Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và con người và bản chất con người. Ý nghĩa của việc nghiên cứu con người đối với xã hội và bản than | Tiểu luận cuối kỳ môn Triết học Mác – Lênin
Hiện nay, phát triển bền vững đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới xác định là chiến lược hàng đầu. Một trong các cơ sở và nền tảng quan trọng nhất để thực hiện chiến lược phát triển chính là nguồn lực con người. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn, con người luôn là nhân tố đóng vai trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của xã hội. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI. Ý
NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐỐI VỚI XÃ HỘI VÀ BẢN THÂN
GVHD: Nguyễn Ngọc Võ Khoa SVTH: 1.
Phạm Thị Hương Thảo 22126126 2. Nguyễn Hồng Đào 22126087 3.
Nguyễn Thị Phước Sang 22126123 4.
Trần Hoàng Tường Vy 22126146 5. Hoàng Thị Hiền 22126090
Mã lớp học: LLCT130105_22_1_40
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI. Ý
NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU CON NGƯỜI ĐỐI VỚI XÃ HỘI VÀ BẢN THÂN
GVHD: Nguyễn Ngọc Võ Khoa SVTH: 6.
Phạm Thị Hương Thảo 22126126 7. Nguyễn Hồng Đào 22126087 8.
Nguyễn Thị Phước Sang 22126123 9.
Trần Hoàng Tường Vy 22126146
10. Hoàng Thị Hiền 22126090
Mã lớp học: LLCT130105_22_1_40
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2022
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2022 – 2023
NHÓM: 07 ( Lớp thứ 3 – tiết 10-12 )
Tên đề tài: Quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người và bản chất con người.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu con người đối với xã hội và bản thân MÃ SỐ SINH TỈ LỆ % STT HỌ VÀ TÊN VIÊN HOÀN THÀNH 1 Hoàng Thị Hiền 22126090 100% 2 Nguyễn Thị Phước Sang 22126123 100% 3 Phạm Thị Hương Thảo 22126126 100% 4 Nguyễn Hồng Đào 22126087 100% 5 Trần Hoàng Tường Vy 22126146 100% Ghi chú:
Tỷ lệ % = 100%: Mức độ phần trăm của từng sinh viên tham gia.
Trưởng nhóm: Phạm Thị Hương Thảo SĐT: 0961047570
______________________________________________________________________
Nhận xét của giáo viên:
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
........................................................................................................................................
Ngày 13 tháng 12 năm 2022 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
2. MỤC ĐÍCH VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU..................................................2
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................................2
PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA CON
NGƯỜI...................................................................................................................... 4
1.1. VỀ CON NGƯỜI..........................................................................................4 1.1.1.
QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG
ĐÔNG ...............................................................................................................4 1.1.2.
QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG
TÂY THỜI CỔ ĐẠI VÀ TRUNG CỔ.................................................................6
1.1.3. QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
THỜI HỤC HƯNG CẬN ĐẠI VÀ HIỆN ĐẠI...................................................9
1.1.4.QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ-NIN VỀ CON NGƯỜI......10
1.2. VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI CỦA QUAN ĐIỂM MÁC LÊNIN............12 1.2.1.
CON NGƯỜI LÀ THỰC THỂ SINH HỌC - XÃ HỘI........................12 1.2.2.
CON NGƯỜI KHÁC BIỆT VỚI CON VẬT NGAY TỪ KHI CON
NGƯỜI BẮT ĐẦU SẢN XUẤT RA NHỮNG TƯ LIỆU SINH HOẠT CỦA
MÌNH ..............................................................................................................14 1.2.3.
CON NGƯỜI LÀ SẢN PHẨM CỦA LỊCH SỬ VÀ CỦA CHÍNH BẢN
THÂN CON NGƯỜI.........................................................................................16 1.2.4.
CON NGƯỜI VỪA LÀ CHỦ THỂ CỦA LỊCH SỬ, VỪA LÀ SẢN
PHẨM CỦA LỊCH SỬ......................................................................................17 1.2.5.
BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI LÀ TỔNG HÒA CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI 18
CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
CON NGƯỜI ĐỐI VỚI XÃ HỘI VÀ BẢN THÂN..............................................21
2.1. Ý NGHĨA VỚI XÃ HỘI.............................................................................21
2.2. Ý NGHĨA VỚI BẢN THÂN.......................................................................23
KẾT LUẬN................................................................................................................25 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, phát triển bền vững đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới xác định
là chiến lược hàng đầu. Một trong các cơ sở và nền tảng quan trọng nhất để thực hiện
chiến lược phát triển chính là nguồn lực con người. Lịch sử phát triển xã hội đã chứng
minh rằng, trong mọi giai đoạn, con người luôn là nhân tố đóng vai trò quyết định sự
phát triển theo chiều hướng tiến bộ của xã hội. Con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo
đức. Như thế mỗi con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá
trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã hoàn toàn đúng khi khẳng định rằng, sự phát triển
của xã hội không phải do bất kỳ một thế lực siêu nhiên nào, mà chính con người đã
sáng tạo nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người. Nhận thức được rõ vai trò to
lớn của nguồn lực con người, trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhấn mạnh đến nguồn lực con nguời, coi đó là
nguồn lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Với sự ra đời của triết học Mác-Lênin, lần đầu tiên, vấn đề về con người được
giải quyết một cách đúng đắn trên quan điểm biện chứng duy vật đồng thời còn được
nhìn nhận, lý giải và đánh giá một cách sâu sắc, khoa học và toàn diện. Hơn nữa, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã có những phân tích hết sức đúng đắn và khoa học
về vai trò, vị trí của con người đối với sự phát triển xã hội, khẳng định “Con người là
một thực thể trong sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người
sinh ra từ tự nhiên, tuân theo các quy luật tự nhiên, đồng thời con người tồn tại và phát
triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội”. Những điều nói trên chính là căn
cứ lý luận và thực tiễn trực tiếp để chúng em lựa chọn đề tài: “Quan điểm của triết học
Mác – Lênin về con người và con người và bản chất con người. Ý nghĩa của việc
nghiên cứu con người đối với xã hội và bản thân” 1
2. MỤC ĐÍCH VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Mục đích:
Khoa học về con người ngày càng được các nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu
trong một hệ thống câu hỏi phức tạp: con người từ đâu đến, con người đi về đâu, tổ
chức xã hội con người, xã hội cá nhân, con người - văn hóa, con người - môi trường,
hoạt động sống, bản chất con người, sinh học-lịch sử-nhân văn toàn vẹn xã hội, nguồn
nhân lực, vấn đề nhân cách, phát triển con người bền vững và toàn diện, v.v.
Với tên luận văn triết học: “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người và
bản chất con người” làm mục đích nghiên cứu nhằm mục đích: củng cố kiến thức triết
học trong trường đại học, nâng cao tầm nhìn và hiểu biết triết học ở giai đoạn sau đại
học. Rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học dựa trên việc tìm kiếm và tham khảo
nhiều nguồn khác nhau. Nghiên cứu lý luận về vấn đề con người trong triết học Mác -
Lênin và quan điểm nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sử dụng lý luận bản chất con người trong triết học Mác - Lênin để xây dựng mục tiêu
phát triển của con người Việt Nam hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu:
Tìm hiểu về ý nghĩa của con người trong triết học.
Bản chất của con người qua các thời đại, trong các nền văn hóa và trong các hệ tư tưởng triết học.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được nghiên cứu dựa trên các phương pháp:
Phương pháp luận chung nhất: Phép biện chứng duy vật và lý luận nhận thức
của chủ nghĩa duy vật biện chứng. 2
Phương pháp phân tích tổng hợp lí thuyết: tác giả đã dùng phương pháp phân
tích để chia đối tượng thành nhiều khía cạnh nhỏ để phân tích, tổng hợp và hiểu được
đầy đủ thấy đáo nhất ý nghĩa của đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tham khảo các nguồn thông tin, tài liệu liên
quan đến đối tượng để tổng hợp và thống kê, từ đó khái quát và đưa ra các quan điểm
về con người và bản chất con người.
Một số phương pháp khác như phương pháp kết hợp lịch sử - logic, phân tích
về mặt chính trị - xã hội, phương pháp tổng kết lý luận từ thực tiễn, và từ lý luận để
liên hệ đến xã hội hiện nay. 3 PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA CON NGƯỜI 1.1. VỀ CON NGƯỜI
1.1.1. QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của thế
giới từ trước tới nay. Các trường phái phương Đông đều tìm cách lý giải vấn đề bản
chất con người, quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh. Mỗi nhà triết học,
mỗi trường phái triết học đứng trên lập trường thế giới quan, phương pháp luận khác
nhau để phân tích về con người. Phương pháp duy vật hoặc duy tâm, phương pháp
biện chứng hoặc siêu hình, …
Do những điều kiện kinh tế - xã hội và đặc điểm lịch sử của triết học phương
Đông, thì vấn đề con người đều được lý giải trên cơ sở thế giới quan duy tâm, tôn
giáo thần bí hoặc nhị nguyên luận. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần
hồn là do thượng đế sinh ra, quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hồn
con người tồn tại mãi mãi.
Lịch sử triết học Trung Quốc bao hàm một nội dung phong phú với hệ thống triết
học rộng lớn và sâu sắc, đặc biệt, vấn đề con người là một vấn đề trung tâm, nổi bật
trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc. Khi nghiên cứu con gười các nhà Triết học Trung
Quốc cổ đại rất quan tâm nghiên cứu những vấn đề nguồn gốc, bản chất con người -
cội nguồn xâu xa của mọi hành vi con người và đưa các giải pháp để cải hóa con người
từ vô đạo trở về với đạo, từ ác trở về thiện. Trong tất cả các trường phái triết học xuất
hiện thời kì này phải kể đến các trường phái nổi bật là Nho gia, Đạo gia, Mặc gia và Pháp gia. Nho gia 4
Sự vận động, biến đổi của vạn vật, con người bắt nguồn từ mối liên hệ, tương
tác giữa hai lực âm dương trong một thể thống nhất là Thái cực.
Con người là sản phẩm của “âm dương” nhưng cuộc sống của con người lại
luôn bị chi phối bởi thiên mệnh.
Đặc điểm nổi bật về vấn đề con người trong tư tưởng triết học Nho giáo đó là
quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè.
Kế thừa tư tưởng triết học chính trị, đạo đức của Khổng Tử trong các học thuyết
về nhân, trí, dũng, “tính tương cận, tập tương viễn”, “nhân chi sơ dĩ trực”, Mạnh Tử đã
đưa ra bản tính con người là lương thiện, ngay thẳng, không thiên lệch. Đạo gia
Đạo gia quan niệm “đạo” là cơ sở vật chất đầu tiên của thế giới và con người;
dùng “đạo” để giải thích tính thống nhất của thế giới. Lão Tử viết: “Mọi người trong
thiên hạ sinh ra từ hữu, hữu sinh ra từ vô”. 1
Quan điểm về con người trong tư tưởng triết học là tuyệt đối hóa về mặt tự
nhiên, hạ thấp các quan hệ xã hội.
Theo Đạo gia bản tính con người là siêu thiện ác. Pháp gia
Pháp gia cho rằng con người là sản phẩm của tự nhiên, của sự vận động, biến đổi của xã hội.
Vận mệnh của lịch sử, xã hội là do con người tạo ra mà nguyên nhân sâu xa là
di của cải và dân số. Con người đủ năng lực và trí tuệ để cải biến xã hội từ loạn trở về trị.
1 Đạo đức kinh, chương 40 5
Trong quan điểm về bản tính con người thì Pháp gia có quan điểm khá sâu sắc
và tiến bộ hơn các trường phái triết học đương thời, Pháp gia cho rằng bản tính tự
nhiên của con người là ác. Mặc gia
Mặc gia thì cho rằng Trời là đấng anh minh, có ý chí, có nhân cách và quyền lực tối cao.
Con người là một bộ phận của thế giới do Trời tạo ra nhưng con người hoàn
toàn tự do làm chủ hành vi của mình.
Riêng phái Mặc gia lại gắn bản tính con người với chủ trương "kiêm ái" nghĩa
là yêu thương tất cả mọi người.
Căn cứ vào tính chất của những biện pháp mà họ đã đề ra, thì tựu trung lại có
thể xếp thành hai phái "hữu vi" và "vô vi". Khổng - Mặc là đại biểu của phái "hữu vi",
Lão - Trang tiêu biểu cho phái "vô vi".
Học thuyết của Khổng - Mặc mang tính trang nghiêm, trọng thể hướng tới phục
vụ xã hội, nhân sinh, đề cao con người xã hội.
Triết lý Lão - Trang mang tính lãng mạn, phóng khoáng, đề cao con người tự
nhiên, thuần phác, không biết đến người đứng đầu, xã hội tự hòa bình, no đủ, tôn sùng
cuộc sống tĩnh lặng, tiêu dao thoát ly nhân gian, thế sự.
Trong lịch sử của dân tộc Trung Quốc, hai dòng tư tưởng Khổng - Mặc và Lão
- Trang tuy mang hai khuynh hướng trái ngược nhau, nhưng không làm cho chúng
tách biệt và loại trừ nhau, mà trái lại, chúng luôn bổ trợ lẫn nhau.
Trái ngược với Triết học của Trung Hoa thì các nhà tư tưởng của các trường
phái triết học Ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ mức độ khác,
mức độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (siêu hình
học) đối với những vấn đề nhân sinh quan. 6
Con người vốn là đấng tạo hóa đã tạo ra mình, mình gây nghiệp nhâ, , mình
lãnh thọ nghiệp quả, quyền năng sáng tạo và thay đổi hoàn toàn nơi mình.
Quan niệm ấy xác nhân giá trị tuyệt đối của muôn loài và nhất là con người: vì
ở con người, khả năng sáng tạo và chuyển dịch cải biên có phần mạnh mẽ hơn.
Theo triết học Phật giáo thì bản chất con người là Vô ngã (Ngã là một phạm trù
dùng để chỉ một thực thể vĩnh hằng, độc lập, tuyệt đối, bất biến, có trước con người và
quy định bản chất của con người.
Tuy quan niệm bản chất của con người là Vô ngã nhưng xét trong từng hoàn cảnh
cụ thể, bản chất con người cũng được biểu hiện nhiều hình thái khác nhau. Có lúc con
người làm nhiều việc ác, có lúc con người làm nhiều việc thiện vậy nên bản chất con
người song hành tồn tại Vô minh tính và Phật tính. 1.1.1.2.
QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
PHƯƠNG TÂY THỜI CỔ ĐẠI VÀ TRUNG CỔ
Thời kỳ triết học Hy Lạp cổ đại (thế kỷ VI trước công nguyên- thế kỷ VI)
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi đầu của tư duy
triết học cũng như con người và thế giới xung quanh là tấm gương phản chiếu lẫn
nhau, bởi vì con người chỉ là tiểu vũ trụ trong vũ trụ bao la. Như Prôtago – nhà triết
học thuộc trường phái ngụy biện cho rằng “con người là thước đo của vũ trụ”. Trái lại,
theo quan niệm duy tâm khách quan của Platôn thì “con người chỉ là ảo ảnh của thế
giới ý niệm”. Còn Aristote lại cho rằng “con người là thang bậc cao nhất của vũ trụ”,
song đối với ông, con người chỉ nổi bật lên khi có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý chí, năng
khiếu nghệ thuật… Nhìn chung, trong triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu đã có sự phân
biệt con người với tự nhiên, nhưng đó chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người.
Triết học Tây Âu thời Trung cổ (thế kỷ VI – thế kỷ XV)
Trong triết học Tây Âu trung cổ, con người được xem là sản phẩm do Thượng đế
sáng tạo ra và đã quy đặc trưng bản chất con người là một thực thể thuần túy – thực
thể tinh thần. Bởi, theo họ bản chất con người do sự quyết định của các lực lượng siêu 7
nhiên hay chính tư tưởng, ý thức… Ôguyxtanh cho rằng, Thượng đế đã tạo dựng nên
vũ trụ, nặn ra Cha của loài người và bẻ xương sườn của Cha để Mẹ của nhân loại xuất
hiện, nhưng do sự sa đọa, phản bội của tổ tông loài người mà nhân loại phải bước vào
cảnh khốn cùng, yếu hèn, nhu nhược. Vậy nên, tất cả mọi sinh linh đang chờ ngày tận
thế cho mình để rồi sau đó chỉ còn thiên đường muôn đời và hỏa ngục vĩnh viễn dành
cho các thánh thần hay ác quỷ theo tiền định. Tôma ĐacanH cũng cho rằng, con người
và xã hội loài người đã được Thượng đế tạo dựng, vì vậy mọi hoạt động của con người
và xã hội loài người đều phải do Ngài và hướng về Ngài… Tóm lại, triết học Tây Âu
thời trung cổ không chỉ xem con người là sản phẩm của Thượng đế, mà còn cho rằng
số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do Thượng đế sắp đặt, trí
tuệ con người thấp hơn lý trí anh minh của Thượng đế. Tóm lại, triết học thời kỳ này
mang đậm tính tôn giáo, hầu hết các nhà triết học đều là thần học, đều chứng minh cho
sự tồn tại của Thượng đế và cho những tín điều tôn giáo của nhà thờ, đây là thời kỳ
thụt lùi so với thời kỳ cổ đại.
Triết học thời kỳ Phục hưng ở Tây Âu (cuối thế kỷ XIV - thế kỷ XVI)
Triết học phương Tây thời Phục hưng – cận đại đề cao vai trò trí tuệ. Đó là một
trong các yếu tố quan trọng, nhằm giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của thần
quyền tôn giáo thời trung cổ, đề cao tư tưởng giải phóng con người, nhưng con người
cũng chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể, mà bị xem nhẹ mặt xã hội và cũng chưa được
nhận thức đầy đủ về bản chất chất của con người trong mối quan hệ giữa mặt sinh học và xã hội.
Triết học cổ điển Đức (thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX)
Trong triết học cổ điển Đức, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của quá
trình hoạt động của mình và có bản chất xã hội. Nổi bật trong đó là quan điểm về con
người của Hêghen và Phoiơbắc. Bên trong lớp vỏ duy tâm thần bí, Hêghen đã nghiên
cứu bản chất con người thông qua quá trình tư duy và khái quát các quy luật cơ bản
của quá trình đó. Ông cho rằng con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của quá trình
hoạt động của chính mình; tư duy, trí tuệ con người được hình thành và phát triển khi
con người nhận thức và cải biến thế giới đối lập với mình thành thế giới của mình; 8
hoạt động càng phát triển thì ý thức càng mang bản chất xã hội. Tuy nhiên, khi đánh
giá con người, Hêghen lại coi “ý niệm tuyệt đối” giữ vai trò quyết định đối với con
người. Mặc dù con người được nhận thức từ góc độ duy tâm khách quan nhưng
Hêghen đã thấy được con người là chủ thể của của lịch sử, đồng thời con người cũng
là kết quả của quá trình phát triển lịch sử.
Quan niệm duy vật của Phoiơbắc đã vượt qua những mặt hạn chế của Hêghen để
tìm đến bản chất con người một cách thực sự. Ông đã dựa trên nền tảng duy vật, đề
cao yếu tố tự nhiên, cảm tính, nhằm giải phóng cá nhân, nhờ đó mà hiểu thêm về bản
chất của con người. Phoiơbắc quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, là con
người sinh học trực quan, bị phụ thuộc vào hoàn cảnh, đồng thời đề cao vai trò trí tuệ
của con người với tính cách là những cá thể người. Đó là những cá thể cá biệt, đa
dạng, phong phú, không ai giống ai. Nhưng, khi phê phán quan điểm duy tâm của
Hêghen thì Phoiơbắc đã mắc phải sai lầm không thấy được bản chất xã hội trong đời
sống con người và tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ thể. Vậy nên, con
người của Phoiơbắc là con người phi lịch sử, phi giai cấp và trừu tượng.
Mặc dù, triết học duy vật trước Mác coi con người là một thực thể tự nhiên –
thực thể xã hội nhưng vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót khi xem xét con người một
cách trừu tượng, dẫn đến những cách lý giải cực đoan, phiến diện. Các nhà triết học
thời này thường trừu tượng hoá tách phần “xác” hay phần “hồn” ra khỏi con người và
cho rằng chúng là bản chất của con người. Chủ nghĩa duy tâm thì lại tuyệt đối hoá
phần “hồn” thành con người trừu tượng – tự ý thức. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trực
quan thì tuyệt đối hoá phần “xác” thành con người trừu tượng - sinh học. Họ chưa thực
sự chú ý đầy đủ đến bản chất xã hội của con người. Tuy thế, một số trường phái triết
học vẫn đạt được những thành tựu trong quá trình quan sát và phân tích con người, đề
cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người đến tự do. Đó là
những tiền đề quan trọng, quyết định cho việc hình thành tư tưởng về con người trong triết học Mác.
1.1.3. QUAN ĐIỂM VỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG
TÂY THỜI HỤC HƯNG CẬN ĐẠI VÀ HIỆN ĐẠI 9
Triết học phương Tây luôn có tư tưởng duy vật liên quan đến hiện thực xã hội,
tuy nhiên ở bất kỳ thời điểm nào, những quan điểm duy tâm về con người vẫn chiếm ưu thế.
Nhưng may mắn từ sau khi Học thuyết tiến hóa của Dacwin ra đời đã cho các
nhà triết học duy vật cơ sở duy vật để chứng minh rằng nguồn gốc phi thần thánh của
con người "Không phải Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa mà chính
con người đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của con người" (Phoiơbắc). Tuy vậy, do chịu
ảnh hưởng bởi phương pháp tư duy siêu hình nên đã có giải thích sai lệch về nguồn
gốc và bản chất con người. Còn các nhà duy vật thế kỷ XVII-XVIII (Hốpxơ) coi con
người khi sinh ra đã mang sẵn bản chất tự nhiên (tính đồng loại).
Trường phái sinh vật học (Phoiơbắc, Phơrớt v.v) cho rằng con người là một thực
thể tự nhiên, một sinh vật; một con người thuần túy sinh học; con người nhân bản và
tuyệt đối hóa các yếu tố sinh học của con người và khôi phục bản chất con người về
bản chất tự nhiên. Ở Feuerbach, bản chất của con người nằm ở chủng tộc, được thể
hiện ở tình cảm, đạo đức, tôn giáo và tình yêu.
Đây là một quan điểm triết học tuyệt đối hóa khía cạnh tự nhiên của con người,
tách con người ra khỏi các hoạt động (thực tế) của mình, và biến con người thành tính tôn giáo.
Quan điểm về con người trong triết học Italia
Quan điểm về con người trong triết học Anh (Ph. Bêcơn)
Quan điểm về con người trong triết học Hà Lan (Xpin Da)
Quan điểm về con người trong triết học hiện đại phương Tây hiện đại được thể
hiện rõ ràng trong các quan điểm của chủ nghĩa cấu trúc như phân tâm học, chủ nghĩa
cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa phê phán và chủ nghĩa hiện sinh, trong đó
quan điểm hiện sinh về con người là chủ đạo.
Qua các quan niệm về con người trong triết học phương Tây thời kỳ trước Mác,
mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung các quan niệm đều 10
xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác con
người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên – sinh học mà chưa phản ánh được bản chất xã hội của con người.
1.1.4. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC LÊ-NIN VỀ CON NGƯỜI
Nhận thấy, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài Mác Xít còn có hạn chế
cơ bản là phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con
người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản
chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng
như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Chính vì vậy, chủ
nghĩa Mác đã ra đời, khắc phục những hạn chế đó, song song là kế thừa và phát triển
những quan niệm đã có trong những học thuyết trước đây để đi tới quan niệm đúng
đắn nhất về con người.
Con người là một tồn tại tự nhiên với những đặc điểm xã hội, có sự thống nhất
biện chứng giữa tự nhiên và xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành,
tồn tại và phát triển của con người là giới tự nhiên, vì vậy giới tự nhiên là một trong
những mặt cơ bản của con người và con người.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau:
Đầu tiên, con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của tự
nhiên. Toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là
thuyết tiến hóa loài của Darwin đã chứng minh cơ sở khoa học của kết luận này.
Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, đồng thời giới tự nhiên
cũng là “cơ thể vô cơ của con người”.
Bản tính xã hội của con người được phân tích từ giác độ sau đây:
Trước hết, xét từ góc độ nguồn gốc hình thành loài người, loài người không chỉ
bắt nguồn từ sự tiến hóa và phát triển của vật chất tự nhiên, có nguồn gốc xã hội, mà
trước hết là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt trội
hơn động vật và tiến hóa thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ 11
nghĩa Mác - Lê-nin, từ đó có thể hoàn thiện học thuyết về nguồn gốc loài người mà
mọi học thuyết trong lịch sử đều chưa có câu trả lời đúng và đầy đủ.
Thứ hai, dưới góc độ tồn tại và phát triển của con người, sự tồn tại của con
người luôn bị chi phối bởi các yếu tố xã hội và quy luật xã hội. Xã hội thay đổi thì ai
cũng có những thay đổi tương ứng và ngược lại, sự phát triển của mọi người là tiền đề
cho sự phát triển của xã hội. Trừ các quan hệ xã hội, mỗi người chỉ tồn tại với tư cách
là một thực thể sinh học thuần túy mà không thể là “con người” với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Vậy, với tư cách là một thực thể xã hội, con người tác động vào giới tự nhiên
thông qua hoạt động thực tiễn và cải tạo giới tự nhiên theo nhu cầu tồn tại và phát
triển. Đồng thời, con người cũng đã sáng tạo ra lịch sử của mình và tiến hành quá trình
phát triển của giai đoạn lịch sử đó.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về khoa học con người, chúng ta có thể thấy:
Trước hết, để giải thích vấn đề con người một cách khoa học, chúng ta không
thể đơn giản giải thích vấn đề con người từ góc độ tự nhiên, mà từ góc độ bản chất xã
hội, xã hội và các quan hệ kinh tế - xã hội để lý giải vấn đề con người một cách căn bản và dứt khoát hơn.
Hai là, động lực cơ bản của tiến bộ và phát triển xã hội là khả năng sáng tạo ra
lịch sử của con người, vì vậy nó phát huy được khả năng sáng tạo của mọi người, vì
con người là nguồn gốc chủ yếu của sự phát triển xã hội.
Thứ ba, để phát huy tính sáng tạo lịch sử của mình, sự nghiệp giải phóng con
người phải hướng vào sự nghiệp giải phóng các quan hệ kinh tế xã hội. Từ phương
pháp luận này có thể thấy, một trong những giá trị cơ bản nhất của cách mạng xã hội
chủ nghĩa là xóa bỏ căn bản quan hệ kinh tế - xã hội áp bức, bóc lột. Khả năng buộc
nhân dân sáng tạo ra lịch sử - người thực sự sáng tạo ra lịch sử tiến bộ của loài người;
thông qua cuộc cách mạng đó, đồng thời nhận thức được sự nghiệp thiết lập các quan
hệ kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa để giải phóng toàn nhân loại 12
nhằm xác lập và phát triển một xã hội mà tự do, sáng tạo của người này trở thành điều
kiện cho tự do và sáng tạo của người khác. 13
1.2. VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI CỦA QUAN ĐIỂM MÁC LÊNIN
1.1.1. CON NGƯỜI LÀ THỰC THỂ SINH HỌC - XÃ HỘI
Tiếp thu những quan điểm có lý và khắc phục những khuyết điểm hạn chế trong
quan niệm về con người trong lịch sử triết học trước đây, triết học Mác khẳng định con
người hiện thực là sự thống nhất giữa các yếu tố sinh học và xã hội. Bởi vì con người
không phải là một cái gì đó hoàn toàn giống nhau về bản chất mà là một bản sắc tự nó
bao hàm sự khác biệt giữa hai yếu tố đối lập: con người với tư cách là sản phẩm của tự
nhiên. Tuy nhiên, đó là sự phát triển tiếp tục của giới tự nhiên, mặt khác con người là
một thực thể xã hội tách biệt với tư cách là lực lượng đối lập với giới tự nhiên, tác
động qua lại giữa sinh vật và xã hội hình thành con người.
Trước hết, xét đến phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, sản
phẩm của giới tự nhiên. Đó là quá trình tạo ra các mặt sinh học và khả năng thoả mãn
các nhu cầu sinh học như: thức ăn, quần áo, chỗ ở, hoạt động và nhu cầu sản xuất của
con người. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh học, con người tự nhiên là
con người có đầy đủ các bản chất sinh vật và giống loài. Yếu tố sinh học ở con người,
trước hết là tổ chức của cơ thể và mối quan hệ của nó với tự nhiên, là những thuộc
tính, đặc điểm sinh học, các quá trình tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau
của cơ thể, bản chất sinh học của cá nhân con người. Nếu xét về phương diện thực thể
sinh học, con người còn chịu sự quy định của các quy luật sinh học để tồn tại và phát
triển như di truyền, tiến hóa sinh học và các quy trình sinh học của tự nhiên. Có sinh,
lão, bệnh, tử. Chính vì vậy, để tồn tại và phát triển con người phải gắn bó, hòa hợp với thiên nhiên.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quyết định nên bản chất
con người. Đặc điểm quyết định sự khác biệt giữa con người và giới động vật là mặt
xã hội, đầu tiên là quá trình lao động của con người. 14
Thứ hai, con người cũng là sản phẩm của lịch sử xã hội và chính lao động là
nhân tố quyết định quá trình hình thành con người, khẳng định con người có bản lĩnh
xã hội. Nguồn gốc để nảy sinh ra ý thức có nguồn gốc tự nhiên nhưng nguồn gốc quyết
định hình thành nên ý thức con người đó chính là nguồn gốc xã hội, hoạt động lao
động xã hội. Lao động sản xuất chính là hoạt động xã hội quan trọng nhất của con
người. Con người luôn cụ thể, xác định sống trong một điều kiện lịch sử nhất định ở
một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng chính hoạt động thực tiễn như
sản xuất vật chất con người đã góp phần cải tạo bản năng sinh học, tạo ra các giá trị
vật chất phục vụ cho nhu cầu. Trong lịch sử triết học trước Mác, có nhiều quan niệm
khác nhau phân biệt con người với giới động vật, chẳng hạn như con người là động vật
biết sử dụng công cụ lao động, hay con người có tư duy, v.v ... Nhưng, quan niệm đó
cũng chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nhất định của bản chất xã hội loài người.
Thông qua sản xuất vật chất, con người đã thay đổi và cải tạo toàn bộ tự nhiên:
"động vật chỉ tự sinh sản, còn con người tái tạo toàn bộ tự nhiên". Đầu tiên tính xã hội
của con người thể hiện ở hoạt động sản xuất vật chất, con người sản xuất ra của cải vật
chất và tinh thần để phục vụ cuộc sống, hình thành và phát triển ngôn ngữ, tư duy, xác
lập các mối quan hệ xã hội, hệ thống xã hội. Hoạt động của con người gắn liền với các
quan hệ xã hội kết hợp với giao tiếp đã hình thành ra ý thức con người. Thông qua tập
thể ban đầu, sự hoàn trả cái cá nhân cho xã hội và những thành tựu của xã hội cho cá
nhân đã diễn ra. Mỗi cá nhân mang trong mình dấu ấn của tập thể ngược lại mỗi tập
thể cũng mang trong mình dấu ấn của các thành viên. C.Mác đã chỉ rõ vai trò của xã
hội đối với sự hình thành cá nhân và vai trò của cá nhân đối với sự hình thành xã hội:
“Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó
cũng sản xuất ra xã hội như thế”. Trình độ giải phóng xã hội được thể hiện ra ở sự tự
do của cá nhân con người. Cá nhân được giải phóng sẽ tạo ra động lực cho giải phóng
sự giải phóng cá nhân. Con người tự giải phóng cho mình, qua đó giải phóng xã hội,
thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thứ ba, mối quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội không chỉ khẳng định
nguồn gốc, bản chất sinh học và xã hội của con người mà còn khẳng định vai trò quyết 15