tác động của xã hội Việt Nam đến con người
2.1.1: Đặc điểm của xã hội Việt Nam
Xã hội Việt Nam hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế nông
nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều này đã tạo ra những thay đổi
sâu sắc về cơ cấu, thành phần, tính chất của xã hội Việt Nam.
Có thể kể đến một số đặc điểm cơ bản của xã hội Việt Nam hiện nay như sau:
- Cơ cấu xã hội đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Tỷ trọng lao
động trong nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng lao động trong công nghiệp, dịch vụ tăng lên.
- Xã hội Việt Nam đang trở nên đa dạng hơn về thành phần: Xã hội Việt Nam không chỉ
gồm người Việt Nam mà còn có người nước ngoài sinh sống và làm việc.
- Xã hội Việt Nam đang trở nên hội nhập hơn với thể giới: Việt Nam đã tham gia nhiều tổ
chức quốc tế, mở rộng hợp tác với các nước trên thể giới.
Ngoài ra, xã hội Việt Nam hiện nay còn có một số đặc điểm khác như:
- Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao: Tỷ lệ người dân được đi học, tỷ lệ biết chữ,
sử dụng internet đều tăng lên.
- Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao: Tỷ lệ người dân được đi học, tỷ lệ biết chữ,
sử dụng internet đều tăng lên.
- Cuộc sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện: Thu nhập bình
quân đầu người tăng lên, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện.
- Xã hội Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức: Tệ nạn xã hội, ô nhiềm môi trường,
biến đổi khí hậu,... là những thách thức mà xã hội Việt Nam đang phải đối mặt.
Những đặc điểm này đã tạo nên một xã hội Việt Nam năng động, phát triển, hội nhập với
thể giới. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, xã hội Việt Nam hiện nay cũng đang Trang 8
đối mặt với nhiều thách thức cần được giải quyết.
Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con người trong các tôn giáo và các hệ
tư tưởng truyền thống. Có người lại sáng tạo ra tư tưởng tôn giáo mới cho phù hợp với
con người Việt Nam. Song nhìn lại một cách khách quan và khoa học sự tồn tại của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong xã hội Việt Nam có lẽ không ai có thể phủ nhận được vai trò ưu
trội và triển vọng cuả nó trong sự nghiệp phát triển con người tạo đà cho bước phát triển
tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì một nước đang còn ở tình trạng
kém phát triển như nước ta không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu dài,
có tầm nhìn xa trông rộng phát triển con người nâng cao chất lượng của người.
Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước theo cớ chế thị
trường, dưới sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì chất lượng
của người lao động là nhân tố quyết định nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng đã khẳng định "Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi cuả công cuộc đổi mới đất nước".
Thực tiễn đã chứng tỏ xã hội ta hiện nay tình trạng mất hài hoà về mặt bản thể của mỗi cá
nhân là chủ yếu, là tất cả bản thể cá nhân phát triển toàn diện và hài hoà về đạo đức, trí
tuệ, thể lực là mục tiêu xây dựng con người trong chủ nghĩa xã hội nhưng mục tiêu cơ bản
và quan trọng hơn cả là vấn đề con người phải trở thành nhân tố quyết định lịch sử xã hội
và lịch sử của chính mình.
Các nhà tư tưởng tư sản xuyên tạc chủ nghĩa Mác cho rằng đó là "chủ nghĩa không
có con người" thực tế thì, chủ nghĩa Mác là một chỉnh thể thống nhất của ba bộ phận triết
học nghiên cứu các quy luật của thế giới, giúp ta hiểu bản chất, mới quan hệ tự nhiên - xã
hội - con người, chính trị kinh tế vạch ra quy luật đi lên của xã hội, chủ nghĩa xã hội khoa
học chỉ ra con đường và phương pháp nghiên cứu con người. Chủ nghĩa Mác là một chỉ
nghĩ vì con người, chủ nghĩa nhân đạo. Học thuyết đó không chỉ chứng minh bản chất của
con người ("tổng hoà của các quan hệ xã hội") và bản tính con người ("luôn vươn tới sự
hoàn thiện") mà còn vạch hướng đưa con người đi đúng bản chất và bản tính của mình,
giải phóng, xoá bỏ sự tha hoá, tạo điều kiện phát huy mọi sức mạnh bản chất người, phát
triển toàn diện, hài hoà cho từng cá nhân. Sự phù hợp giữa tư tưởng Mác Xít với bản chất
và bản tính người đã thu phục và làm say mê những con người hằng mong vươn lên xây
dựng xã hội mới, mở ra mọi khả năng cho sự phát triển con người. Trang 10 PHẦN KẾT LUẬN
Trong cuộc sống đầy thách thức và phức tạp của xã hội, quan điểm triết học Mác-
Lênin về bản chất con người nổi bật như một phương tiện hiệu quả để hiểu sâu hơn về tồn
tại và phát triển của loài người. Với góc độ biện chứng duy vật, Mác-Lênin nhấn mạnh
con người không chỉ là một thực thể sinh học, mà còn là một yếu tố quyết định và định
hình bởi quá trình lịch sử và các quan hệ xã hội.
Theo quan điểm này, con người không chỉ đơn thuần là một cá thể đơn lẻ mà là
một chủ thể phức tạp, phản ánh tất cả các mặt khác nhau của môi trường xã hội. Con
người không chỉ là kết quả của lịch sử mà còn là người tạo ra lịch sử thông qua những
hành động và quyết định của mình. Ông Mác-Lênin khẳng định rằng để hiểu đúng con
người, chúng ta cần phải đặt nó vào ngữ cảnh toàn bộ hệ thống quan hệ xã hội.
Trong tầm nhìn của Mác-Lênin, nhân đạo hóa hoàn cảnh và tạo ra môi trường hợp
lý là chìa khóa để phát triển bản chất con người và hoàn thiện nhân cách. Việc làm chủ tự
nhiên và xã hội không chỉ mang lại sự tự do mà còn tạo nên bước đột phá quan trọng
trong sự tiến bộ của con người. Khả năng lao động và sự sáng tạo của con người đã thúc
đẩy những cuộc cách mạng lớn từ thời kỳ văn minh cổ đại đến thời kỳ văn minh hiện đại.
Với tầm quan trọng này, việc nghiên cứu về con người không chỉ là một nhiệm vụ
cần thiết mà còn là một trách nhiệm vô cùng quan trọng. Nghiên cứu này không chỉ giúp
chúng ta hiểu rõ về bản chất con người mà còn đặt ra những cơ hội và thách thức cho sự
phát triển của loài người trong thế kỷ 21. Đồng thời, nó làm nổi bật sự cần thiết của việc
tập trung vào con người trong quá trình xây dựng xã hội và nền văn minh mới. Trang 11