








Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN -------***------- BÀI T P L Ậ N Ớ
MÔN: TRIẾẾT H C MÁ Ọ C - LẾNIN
ĐỀ TÀI: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức, vai trò của tri thức
và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên
Họ và tên SV: Đỗ Nguyễn Minh Đức Lớp tín chỉ: 15 Mã SV: 11200028 GVHD: TS Lê Thị Hồng 1 HÀ NỘI, NĂM 2021 Mục lục
Đặt vấn đề........................................................................................................4
Nội dung...........................................................................................................5
I. Bàn luận về tri thức theo chủ nghĩa Mac-Lenin......................................5
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về tri thức......................................5
1.1. Nguồn gốc của tri thức..................................................................................5
1.2. Bản chất của tri thức.....................................................................................6
2. Vai trò của tri thức.......................................................................................7
2.1. Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người..............................7
2.2.Vai trò của tri thức trong các hoạt động kinh tế......................................7
2.3.Vai trò của tri thức với chính trị và văn hóa - xã hội...............................8
II. Sự áp dụng quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về tri thức vào học
tập và nghiên cứu............................................................................................9
Kết luận..........................................................................................................10
Tài liệu tham khảo.........................................................................................11
........................................................................
Đặt vấn đề
Xã hội loài người ngày càng phát triển, thì vai trò của tri thức lại càng
được nâng cao. Tri thức là những hiểu biết của con người và nhân loại được đúc 2
kết qua sự phát triển từ thời xa xưa đến ngày nay. Tri thức đã có từ lâu trong lịch
sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy thì lúc đó có tri thức và chính
tri thức là kim chỉ nam cho những hoạt động thực tiễn của con người. Rất nhiều
nhà khoa học, nhà triết học đã nghiên cứu về tri thức, và môn khoa học nghiên
cứu về tri thức được gọi là tri thức luận.
Tuy vậy, vấn đề bàn luận về tri thức là một trong những vấn đề khó khăn
cho các nhà tư tưởng từ trước đến nay, triết học từ thời cổ đại đến trước Mác. Ở
thời cổ đại, đến chủ nghĩa duy vật suy hình đều có những quan điểm khác nhau
về tri thức, tuy nhiên ở mỗi quan điểm đều có những mặt hạn chế của nó. Chỉ tới
khi chủ nghĩa triết học của Mac-Lenin ra đời, ta mới có một cái nhìn khách
quan, tổng quát nhất về tri thức, mối quan hệ của nó với ý thức, đồng thời thấy
được vai trò của tri thức trong đời sống xã hội nói chung và vận dụng được quan
niệm đó vào học tập và nghiện cứu.
Hiểu biết về tri thức và không ngừng tiếp thu tri thức để ứng dụng vào
thực tiễn nghiên cứu là một trong những điều kiện cho sự phát triển toàn diện.
Như vậy trong đời sống con người nói chung và các hoạt động nghiên cứu, học
tập của sinh viên nói riêng, tri thức chính là cốt lõi để giải quyết các vấn đề. Nội dung
I. Bàn luận về tri thức theo chủ nghĩa Mac-Lenin
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về tri thức
Trước khi phân tích về tri thức, cần tìm hiểu quan niệm của chủ nghĩa Mac-
Lenin về ý thức. Theo các nhà triết học của chũ nghĩa Mac-Lenin, ý thức là hình
thức phản ảnh cao nhất riêng có của óc người trên về hiện thức khách quan trên
cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử. Ý thức cũng đồng thời chính là sự phản ánh năng
động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Con người hình thành ý thức nhờ các hoạt động thức
tiễn thay vì tiếp nhận thụ động từ những yếu tố khách quan vào bộ óc của mình.
Xét đến kết cấu của ý thức, chủ nghĩa Mac-Lenin cho rằng: Ý thức là toàn bộ
những hoạt động tinh thần của con người bao gồm: tri thức, tình cảm, niềm tin,
tư tưởng… (tất cả chỉ tồn tại trong não người), trong đó trí thức là nhân tố có 3
bản, cốt lõi nhất của ý thức. Do đó, có thể cho rằng tri thức cũng là ý thức, và tri
thức mang những đặc trưng cơ bản của ý thức, từ nguồn gốc cho tới bản chất.
1.1. Nguồn gốc của tri thức
Đã từng có rất nhiều quan điểm về nguồn gốc của tri thức nói riêng và ý
thức nói chung. Nhưng chỉ tới khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, thì định
nghĩa về nguồn gốc ý thức mới được đầy đủ và khách quan nhất. Quan điểm duy
vật biện chứng cho rằng ý thức có 2 nguồn gốc: nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
a/ Nguồn gốc tự nhiên quan niệm duy vật biện chứng cho rằng ý thức là ý
thức của con người, là thuộc tính phản ánh của 1 dạng vật chất có tổ chức cao,
tinh vi hoàn thiện, dạng vật chất ấy là óc người.
Theo quá trình phát triển của lịch sự loài người, cùng với sự tiến hóa, tri
thức của con người ngày càng có sự phát triển và tiến bộ. Cùng với đó, kho tàng
tri thức ngày càng được tích lũy ngày một đồ sộ và mang giá trị có tính lịch sử,
b/ Nguồn gốc xã hội:
Ý thức là sự phản ánh thế giới bởi bộ óc con người là sự khác biệt về chất
so với động vật. Do sự phản ánh đó mang tính xã hội, sự ra đời của ý thức gắn
liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ óc người dưới ảnh hưởng của
lao động, của giao tiếp và các quan hệ xã hội. Từ đó suy ra, lao động có vai trò
quan trọng trong việc hình thành và phát triển ý thức cũng như tri thức.
Như vậy: Nguồn gốc sâu xa của ý thức nói chung và tri thức nói riêng là
thế giới quan tác động vào bộ óc người, Nhưng hoạt động thực tiễn của con
người thông qua lao động vào giao tiếp mới là nguyên nhân trực tiếp quyết định
sự ra đời của ý thức.
1.2. Bản chất của tri thức
Tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi của ý thức. Do đó, bản chất của tri thức cũng
mang những đặc điểm cơ bản giống ý thức. Ý thức chính là sự phản ánh năng
động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người; là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan.
Là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Khi xem xét về mặt bản thể luận, ý thức hay tri thức cũng chỉ là hình ảnh về
hiện thức khách quan trong óc người nhưng đã được cải biến thông qua lăng 4
kính chủ quan của con người. Do đó, ta có thể cho rằng ý thức là cái “vật chất”
di chuyển vào trong đầu óc chúng ta và cải biên đi ở trong đó
Kết quả phản ánh của tri thức tùy thuộc vào nhiều yếu tố: đối tượng phản ánh,
điều kiện lịch sử - xã hội, phẩm chất, năng lực, kinh nghiệm sống của chủ thể
phản ánh. Cùng một đối tượng phản ánh nhưng với các chủ thể phản ánh khác
nhau, có đặc điểm tâm lý, kinh nghiệm, thể chất, hệ thống quan điểm và nhận
thức khác nhau, trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau… thì kết quả phản
ánh đối tượng trong tri thức cũng rất khác nhau.
Là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh tri thức được thể hiện ở khả
năng hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận
thông tin, chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở
những thông tin đã có tri thức có khả năng tạo ra kiến thức mới về sự vật, có thể
tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự báo tương lai.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh tri thức còn được thể hiện ở quá
trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại... trong đời sống
tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng các
mô hình tư tưởng trong các hoạt động của con người.
Là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
Sự ra đời và tồn tại của tri thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối
không chỉ của các quy luật sinh học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do
nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy
định. Với tính năng động, tri thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
Là quá trình phản ánh đặc biệt, là sự thống nhất của ba mặt.
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Đây là quá trình
mang tính hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực
chất đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của tri thức theo nghĩa: mã hóa các
đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển hóa mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện
thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái 5
thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực.
2. Vai trò của tri thức
Tri thức đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của con người. Nó có
ảnh hưởng lên rất nhiều phương diện của xã hội, thúc đấy xã hội phát triển
2.1. Vai trò của tri thức trong hoạt động của con người
Trong các hoạt động thực tiễn, tri thức như một cây kim chỉ nam, định
hướng mục tiêu của con người. Nó tác động và biến đổi thực tiễn thông qua hoạt
động có ý thức của con người. Đồng thời, tri thức trang bị cho con người bản
chất quy luật khách quan của đối tượng để có phương hướng hoạt động phù hợp.
Tri thức lí luận có thể dự đoán được sự phát triển của sự vật trong tương lai, dự
báo được những phương hướng mới cho hoạt động của thực tiễn.
2.2.Vai trò của tri thức trong các hoạt động kinh tế
Tri thức là động lực của sự phát triển kinh tế. Với sự phát triển của công
nghệ, những máy móc hiện đại dần ra đời, con người cũng tiết kiệm được phần
nào sức lao động. Nhưng cũng vì thế, lao động chân tay dần được thay thế bằng
lao động trí thức, và đem lại hiệu quả rất lớn cho các nền kinh tế toàn cầu. Sự
chuyển dịch này mở ra cơ hội rất lớn cho các nước đang phát triển để gia tăng
tốc độ phát triển của đất nước. Lấy Nhật Bản là một ví dụ điển hình. Nhật Bản là
một đất nước có tài nguyên thiên nhiên vô cùng nghèo nàn, hàng năm phải hứng
chịu rất nhiều trận thiên tai lớn nhỏ như động đất, sóng thần, núi lửa,…Mặc dù
vậy, Nhật Bản lại có nền kinh tế vô cùng phát triển, có giai đoạn nền kinh tế
Nhật Bản còn đứng thứ ba Thế giới sau Mĩ và Trung Quốc. Một trong những
nguyên nhân cơ bản của sự phát triển thần kỳ đó chính là vốn tri thức của con
người Nhật Bản. Người Nhật Bản có vốn tri thức rất lớn chính bởi vậy họ rất sắc
xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt thị trường, đổi mới phương pháp kinh doanh,
sáng tạo trong phát triển khoa học, kỹ thuật, đem lại thắng lợi cho nền kinh tế đất nước.
Tri thức là lực lượng đặc trưng cho sản xuất hiện đại. Ngày nay, khoa học đã
rất phát triển để có một tầm ảnh hưởng to lớn tới một nền kình tế, và trở thành
“lực lượng lao động trực tiếp”. Giờ đây người lao động của một đất nước phát
triển không còn chỉ cần kinh nghiệm và thói quen của họ, mà còn là cả một vốn
tri thức khoa học. Điều đó đã trở thành đặc trưng của một nền kinh tế hiện đại. 6
Tri thức có vai trò quyết định tới thành bại của một tổ chức, doanh nghiệp.
Trong những thời khắc quan trọng, người có tri thức sẽ là người có những quyết
định hợp lí và sáng suốt để giải quyết các vấn đề mà tổ chức doanh nghiệp đó đang gặp phải.
Tri thức giúp rút ngắn khoảng cách giữa cách nước phát triển và đang phát
triển. Sự xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ hội những cũng đồng thời là thách
thức của những nước kém và đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Các nước
như vậy nên nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức bằng cách tri thức hóa các
ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, đồng thời tiếp thu các công nghệ cao
từ nước ngoài, phát triển công nghệ bằng chính “chất xám” của công dân nước
mình để nhanh chóng hội nhập với thế giới. Qua nhiều năm, Việt Nam cũng có
những bước chuyển mình trong nền kinh tế rất rõ rệt khi những ngành cần nhiều
lao động chân tay đã dần được thay thế bằng máy móc để đem lại hiệu quả cao hơn.
2.3.Vai trò của tri thức với chính trị và văn hóa - xã hội
Tri thức đem lại cho con người những hiểu biết, kiến thức, và những người
có tri thức là những người có tư duy lý luận, khả năng phân tích và cách tiếp cận
vấn đề xác thực, đúng đắn. Một đất nước giàu mạnh, phải là một đất nước được
lãnh đạo bởi những trí thức, những con người có hiểu biết sâu rộng và một tầm
nhìn chiến lược, khách quan. Chính họ là những con người nắm trong tay vận
mệnh quốc gia, và chính họ cũng là người có thể khiến nước ta phát triển toàn
diện. Nhìn rộng hơn, thì tri thức có ảnh hưởng tới đường hướng giáo dục của cả
một đất nước. Tri thức thúc đẩy con người luôn học hỏi, lĩnh hội những kiến
thức, từ đó ý thức con người được nâng cao, làm cho văn hóa ngày càng bền
đẹp, xã hội văn minh và phát triển. Singapore có lẽ là ví dụ tiêu biểu nhất cho ý
kiến này. Không phải nghiễm nhiên mà nơi đây lại là một trong nhưng nơi sạch
sẽ nhất thế giới. Để có được thành công như ngày nay, là cả một công cuộc tiếp
thu văn minh hiện đại, cùng với những thay đổi trong tư duy, trong giáo dục trong rất nhiều năm.
II. Sự áp dụng quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin về tri thức vào học tập và nghiên cứu
Sinh viên là một trong những lực lượng quan trọng và nòng cốt ảnh hưởng tới
phát triển của cả 1 dất nước. Vì nên nên việc tiếp thu tri thức vẫn luôn là mục 7
tiêu cần thiết đối với một cá nhân. Tri thức có vai trò như là sản phẩm của hoạt
động học tập và nghiên cứu của sinh viên. Bản chất của quá trình nghiên cứu và
học tập của sinh viên chính là quá trình sinh viên tích lũy kiến thức để sau này
có thể áp dụng vào những công việc thực tế giúp phát triển kinh tế - xã hội. Tri
thức xuất hiện khắp mọi nơi dưới dạng kiến thức, tạo điều kiện thuận lợi cho
sinh viên nghiên cứu và học tập. Tri thức đồng thời giúp sinh viên nghiên cứu,
học tập đúng đắn, có định hướng. Có tri thức, sinh viên dễ dàng hơn trong việc
tiếp thu và phát triển từ những nền tri thức tiên tiến hơn của nhân loại, biết
nghiên cứu và học tập như thế nào để có thể tích lũy được nhiều tri thức nhất, để
không bị lãng phí quá trình nghiên cứu của mình khi còn là sinh viên. Tri thức
giúp sinh viên không tiếp thu những quan điểm sai lệch với chuẩn mực xã hội
trong quá trình nghiên cứu và học tập bên ngoài xã hội. Từ những tri thức tích
lúy được, sinh viên sẽ dần trưởng thành và có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều
lĩnh vực để tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Kết luận
Tri thức là những kiến thức, thông tin, sự hiểu biết ta có được thông qua giáo
dục hay tự học hỏi. Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, tri thức chính là cái cốt 8
lõi, cái cơ bản nhất của ý thức, và nó mang những đặc trưng cơ bản nhất của ý
thức, từ nguồn gốc tới bản chất.
Tri thức đóng một vai trò rất lớn trong hoạt động của con người, trong kinh
tế và cả trong chính trị, văn hóa – giáo dục. Nó có ảnh hưởng tới cách chúng ta
suy nghĩ, hành động trong đời sống, cũng như có tầm ảnh hưởng lớn lên nền
kinh tế toàn cầu trên rất nhiều phương diện. Ngoài ra, những người có tri thức –
được gọi là trí thức – sẽ quyết định thành hay bại, phát triển hay lụi tản của cả
một đất nước, một dân tộc hay một nền văn minh.
Sự định hướng của tri thức lên con người là rất rõ rệt, nó như một cây kim
chỉ nam để con người có những suy nghĩ, cách tiếp cận vấn đề xác thực nhất. Có
tri thức, con người mới tiếp cận được những văn minh, hiện đại của xã hội bây
giờ. Vì thế, vấn đề tiếp thu tri thức và áp dụng trong học tập, nghiên cứu của
sinh viên luôn là một yêu cầu quan trọng mà nhà nước, xã hội đặt ra.
Tài liệu tham khảo
[1] Bộ Giáo dục và đào tạo (2019) Giáo trình Chủ nghĩa xã hội (Dùng cho khối ngành không chuyên)
[2] Bộ Giáo dục và đào tạo (2008) Giáo trình Chủ nghĩa xã hội (Dùng cho khối ngành không chuyên)
[3] C. Mác và Ph.Ăngghen: toàn tập,nxb.Chính Trị quốc gia, Hà Nội,1995, t4.
[4] C. Mác và Ph.Ăngghen: toàn tập,nxb.Chính Trị quốc gia, Hà Nội,1995, t12.
[5] C. Mác và Ph.Ăngghen: toàn tập,nxb.Chính Trị quốc gia, Hà Nội,1995, t23.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương khóa X, nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 9