lOMoARcPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài “Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và sự
vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên”
Họ và tên: Nguyễn Thanh Thảo
Mã sinh viên: 11216911
Lớp tín chỉ: Triết học Mác – Lênin (221)_30
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội , ngày 13/05/2022
lOMoARcPSD| 44985297
1
LỜI MỞ ĐẦU
Tri thức là một nhân tố vô cùng thiết yếu tạo nên sự giàu mạnh của một quốc gia,
dân tộc, là nền tảng cho sự phát triển. Trong bất kì xã hội hay thời kỳ nào thì tri thức
đều mang vai trò ng quan trọng. Đặc biệt, trong hội ngày nay, tri thức thực
sự ngày càng khẳng định được vai trò lớn của mình đối với đời sống con người. Một
xã hội sẽ lạc hậu, không có sự phát triển là xã hội đó còn xuất hiện những con người
không có tri thức, một thành phần thừa trong xã hội.
Mặt khác, tri thức còn được biết đến là nhân tố bản và cốt lõi nhất để cấu thành
nên ý thức – một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Hoạt động
nghiên cứu học tập của sinh viên ng một trong những thành phần của đời sống
hội sự thành, bại của cũng góp phần vào công cuộc phát triển đời sống
hội. Để trở thành công dân có tri thức tốt không phải ngày một ngày hai, mà cần một
quá trình dài, cần sự quyết tâm cao, có được tri thức cho bản thân chính là một lợi thế
tốt để mọi người nhiều hội trong cuộc sống tốt đẹp. Vậy nên, khi còn một
sinh viên, em càng phải nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng cũng như sức mạnh của
tri thức đối với bản thân sinh viên nói riêng sự phát triển của toàn thể hội nói
chung. Nhận thấy rõ sự cần thiết này, em xin phép chọn đề tài số 1: “Quan điểm của
triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm
đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên. Với kiến thức hạn chế của bản thân,
trong quá trình làm bài không khỏi tránh được những thiếu sót, em mong đóng góp
ý kiến để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
NỘI DUNG
I/ Quan điểm của triết học Mác- Lênin về tri thức, vai trò của tri thức
1.Khái niệm về tri thức
Tri thức đã từ lâu trong lịch sử, thể nói từ khi con người bắt đầu duy
thì lúc đó đã có tri thức. Điểm khác biệt lớn nhất giữa con người và động vật là ở chỗ
con người khả năng tích lũy các kinh nghiệm, hình ảnh tri thức. Nói đến tri thc
là nói đến học vấn, tri thức phương thức tồn tại của ý thức. Sự hình thành và phát
triển của ý thức liên quan mật thiết với quá trình con người nhận biết cải tạo
thế giới tự nhiên. Nhờ có quá trình lĩnh hội tích lũy, sử dụng và truyền thụ tri thức đã
làm cho con người vượt lên trên muôn loài, đứng đỉnh cao của bậc thang tiến hóa.
Con người tích lũy được càng nhiều tri thức thì ý thức thật cao, càng đi sâu o bản
chất sự vật cải tạo thế giới có hiệu quả hơn. Trải qua một thời gian dài phát triển
của lịch sử, cho đến những thập kỉ gần đây, tri thức và vai trò của nó đối với đời sống
xã hội mới được đề cập nhiều. Vậy tri thức là gì?
rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng thể hiểu: “Tri thức kết quả
quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tưởng
những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy diễn đạt chúng dưới hình thức
ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác”.
lOMoARcPSD| 44985297
2
Theo C.Mác, “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại
đối với ý thức tri thức…, cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng
nào ý thức biết cái đó”. Tri thức có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự nhiên,
hội, con người. Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như: Tri thức thông thường được
hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi nhân, mang tính chất cảm tính trực
tiếp, bề ngoài rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh trình độ của con người đi sâu
nhận thức thế giới hiện thực.
Tri thức có hai dạng tồn tại chính là tri thức ẩn và tri thức hiện:
+ Tri thức hiện: là những tri thức được giải thích hóa dưới dạng văn bản,
tài liệu, âm thanh, phim, ảnh,… thông qua ngôn ngữ lời hoặc không lời, nguyên
tắc hệ thống, chương trình máy tính, chuẩn mực hay các phương tiện khác. Đây
những tri thức đã được thể hiện ra ngoài ddàng chuyển giao, thường được tiếp
nhận qua hệ thống giáo dục và đào tạo chính quy.
+ Tri thức ẩn:những tri thức thu được từ sự trải nghiệm thực tế, dạng tri thức
này thường ẩn trong mỗi nhân rất khó "mã hóa" chuyển giao, thường bao
gồm: niềm tin, giá trị, kinh nghiệm, bí quyết, kỹ năng...
dụ: Trong các bộ môn thể thao như đánh cầu, bơi lội… các vận động viên
chuyên nghiệp có khả năng cảm nhận, kĩ năng tốt. Đây được coi là một dạng tri thức
ẩn bởi nằm trong nhân mỗi vận động viên. không thể "mã hóa" thành văn
bản, không thể chuyển giao, mà người ta chỉ có thể có được bằng cách tự mình luyện
tập, tự mình trau dồi hàng ngày.
Ngày nay, vai trò động lực của tri thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở nên
rõ ràng, nổi bật. Loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức – là nền kinh tế trong
đó sự sản sinh ra, phổ cập sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức, đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức,
dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, vậy, đầu vào tri thức
trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn.
2.Mối quan hệ giữa tri thức, tình cảm và ý chí
a,Khái niệm về tình cảm, ý chí
Tình cảm một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, phản ánh quan hệ
giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm xuất
hiện trở thành một trong những động lực quan trọng trong hoạt động của con
người. Sự hoà quyện giữa tri thức với tình cảm trải nghiệm thực tiễn đã tạo nên
tính bền vững của niềm tin, thôi thúc con người hành động để vươn lên trong mọi
hoàn cảnh. nh cảm biểu hiện phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con
người, là một yếu tố phát huy sức mạnh, là động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Tình cảm luôn dành cho, luôn hướng đến một đối tượng nhất định.
lOMoARcPSD| 44985297
3
Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi
con người vào hoạt động thể vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra. Ý chí
một phẩm chất tâm lí cá nhân, một thuộc tính tâm lí của nhân cách. Ý chí còn phản
ánh mục đích của hành động, mục đích hành động do các điều kiện của hiện thực
khách quan quy định. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của
ý thức trong thực tiễn đó con người tự giác được mục đích của hoạt động nên
tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Giá trị chân chính
của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở
nội dung, ý nghĩa của mục đích ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: “ý chí một
trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu
tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại”.
b,Mối quan hệ giữa tri thức, tình cảm, ý chí
Tri thức, tình cảm ý chí đều ba lớp cấu trúc của ý thức, chúng mối quan
hệ biện chứng, kết hợp chặt chẽ với nhau, liên quan và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó
tri thức nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất của ý thức, tác động trực tiếp hay còn là tiền
đề của tình cảm ý chí. Nếu tình cảm ý chí không đi kèm với tri thức thì tình
cảm và ý chí lúc đó sẽ trở nên mù quáng, không mục đích nội dung rõ ràng. Ngược
lại nếu tri thức không đi kèm với tình cảm ý chí thì cũng sẽ không được
khai thác sử dụng triệt để. Sự hòa quyện giữa tri thức với tình cảm và ý chí tạo nên
tính bền vững của niềm tin thôi thúc con người hoạt động vươn n trong mọi hoàn
cảnh. Tri thức kết hợp với tình cảm tạo nên niềm tin, rồi từ niềm tin đó sẽ kết hợp với
ý chí để đưa bản thân hoàn thành mục tiêu cá nhân.
dụ: Kỳ thi Đại học được biết đến một trong những kỳ thi cùng quan trọng,
quyết định tương lai của mỗi người và mỗi cá nhân phải trải qua những giai đoạn vô
cùng khó khăn. Tuy nhiên, với những con người ý chí mạnh mẽ và sự quyết tâm
cao luôn học tập, rèn luyện không ngừng hơn hết là niềm u thích, đam mê lĩnh
vực ngành nghề mình lựa chọn thì họ sẽ đủ lượng tri thức cũng như niềm tin, sự
hứng thú để chinh phục hết những khó khăn của kỳ thi và khả năng thi đỗ vào ngôi
trường, ngành nghề mình mong muốn.
3.Vai trò của tri thức a,Vai trò của tri thức đối với
hoạt động của con người
*Tri thức trong sự hình thành con người
Thuyết tiến hđã chỉ ra rằng: Do sự đột biến của chuỗi cấu trúc ADN trong
gen của các loài sinh vật, chúng ta sẽ tiến hoá thành những sinh vật bậc cao hơn.
Trong thế giới sinh vật trên trái đất hiện nay, các nhà khoa học đều công nhận rằng
loài người loài duy nhất tri thức, hay nói cách khác trước khi xuất hiện loài
người thì chưa hề xuất hiện tri thức.
*Tri thức trong hoạt động thực tiễn của con người
lOMoARcPSD| 44985297
4
Nói về vai trò của tri thức, Lênin cho rằng: “Tri thức sức mạnh. Ai tri thức
người đó có sức mạnh”. Sức mạnh của tri thức là khả năng làm thay đổi thế giới của
tri thức thông qua sự vận dụng tri thức của con người trong các hoạt động nghiên cứu,
lao động sản xuất. Nhờ biết tích luỹ tri thức con người mới thể hiểu được
bản chất của thế giới khách quan, vận dụng tri thức để từng bước làm chủ tự nhiên và
cuộc sống của mình.
Tri thức giúp con người xác định đúng đắn được mục tiêu, dự kiến được sự phát
triển vận động của sự vật trong ơng lai, dự báo những phương hướng mới cho
sự phát triển của thực tiễn. luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở
nên linh hoạt hơn, tự giác hơn, tránh sự mò mẫm, tự phát, mất phương hướng.
Tri thức giúp cho con người có phương hướng hành động phù hợp. Như chúng ta
đã biết, bản thân ý thức không tự thay đổi được trong hiện thực, ý thức muốn tác động
quay trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa phải được con
người thực hiện trong thực tiễn. Chính vậy con người phải trang bị cho mình những
tri thức về bản chất, quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy xác định đúng
đắn mục tiêu và đề ra phương hướng phù hợp.
b,Vai trò của tri thức trong sự phát triển của xã hội
Thế giới đang bước vào một thời đại mới, thời đại mà “Tri thức đã trở thành động
lực chủ yếu của sự phát triển hội”, “Tri thức tài nguyên bản”,… Tri thức
có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri thức thường gắn liền với
sự hình thành của hội loài người, tách tri thức ra khỏi hội giống như việc tách
những con ra khỏi dòng nước để tìm sự thích nghi hay hoạt động của cá. Vai trò
của tri thức trong sự phát triển của hội rất cần thiết quan trọng, tác động
trực tiếp đến các lĩnh vưc của xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá – giáo dục.
*Vai trò của tri thức đối với nền kinh tế
Tri thức nền tảng, động lực để thúc đẩy nền kinh tế, nhân tố đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc góp phần tạo nên mọi thành tựu và tiến bộ trong lịch sử
trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Vào những thời kỳ đầu, nền kinh tế
vẫn còn hết sực thô sơ, lạc hậu, con người được đánh giá dựa trên công sức lao động
cơ bắp của họ. Ngày nay, thông tin và tri thức đã trở thành những đầu vào quan trọng
cho sự phát triển của nền kinh tế. Sự chuyển dịch nguồn lực trong cấu của nền
kinh tế dựa vào tri thức đang mở ra những cơ hội vô cùng to lớn cho các nước đang
phát triển.
Tri thức là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Khoa học kĩ thuật ngày phát
triển, động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Cách đây hơn 180 năm,
C.Mác đã nhận định, khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bộ Tư
bản, C.Mác khẳng định: “Sự phát triển của bản cố định chỉ số cho thấy tri thức
hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào đó thành lực ợng sản xuất trực tiếp”.
Khoa học - công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm cả
lOMoARcPSD| 44985297
5
khoa học tự nhiên, khoa học hội - nhân n...) do con người tạo ra thông qua
con người tác động trở lại đời sống kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, là động lực chủ yếu nhất giữ vai trò quyết định đối với sự tăng
trưởng, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Sự ra đời và phát triển của nền
kinh tế tri thức kết quả tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất hội.
Đó còn một nền kinh tế hướng đến sự phát triển bền vững, thân thiện với môi
trường; nền kinh tế làm thay đổi cấu hội thang giá trị hội, làm xuất hiện
các cộng đồng dân kiểu mới, các làng khoa học, các công viên khoa học, vườn
ươm khoa học... Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức vừa là cơ hội cũng vừa là thách
thức đối với các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
dụ: Giá trị của một số công ty công nghcao như công ty sản xuất phần mềm
và công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình
còn nằm trong những tài sản vô hình như tri thức và các bằng sáng chế. dụ như
các tài sản vật thể của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhtrong tổng giá
trị được vốn hoá trên thị trường của công ty này, phần lớn là vốn trí tuệ. Sau 20 năm
thành lập, số nhân viên công ty tăng 6 nghìn lần, thu nhập tăng 370 nghìn lần, 1/10
số nhân viên trở thành triệu phú. Điều đó chứng tỏ nguồn vốn con người là một thành
tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri thức.
*Vai trò của tri thức đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người có tri thức
người khả năng duy luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đmột cách xác
thực, đúng đắn. Điều này rất quan trọng, một đất nước rất cần những con người như
vậy để điều hành công việc chính trị. Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia.
Đại hội Đảng VI đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về
nguồn lực con người. Đại hội nhấn mạnh “Phát huy yếu tố con người lấy việc phục
vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động chiến lược phát triển con
người đang là chiến lược cấp bách”.
*Vai trò của tri thức đối với văn hoá – giáo dục
Tri thức cũng có vai rất lớn đến văn hoá giáo dục ở mỗi quốc gia. giúp con
người được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con người
được nâng cao. Do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh. Mỗi con người phải
những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục, biết về nội dung, phương pháp giáo
dục của các nước khác để ngày một cải thiện nền văn hoá giáo dục Việt Nam. Từ
đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh, góp phần nâng cao vị thế trên
thế giới.
II/Sự vận dụng quan điểm của triết học Mác Lênin về tri thức, vai trò của tri
thức trong nghiên cứu, học tập của sinh viên
1.Vai trò của tri thức trong nghiên cứu, học tập của sinh viên
lOMoARcPSD| 44985297
6
Tri thức có vai trò quan trọng trong xã hội nói chung và đối với sinh viên nói riêng.
Đối với sinh viên, tri thức chính nền tảng cơ bản, cốt lõi trong mọi hoạt động học
tập, nghiên cứu.
Trong cuộc sống đời thường, con người tiếp xúc với thiên nhiên, hội, phải giải
quyết các công việc thực tế hàng ngày. Bằng các tri giác quan, con người tri giác, cảm
nhận về bản thân, về thế giới hội xung quanh, từ đó kinh nghiệm sống,
những hiểu biết mọi mặt. Đó chính tri thức thông thường. Từ đó ta có thể thấy được
tri thức thông thường là một yếu tố cơ bản nhất của mỗi con người nói chung và bản
thân sinh viên nói riêng.
Tri thức có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh hành vi giúp cho sinh viên phân biệt
được đúng, sai hay tốt, xấu và định hướng hành vi theo cái tốt, cái đẹp… Tri thức còn
bản lề để mỗi bản thân sinh viên cố gắng trong tương lai, là nền móng vững chắc
để phát triển trí tuệ và kĩ năng thực hành, là ngọn đèn soi sáng trong đêm tối, là hành
trang dẫn lối bản thân mỗi sinh viên vào đời. Thiếu tri thức, sinh viên khó phân biệt
được đâu cái nên làm đâu cái cần phải tránh. Thiếu đi sự hiểu biết thì con
người khó có thể làm chủ được hành vi của mình. Một khi không làm chủ được hành
vi của mình thì hiệu quả rất nguy hiểm.
Tri thức còn là sự hiểu biết, sáng tạo, là những khả năng, kĩ năng có thể ứng dụng
vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Đối với sinh viên, tri thức lại càng cần thiết
hơn bao giờ hết. Không có ai không học mà thành tài cả. Tất cả mỗi người muốn có
cuộc sống đủ đầy, muốn nâng cao chất lượng đời sống và muốn sống có ích thì đều
phải học tập. Chính vì vậy tri thức có vai trò như là sản phẩm của hoạt động học tập
và nghiên cứu của sinh viên. Bản chất của quá trình nghiên cứu và học tập của sinh
viên chính là quá trình sinh viên tích luỹ kiến thức chuyên ngành, kiến thức xã hội
và các kĩ năng để sau này có thể áp dụng vào các công việc thực tế giúp phát triển
kinh tế - xã hội. Nếu không có tri thức thì quá trình học tập của sinh viên sẽ không
có nội dung, mục đích rõ ràng vì có thể nói dễ hiểu rằng quá trình nghiên cứu và
học tập của sinh viên là quá trình tích luỹ tri thức.
Như đã tìm hiểu, Mác – Lênin một nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà lý luận chính trị
kiệt xuất đã khẳng định tầm quan trọng của tri thức đối với mỗi nhân “Tri thức là
sức mạnh. Ai có tri thức người đó có sức mạnh”. Sức mạnh tri thức làm con người
thể đảo lộn các trật tự tưởng như nghìn năm bất dịch, làm được bao điều phi thường
trong cuộc sống. Điển hình phải kể đến đây những thí nghiệm phát hiện của
J.J.Thompson đã mở ra một lĩnh vực khoa học mới vật hạt. Trải qua thời gian,
bằng vốn tri thức của mình, con người đã xây dựng một xã hội loài người văn minh,
tiến bộ tột bậc. Sức mạnh tri thức cũng đã giúp nhân em cũng như rất nhiều
những sinh viên khác có được cuộc sống như ngày m nay. Để trở thành những sinh
viên như bây giờ thì chúng ta đều phải tiếp thu những tri thức nhất định, chính vì thế
mà mỗi sinh viên phải không ngừng học hỏi, nghiên cứu, từ đó sáng tạo ra những tri
lOMoARcPSD| 44985297
7
thức mới. Mỗi sinh viên luôn phải tự trau dồi kiến thức của bản thân thông qua hoạt
động học tập. Học tập phải được diễn ra một cách đều đặn, lâu dài xuyên suốt
trong mọi quá trình. Học tập mọi lúc, mọi nơi mọi thứ cần thiết. Nói đến đây,
chúng ta một lần nữa nhớ đến và khắc sâu lời văn bất hủ của Lênin đã đi vào lịch sử
nhân loại: “Học, học nữa, học mãi”.
dụ: Để khẳng định tri thức sức mạnh to lớn trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên, em xin phép đưa ra một ví dụ về Đề tài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh ởng đến
ý định mua thực phẩm an toàn của người tiêu dùng trên điạ bàn thành phố Đà Nẵng”
được thực hiện bởi hai sinh viên Võ Lê Thị Hoa và Võ Nguyễn Thị Ngọc Kim thuộc
khoa Quản trị kinh doanh, trường Đại học Duy Tân. Bắt nguồn từ thực trạng thực
phẩm bẩn tràn lan trên thị trường dẫn đến sức khỏe của người dân bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, Hoa Kim đã dành khá nhiều thời gian để nghiên cứu, khảo sát thị
trường, tìm hiểu mong muốn mua được thực phẩm an toàn của người dân tại thành
phố Đà Nẵng.
Chia sẻ cảm xúc sau khi nhận giải thưởng, sinh viên Ngọc Kim - khoa Quản trị
Kinh doanh, Đại học Duy Tân cho biết: “Chúng em thực sự rất vui khi thành quả
nghiên cứu khoa học của mình được ghi nhận được trao thưởng. Mục tiêu ban đầu
khi gửi đề tài dự thi mong muốn được giao lưu học hỏi tìm hiểu các hướng
nghiên cứu mới trong lĩnh vực Tài chính - Doanh nghiệp. Bởi vậy, khi được trao giải
Ba, chúng em rất vui và lấy đó làm động lực để nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc phát
triển mở rộng đề tài nghiên cứu. Qua đây, nhóm chúng em muốn gửi lời cảm ơn
đến lãnh đạo Đại học Duy Tân đã tạo điều kiện để chúng em hội tiếp cận với
các sân chơi học thuật lớn, trau dồi thêm kiến thức, kỹ năng và rèn luyện bản lĩnh cho
chính mình”.
2.Tình cảm, ý chí trong quá trình sinh viên phát huy sức mạnh của tri thức Như
đã tìm hiểu ở trên, thể nói tri thức, tình cảm ý chí có mối quan hệ biện chứng,
kết hợp chặt chẽ với nhau, liên quan ảnh hưởng lẫn nhau. Bởi vậy trong quá
trình sinh viên phát huy sức mạnh của tri thức, ảnh hưởng của tình cảm, ý chí ng
góp vai trò vô cùng quan trọng.
Tình cảm có vai trò quan trọng trong cuộc sống và hoạt động của con người. Tình
cảm thúc đẩy con người hoạt động, vượt qua những khó khăn trở ngại gặp phải trong
quá trình hoạt động. Sự thành công của mọi việc ít nhiều phụ thuộc vào thái độ của
con người đối với công việc đó. Tình cảm luôn là động lực, là yếu tố thúc đẩy tri thức
phát triển mạnh mẽ. kích thích sự tìm tòi, sáng tạo giúp cho vốn tri thức ngày càng
lớn mạnh. Đối với sinh viên, khi được học tập chuyên ngành, lĩnh vực mình yêu
thích thì tri thức lúc ấy sẽ được phát huy một cách mạnh mẽ, sinh viên sẽ luôn học
tập không ngừng nghỉ và rất hăng say. Tuy nhiên, dù ở mức độ nào thì tình cảm cũng
mang tính hai mặt, nghĩa tính chất đối lập nhau: vui, buồn; yêu, ghét… Một sinh
viên, nếu không có đam mê với lĩnh vực mà mình nghiên cứu, học tập thì có cố gắng
lOMoARcPSD| 44985297
8
nỗ lực hay bất kể dùng biện pháp nào cũng không tạo ra được hiệu quả cao và dễ gây
nhàm chán và dẫn đến bỏ cuộc.
Tất cả mọi việc trên đời này đều không phải dễ dàng thành công được, để
được thành công, chúng ta cần phải có ý chí theo đuổi mục tiêu. Ý chí là sự nhẫn nại,
cố gắng, quyết tâm vươn lên, theo đuổi mục tiêu của mình cho dù gặp phải nhiều khó
khăn, trở ngại thậm chí vấp ngã. Bởi vậy ý chí thể coi yếu tố quan trọng
nhất quyết định đến sự thành công của mỗi người. Đối với sinh viên, ý chí biểu
hiện của động thực hiện hành động học tập mục đích đúng đắn, đòi hỏi sinh
viên phải nỗ lực khắc phục khó khăn mới thể đạt được mục đích học tập. Nếu sinh
viên trong mình mong muốn thực hiện các mục đích đúng đắn ấy, ý chí khắc
phục mọi khó khăn trong rèn luyện học tập thì sẽ tạo động thôi thúc việc lĩnh
hội tri thức cho bản thân. Bởi vì khi mỗi sinh viên hiểu được giá trị chân chính của ý
chí, của động học tập của nh thì đó chính việc lĩnh hội làm giàu nhân cách
cho bản thân, học tập lấy cái tính chất tốt đẹp, loại bỏ cái xấu xa; học tập để lấy cái
cao thượng, bỏ đi cái thấp kém. Một khi sinh viên có ý chí vươn lên trong học tập thì
sẽ có được thành công ngược lại, khi không đủ ý chí để vượt qua khó khăn trong
sự nghiệp học hành của mình thì chắc chắn sẽ là một người thất bại.
3.Thực trạng sinh viên Việt Nam hiện nay trong việc lĩnh hội phát huy sức
mạnh tri thức a,Tích cực
Khi nhắc đến con người Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng, mỗi
người chúng ta thường nghĩ đến đức tính siêng năng cần cù, chịu thương chịu khó.
Sinh viên Việt Nam được thừa hưởng một truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đó là
truyền thống hiếu học. Thực trạng hiện nay, nhìn chung các học sinh, sinh viên trên
mọi miền đất nước đã có cái nhìn đúng đắn về giá trị của tri thức. Sinh viên luôn ham
học hỏi, ham hiểu biết, khao khát tìm tòi, khám phá chân trời tri thức, say với
những điều mới lạ. Ham học, ham hiểu biết chính động lực cho việc lĩnh hội tri
thức của sinh viên. Vậy sinh viên đã lĩnh hội và phát huy sức mạnh tri thức như thế
nào?
Nói về sinh viên, đó những con người sáng tạo, năng động, là những người tiên
phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi mới về kinh tế, giáo dục…Trong đầu họ
luôn chứa đầy các ý tưởng độc đáo và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các ý tưởng ấy
thành hiện thực. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh, ng chế và không
ít trong số những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu
ích trong đời sống thực tiễn nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cũng như khắc phục khó khăn
cho đời sống người dân.
Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương pháp học sao cho lượng
kiến thức hthu được tối đa như đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ
nhiều nguồn khác nhau… Phần lớn sinh viên đều có khả năng thích nghi cao với mọi
môi trường sinh sống và học tập. Không chỉ học tập trong một phạm vi hẹp trường,
lOMoARcPSD| 44985297
9
lớp, sinh viên ngày nay luôn phát huy tinh thần học tập mọi lúc, mọi nơi. Không
chỉ lĩnh hội tri thức nhân loại, sinh viên Việt Nam còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp
trong mọi lĩnh vực khác nhau như văn hoá, nghệ thuật…
Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện việc tích cực tham gia các hoạt
động hội như y tế, tình nguyện…Ngoài giờ học, những sinh viên tuyên truyền hiến
máu nhân đạo lại ngược xuôi đi lại mang kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi
nhà…Bằng sự năng động và sáng tạo của mình, sinh viên luôn tự cập nhật thông tin,
kiến thức, làm mới mình để phù hợp với sự thay đổi và phát triển của xã hội.
Một biểu hiện tích cực nữa trong lối sống của sinh viên Việt Nam hiện nay là phong
cách tự khẳng định chính mình. Phải thực sự có tri thức đtự tin thì mới dám tự
khẳng định mình. Sánh ngang vai cùng các tầng giới khác, sinh viên Việt Nam luôn
tạo ra được thế đứng cho mình. trong bất lĩnh vực nào, sinh viên cũng tự tin
vào năng lực của mình. Họ đã chứng minh cho tất cả mọi người thấy được sức mạnh,
vai trò to lớn của họ trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. b,Hạn chế
Bên cạnh đó, cũng không ít sinh viên đánh giá, nhìn nhận sai về sức mạnh của tri
thức. Họ học hành chống đối, xem việc tích luỹ tri thức là việc làm không cần thiết.
Ngoài ra còn một số thành phần có cái nhìn hạn hẹp, chỉ đề cao giá trị đồng tiền
quên đi tầm quan trọng mà học vấn mang lại. “Học để thi”, “Học để có được một
tấm bằng đẹp”, “Học để có được công việc nhàn hạ về sau”…là những câu nói của
không ít các bạn sinh viên ngày nay. Chính vì thế ra trường, khi có được công việc
ổn định, họ đã thực sự quên đi sức mạnh của tri thức đem lại, quên đi việc mình vẫn
cần phải đọc, vẫn cần học và trau dồi kiến thức.
4.Giải pháp cho sinh viên để trở thành con người có tri thức và phát huy tối đa
sức mạnh của tri thức
Để trở thành một người đầy đủ trình độ tri thức khoa học, tri thức chuyên ngành,
có phẩm chất, lối sống trong sáng, đúng mực thì bắt buộc sinh viên phải nhận thức rõ
được nhiệm vụ của nh khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Bản thân sinh viên phải
nỗ lực học tập tích luỹ, phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn kiến thức khoa họcbản,
biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức đó vào giải quyết những vấn đề hiệu quả
trong học tập và trong cuộc sống, tự giác tu dưỡng, rèn luyện để vững vàng về tư duy
khoa học, phát triển tư duy cá nhân của bản thân.
Trong việc đào tạo sinh viên thì sự tác động của giảng viên chđiều kiện cần, còn
nỗ lực của chính bản thân sinh viên mới là điều kiện đủ để phát triển năng lực tư duy
nhân. Chỉ khi sinh viên tự giác, chủ động tìm tòi, đam khám phá, lĩnh hội tri
thức vốn sống, duy logic thì sinh viên mới thực sự khả năng nâng cao trình độ
và năng lực tư duy của mình.
Để phát huy năng lực tư duy, sinh viên phải tự trang bị cho mình vốn tri thức logic
học, không ngừng rèn luyện thực tiễn, tích cực học tập rút ra những bài học kinh
nghiệm cho bản thân để từng bước phát triển hoàn thành nhân cách nghề nghiệp
lOMoARcPSD| 44985297
10
tương lai. Ngoài ra sinh viên cần đổi mới phương pháp tự học, tự m tòi khám p
đạt hiệu quả. Ý thức tự học của sinh viên phụ thuộc vào năng lực và phương pháp
học của mỗi sinh viên đó. Càng hiểu bài thì sinh viên sẽ càng say mê, yêu thích
dành nhiều thời gian để nghiên cứu môn học.
Để sức mạnh của tri thức có thể phát huy được một cách tối đa, nghĩa sự kết
hợp cả ba yếu tố tri thức – tình cảm – ý chí thì trước khi bắt tay vào một công việc gì,
sinh viên nên tự đặt ra câu hỏi cho mình rằng: Mình yêu thích công việc đó hay
không? Bởi nếu sự yêu thích niềm đam vào công việc đó, sinh viên sẽ tự
hình thành ý chí quyết tâm, nỗ lực để hoàn thành mục tiêu mình đề ra từ đó hiệu quả
công việc được phát huy một cách tốt nhất.
KẾT LUẬN
Tri thức là hành trang thiết yếu mà mỗi người cần có trên đường đời, là vốn hiểu biết
không bao giờ có thể cạn kiệt. Tri thức giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, dũng cảm
tự tin hơn khi tham gia vào các hoạt động hội. Chúng ta đang những người
trẻ, những hy vọng tương lai của nước nhà bởi vậy cần hiểu được tầm quan trọng
của tri thức, cố gắng học tập thật giỏi, trau dồi, rèn luyện cả đạo đức, tri thức để phát
triển toàn diện. một sinh viên, cần trau dồi tri thức để mang đến sức mạnh cho
chính mình, cho quốc gia, dân tộc mình. Bản thân em cũng luôn cố gắng rút ra những
kinh nghiệm, những bài học quý giá từ sách vở, từ cuộc sống xung quanh mình bởi
tận sâu em luôn ghi nhớ rằng, đó chính hành trang quan trọng nhất quyết định
tương lai sau này. em mong không chỉ riêng bản thân em các bạn khác cũng
vậy, phải hiểu được tầm quan trọng của tri thức mang lại đừng bao giờ trì hoãn
việc học dù chỉ một giây!
lOMoARcPSD| 44985297
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.GS.TS. Phạm Văn Đức, Giáo trình triết học Mác – Lênin (Trình độ Đại học – Khối
các ngành ngoài lý luận chính trị), Hà nội – 2019
2.Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin (Dùng trong các trường
đại học, cao đẳng)
3.Tri thức trong Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tri_thức, truy cập ngày 01/12/2021
4.Báo thanh niên https://thanhnien.vn/sinh-vien-duy-tan-gianh-nhieu-giai-sinh-vien-
nghien-cuu-khoahoc-cap-bo-nam-2019-post914828.html, truy cập ngày 05/12/2021
5.Trang thông tin điện tử Tạp chí Cộng sản
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/820152/cach-
mangkhoa-hoc---cong-nghe-hien-dai-va-nen-kinh-te-tri-thuc.aspx, truy cập ngày
03/12/2021
MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.............................................................................................2
I/ Quan điểm của triết học Mác- Lênin về tri thức, vai trò của tri thức.............2
lOMoARcPSD| 44985297
Downloaded by Ho Thi
Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)
1.1 Khái niệm về tri thức..................................................................................2
1.2 Mối quan hệ giữa tri thức, tình cảm và ý chí.............................................3
1.2.1 Khái niệm về tình cảm, ý chí................................................................3
1.2.2 Mối quan hệ giữa tri thức, tình cảm, ý chí..........................................3
1.3 Vai trò của tri thức......................................................................................4
1.3.1 Vai trò của tri thức đối với hoạt động của con người..........................4
1.3.2 Vai trò của tri thức trong sự phát triển của xã hội..............................4
II/Sự vận dụng quan điểm của triết học Mác Lênin về tri thức, vai trò
của tri thức trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên.....................................................6
2.1 Vai trò của tri thức trong nghiên cứu, học tập của sinh viên....................6
2.2 Tình cảm, ý chí trong quá trình sinh viên phát huy sức mạnh của tri thức
...........................................................................................................................8
2.3 Thực trạng sinh viên Việt Nam hiện nay trong việc lĩnh hội và phát huy
sức mạnh tri thức..............................................................................................8
2.3.1 Tích cực................................................................................................8
2.3.2 Hạn chế................................................................................................9
2.4 Giải pháp cho sinh viên để trở thành con người có tri thức và phát huy
tối đa sức mạnh của tri thức...........................................................................10
PHẦN III: KẾT
LUẬN.........................................................................................11 TÀI LIỆU
THAM KHẢO.........................................................................................

Preview text:

lOMoAR cPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài “Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và sự
vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên”
Họ và tên: Nguyễn Thanh Thảo Mã sinh viên: 11216911
Lớp tín chỉ: Triết học Mác – Lênin (221)_30
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng Hà Nội , ngày 13/05/2022 lOMoAR cPSD| 44985297 LỜI MỞ ĐẦU
Tri thức là một nhân tố vô cùng thiết yếu tạo nên sự giàu mạnh của một quốc gia,
dân tộc, là nền tảng cho sự phát triển. Trong bất kì xã hội hay thời kỳ nào thì tri thức
đều mang vai trò vô cùng quan trọng. Đặc biệt, trong xã hội ngày nay, tri thức thực
sự ngày càng khẳng định được vai trò lớn của mình đối với đời sống con người. Một
xã hội sẽ lạc hậu, không có sự phát triển là xã hội đó còn xuất hiện những con người
không có tri thức, một thành phần thừa trong xã hội.
Mặt khác, tri thức còn được biết đến là nhân tố cơ bản và cốt lõi nhất để cấu thành
nên ý thức – một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Hoạt động
nghiên cứu và học tập của sinh viên cũng là một trong những thành phần của đời sống
xã hội và sự thành, bại của nó cũng góp phần vào công cuộc phát triển đời sống xã
hội. Để trở thành công dân có tri thức tốt không phải ngày một ngày hai, mà cần một
quá trình dài, cần sự quyết tâm cao, có được tri thức cho bản thân chính là một lợi thế
tốt để mọi người có nhiều cơ hội trong cuộc sống tốt đẹp. Vậy nên, khi còn là một
sinh viên, em càng phải nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng cũng như sức mạnh của
tri thức đối với bản thân sinh viên nói riêng và sự phát triển của toàn thể xã hội nói
chung. Nhận thấy rõ sự cần thiết này, em xin phép chọn đề tài số 1: “Quan điểm của
triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm
đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên”
. Với kiến thức hạn chế của bản thân,
trong quá trình làm bài không khỏi tránh được những thiếu sót, em mong cô đóng góp
ý kiến để bài làm của em được hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn! NỘI DUNG
I/ Quan điểm của triết học Mác- Lênin về tri thức, vai trò của tri thức
1.Khái niệm về tri thức

Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu có tư duy
thì lúc đó đã có tri thức. Điểm khác biệt lớn nhất giữa con người và động vật là ở chỗ
con người có khả năng tích lũy các kinh nghiệm, hình ảnh tri thức. Nói đến tri thức
là nói đến học vấn, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. Sự hình thành và phát
triển của ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con người nhận biết và cải tạo
thế giới tự nhiên. Nhờ có quá trình lĩnh hội tích lũy, sử dụng và truyền thụ tri thức đã
làm cho con người vượt lên trên muôn loài, đứng ở đỉnh cao của bậc thang tiến hóa.
Con người tích lũy được càng nhiều tri thức thì ý thức thật cao, càng đi sâu vào bản
chất sự vật và cải tạo thế giới có hiệu quả hơn. Trải qua một thời gian dài phát triển
của lịch sử, cho đến những thập kỉ gần đây, tri thức và vai trò của nó đối với đời sống
xã hội mới được đề cập nhiều. Vậy tri thức là gì?
Có rất nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng có thể hiểu: “Tri thức là kết quả
quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng
những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức
ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác”. 1 lOMoAR cPSD| 44985297
Theo C.Mác, “phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì tồn tại
đối với ý thức là tri thức…, cho nên một cái gì đó nảy sinh ra đối với ý thức, chừng
nào ý thức biết cái đó”. Tri thức có nhiều loại khác nhau như tri thức về tự nhiên, xã
hội, con người. Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như: Tri thức thông thường được
hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính trực
tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức khoa học phản ánh trình độ của con người đi sâu
nhận thức thế giới hiện thực.
Tri thức có hai dạng tồn tại chính là tri thức ẩn và tri thức hiện:
+ Tri thức hiện: là những tri thức được giải thích và mã hóa dưới dạng văn bản,
tài liệu, âm thanh, phim, ảnh,… thông qua ngôn ngữ có lời hoặc không lời, nguyên
tắc hệ thống, chương trình máy tính, chuẩn mực hay các phương tiện khác. Đây là
những tri thức đã được thể hiện ra ngoài và dễ dàng chuyển giao, thường được tiếp
nhận qua hệ thống giáo dục và đào tạo chính quy.
+ Tri thức ẩn: là những tri thức thu được từ sự trải nghiệm thực tế, dạng tri thức
này thường ẩn trong mỗi cá nhân và rất khó "mã hóa" và chuyển giao, thường bao
gồm: niềm tin, giá trị, kinh nghiệm, bí quyết, kỹ năng...
Ví dụ: Trong các bộ môn thể thao như đánh cầu, bơi lội… các vận động viên
chuyên nghiệp có khả năng cảm nhận, kĩ năng tốt. Đây được coi là một dạng tri thức
ẩn bởi nó nằm trong cá nhân mỗi vận động viên. Nó không thể "mã hóa" thành văn
bản, không thể chuyển giao, mà người ta chỉ có thể có được bằng cách tự mình luyện
tập, tự mình trau dồi hàng ngày.
Ngày nay, vai trò động lực của tri thức đối với sự phát triển kinh tế xã hội trở nên
rõ ràng, nổi bật. Loài người đang bước vào nền kinh tế tri thức – là nền kinh tế trong
đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự
phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức, đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức,
dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, vì vậy, đầu tư vào tri thức
trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn.
2.Mối quan hệ giữa tri thức, tình cảm và ý chí
a,Khái niệm về tình cảm, ý chí
Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh tồn tại, nó phản ánh quan hệ
giữa người với người và quan hệ giữa người với thế giới khách quan. Tình cảm xuất
hiện và trở thành một trong những động lực quan trọng trong hoạt động của con
người. Sự hoà quyện giữa tri thức với tình cảm và trải nghiệm thực tiễn đã tạo nên
tính bền vững của niềm tin, thôi thúc con người hành động để vươn lên trong mọi
hoàn cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con
người, là một yếu tố phát huy sức mạnh, là động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Tình cảm luôn dành cho, luôn hướng đến một đối tượng nhất định. 2 lOMoAR cPSD| 44985297
Ý chí chính là những cố gắng, nỗ lực, khả năng huy động mọi tiềm năng trong mỗi
con người vào hoạt động có thể vượt qua mọi trở ngại đạt mục đích đề ra. Ý chí là
một phẩm chất tâm lí cá nhân, một thuộc tính tâm lí của nhân cách. Ý chí còn phản
ánh mục đích của hành động, mục đích hành động do các điều kiện của hiện thực
khách quan quy định. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện của
ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được mục đích của hoạt động nên
tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Giá trị chân chính
của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở
nội dung, ý nghĩa của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: “ý chí là một
trong những yếu tố tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu
tranh giai cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại”.
b,Mối quan hệ giữa tri thức, tình cảm, ý chí
Tri thức, tình cảm và ý chí đều là ba lớp cấu trúc của ý thức, chúng có mối quan
hệ biện chứng, kết hợp chặt chẽ với nhau, liên quan và ảnh hưởng lẫn nhau. Trong đó
tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất của ý thức, nó tác động trực tiếp hay còn là tiền
đề của tình cảm và ý chí. Nếu tình cảm và ý chí không đi kèm với tri thức thì tình
cảm và ý chí lúc đó sẽ trở nên mù quáng, không có mục đích nội dung rõ ràng. Ngược
lại nếu tri thức mà không đi kèm với tình cảm và ý chí thì nó cũng sẽ không được
khai thác và sử dụng triệt để. Sự hòa quyện giữa tri thức với tình cảm và ý chí tạo nên
tính bền vững của niềm tin thôi thúc con người hoạt động vươn lên trong mọi hoàn
cảnh. Tri thức kết hợp với tình cảm tạo nên niềm tin, rồi từ niềm tin đó sẽ kết hợp với
ý chí để đưa bản thân hoàn thành mục tiêu cá nhân.
Ví dụ: Kỳ thi Đại học được biết đến là một trong những kỳ thi vô cùng quan trọng,
quyết định tương lai của mỗi người và mỗi cá nhân phải trải qua những giai đoạn vô
cùng khó khăn. Tuy nhiên, với những con người có ý chí mạnh mẽ và sự quyết tâm
cao luôn học tập, rèn luyện không ngừng và hơn hết là niềm yêu thích, đam mê lĩnh
vực ngành nghề mình lựa chọn thì họ sẽ có đủ lượng tri thức cũng như niềm tin, sự
hứng thú để chinh phục hết những khó khăn của kỳ thi và có khả năng thi đỗ vào ngôi
trường, ngành nghề mình mong muốn.
3.Vai trò của tri thức a,Vai trò của tri thức đối với
hoạt động của con người
*Tri thức trong sự hình thành con người
Thuyết tiến hoá đã chỉ ra rằng: Do có sự đột biến của chuỗi cấu trúc ADN trong
gen của các loài sinh vật, chúng ta sẽ tiến hoá thành những sinh vật bậc cao hơn.
Trong thế giới sinh vật trên trái đất hiện nay, các nhà khoa học đều công nhận rằng
loài người là loài duy nhất có tri thức, hay nói cách khác trước khi xuất hiện loài
người thì chưa hề xuất hiện tri thức.
*Tri thức trong hoạt động thực tiễn của con người 3 lOMoAR cPSD| 44985297
Nói về vai trò của tri thức, Lênin cho rằng: “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức
người đó có sức mạnh”. Sức mạnh của tri thức là khả năng làm thay đổi thế giới của
tri thức thông qua sự vận dụng tri thức của con người trong các hoạt động nghiên cứu,
lao động và sản xuất. Nhờ biết tích luỹ tri thức mà con người mới có thể hiểu được
bản chất của thế giới khách quan, vận dụng tri thức để từng bước làm chủ tự nhiên và cuộc sống của mình.
Tri thức giúp con người xác định đúng đắn được mục tiêu, dự kiến được sự phát
triển và vận động của sự vật trong tương lai, dự báo những phương hướng mới cho
sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở
nên linh hoạt hơn, tự giác hơn, tránh sự mò mẫm, tự phát, mất phương hướng.
Tri thức giúp cho con người có phương hướng hành động phù hợp. Như chúng ta
đã biết, bản thân ý thức không tự thay đổi được trong hiện thực, ý thức muốn tác động
quay trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con
người thực hiện trong thực tiễn. Chính vì vậy con người phải trang bị cho mình những
tri thức về bản chất, quy luật khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy xác định đúng
đắn mục tiêu và đề ra phương hướng phù hợp.
b,Vai trò của tri thức trong sự phát triển của xã hội
Thế giới đang bước vào một thời đại mới, thời đại mà “Tri thức đã trở thành động
lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, “Tri thức là tài nguyên là tư bản”,… Tri thức
có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri thức thường gắn liền với
sự hình thành của xã hội loài người, tách tri thức ra khỏi xã hội giống như việc tách
những con cá ra khỏi dòng nước để tìm sự thích nghi hay hoạt động của cá. Vai trò
của tri thức trong sự phát triển của xã hội là rất cần thiết và quan trọng, nó tác động
trực tiếp đến các lĩnh vưc của xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá – giáo dục.
*Vai trò của tri thức đối với nền kinh tế
Tri thức là nền tảng, là động lực để thúc đẩy nền kinh tế, là nhân tố đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc góp phần tạo nên mọi thành tựu và tiến bộ trong lịch sử
trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Vào những thời kỳ đầu, nền kinh tế
vẫn còn hết sực thô sơ, lạc hậu, con người được đánh giá dựa trên công sức lao động
cơ bắp của họ. Ngày nay, thông tin và tri thức đã trở thành những đầu vào quan trọng
cho sự phát triển của nền kinh tế. Sự chuyển dịch nguồn lực trong cơ cấu của nền
kinh tế dựa vào tri thức đang mở ra những cơ hội vô cùng to lớn cho các nước đang phát triển.
Tri thức là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Khoa học kĩ thuật ngày phát
triển, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Cách đây hơn 180 năm,
C.Mác đã nhận định, khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bộ Tư
bản, C.Mác khẳng định: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức
xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào đó thành lực lượng sản xuất trực tiếp”.
Khoa học - công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm cả 4 lOMoAR cPSD| 44985297
khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn...) do con người tạo ra và thông qua
con người tác động trở lại đời sống kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò quyết định hàng đầu đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội, là động lực chủ yếu nhất giữ vai trò quyết định đối với sự tăng
trưởng, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. Sự ra đời và phát triển của nền
kinh tế tri thức là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lực lượng sản xuất xã hội.
Đó còn là một nền kinh tế hướng đến sự phát triển bền vững, thân thiện với môi
trường; nền kinh tế làm thay đổi cơ cấu xã hội và thang giá trị xã hội, làm xuất hiện
các cộng đồng dân cư kiểu mới, các làng khoa học, các công viên khoa học, vườn
ươm khoa học... Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức vừa là cơ hội cũng vừa là thách
thức đối với các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Ví dụ: Giá trị của một số công ty công nghệ cao như công ty sản xuất phần mềm
và công ty công nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình
mà còn nằm trong những tài sản vô hình như tri thức và các bằng sáng chế. Ví dụ như
các tài sản vật thể của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá
trị được vốn hoá trên thị trường của công ty này, phần lớn là vốn trí tuệ. Sau 20 năm
thành lập, số nhân viên công ty tăng 6 nghìn lần, thu nhập tăng 370 nghìn lần, 1/10
số nhân viên trở thành triệu phú. Điều đó chứng tỏ nguồn vốn con người là một thành
tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào tri thức.
*Vai trò của tri thức đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức. Người có tri thức là
người có khả năng tư duy lý luận, khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách xác
thực, đúng đắn. Điều này rất quan trọng, một đất nước rất cần những con người như
vậy để điều hành công việc chính trị. Nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia.
Đại hội Đảng VI đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về
nguồn lực con người. Đại hội nhấn mạnh “Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục
vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động chiến lược phát triển con
người đang là chiến lược cấp bách”.
*Vai trò của tri thức đối với văn hoá – giáo dục
Tri thức cũng có vai rất lớn đến văn hoá – giáo dục ở mỗi quốc gia. Nó giúp con
người có được khả năng tiếp cận, lĩnh hội những kiến thức, ý thức của con người
được nâng cao. Do đó nền văn hoá ngày càng lành mạnh. Mỗi con người phải có
những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục, biết về nội dung, phương pháp giáo
dục của các nước khác để ngày một cải thiện nền văn hoá – giáo dục Việt Nam. Từ
đó xây dựng đất nước ngày càng lớn mạnh, phồn vinh, góp phần nâng cao vị thế trên thế giới.
II/Sự vận dụng quan điểm của triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò của tri
thức trong nghiên cứu, học tập của sinh viên
1.Vai trò của tri thức trong nghiên cứu, học tập của sinh viên 5 lOMoAR cPSD| 44985297
Tri thức có vai trò quan trọng trong xã hội nói chung và đối với sinh viên nói riêng.
Đối với sinh viên, tri thức chính là nền tảng cơ bản, cốt lõi trong mọi hoạt động học tập, nghiên cứu.
Trong cuộc sống đời thường, con người tiếp xúc với thiên nhiên, xã hội, phải giải
quyết các công việc thực tế hàng ngày. Bằng các tri giác quan, con người tri giác, cảm
nhận về bản thân, về thế giới xã hội xung quanh, từ đó mà có kinh nghiệm sống,
những hiểu biết mọi mặt. Đó chính là tri thức thông thường. Từ đó ta có thể thấy được
tri thức thông thường là một yếu tố cơ bản nhất của mỗi con người nói chung và bản thân sinh viên nói riêng.
Tri thức có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh hành vi giúp cho sinh viên phân biệt
được đúng, sai hay tốt, xấu và định hướng hành vi theo cái tốt, cái đẹp… Tri thức còn
là bản lề để mỗi bản thân sinh viên cố gắng trong tương lai, là nền móng vững chắc
để phát triển trí tuệ và kĩ năng thực hành, là ngọn đèn soi sáng trong đêm tối, là hành
trang dẫn lối bản thân mỗi sinh viên vào đời. Thiếu tri thức, sinh viên khó phân biệt
được đâu là cái nên làm và đâu là cái cần phải tránh. Thiếu đi sự hiểu biết thì con
người khó có thể làm chủ được hành vi của mình. Một khi không làm chủ được hành
vi của mình thì hiệu quả rất nguy hiểm.
Tri thức còn là sự hiểu biết, sáng tạo, là những khả năng, kĩ năng có thể ứng dụng
vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Đối với sinh viên, tri thức lại càng cần thiết
hơn bao giờ hết. Không có ai không học mà thành tài cả. Tất cả mỗi người muốn có
cuộc sống đủ đầy, muốn nâng cao chất lượng đời sống và muốn sống có ích thì đều
phải học tập. Chính vì vậy tri thức có vai trò như là sản phẩm của hoạt động học tập
và nghiên cứu của sinh viên. Bản chất của quá trình nghiên cứu và học tập của sinh
viên chính là quá trình sinh viên tích luỹ kiến thức chuyên ngành, kiến thức xã hội
và các kĩ năng để sau này có thể áp dụng vào các công việc thực tế giúp phát triển
kinh tế - xã hội. Nếu không có tri thức thì quá trình học tập của sinh viên sẽ không
có nội dung, mục đích rõ ràng vì có thể nói dễ hiểu rằng quá trình nghiên cứu và
học tập của sinh viên là quá trình tích luỹ tri thức.
Như đã tìm hiểu, Mác – Lênin – một nhà tư tưởng vĩ đại, một nhà lý luận chính trị
kiệt xuất đã khẳng định tầm quan trọng của tri thức đối với mỗi cá nhân “Tri thức là
sức mạnh. Ai có tri thức người đó có sức mạnh”. Sức mạnh tri thức làm con người có
thể đảo lộn các trật tự tưởng như nghìn năm bất dịch, làm được bao điều phi thường
trong cuộc sống. Điển hình phải kể đến ở đây là những thí nghiệm và phát hiện của
J.J.Thompson đã mở ra một lĩnh vực khoa học mới – vật lý hạt. Trải qua thời gian,
bằng vốn tri thức của mình, con người đã xây dựng một xã hội loài người văn minh,
tiến bộ tột bậc. Sức mạnh tri thức cũng đã giúp cá nhân em và cũng như rất nhiều
những sinh viên khác có được cuộc sống như ngày hôm nay. Để trở thành những sinh
viên như bây giờ thì chúng ta đều phải tiếp thu những tri thức nhất định, chính vì thế
mà mỗi sinh viên phải không ngừng học hỏi, nghiên cứu, từ đó sáng tạo ra những tri 6 lOMoAR cPSD| 44985297
thức mới. Mỗi sinh viên luôn phải tự trau dồi kiến thức của bản thân thông qua hoạt
động học tập. Học tập phải được diễn ra một cách đều đặn, lâu dài và xuyên suốt
trong mọi quá trình. Học tập ở mọi lúc, mọi nơi và mọi thứ cần thiết. Nói đến đây,
chúng ta một lần nữa nhớ đến và khắc sâu lời văn bất hủ của Lênin đã đi vào lịch sử
nhân loại: “Học, học nữa, học mãi”.
Ví dụ: Để khẳng định tri thức có sức mạnh to lớn trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên, em xin phép đưa ra một ví dụ về Đề tài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến
ý định mua thực phẩm an toàn của người tiêu dùng trên điạ bàn thành phố Đà Nẵng”
được thực hiện bởi hai sinh viên Võ Lê Thị Hoa và Võ Nguyễn Thị Ngọc Kim thuộc
khoa Quản trị kinh doanh, trường Đại học Duy Tân. Bắt nguồn từ thực trạng thực
phẩm bẩn tràn lan trên thị trường dẫn đến sức khỏe của người dân bị ảnh hưởng
nghiêm trọng, Hoa và Kim đã dành khá nhiều thời gian để nghiên cứu, khảo sát thị
trường, tìm hiểu mong muốn mua được thực phẩm an toàn của người dân tại thành phố Đà Nẵng.
Chia sẻ cảm xúc sau khi nhận giải thưởng, sinh viên Ngọc Kim - khoa Quản trị
Kinh doanh, Đại học Duy Tân cho biết: “Chúng em thực sự rất vui khi thành quả
nghiên cứu khoa học của mình được ghi nhận và được trao thưởng. Mục tiêu ban đầu
khi gửi đề tài dự thi là mong muốn được giao lưu học hỏi và tìm hiểu các hướng
nghiên cứu mới trong lĩnh vực Tài chính - Doanh nghiệp. Bởi vậy, khi được trao giải
Ba, chúng em rất vui và lấy đó làm động lực để nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc phát
triển và mở rộng đề tài nghiên cứu. Qua đây, nhóm chúng em muốn gửi lời cảm ơn
đến lãnh đạo Đại học Duy Tân đã tạo điều kiện để chúng em có cơ hội tiếp cận với
các sân chơi học thuật lớn, trau dồi thêm kiến thức, kỹ năng và rèn luyện bản lĩnh cho chính mình”.
2.Tình cảm, ý chí trong quá trình sinh viên phát huy sức mạnh của tri thức Như
đã tìm hiểu ở trên, có thể nói tri thức, tình cảm và ý chí có mối quan hệ biện chứng,
kết hợp chặt chẽ với nhau, liên quan và ảnh hưởng lẫn nhau. Bởi vậy mà trong quá
trình sinh viên phát huy sức mạnh của tri thức, ảnh hưởng của tình cảm, ý chí cũng
góp vai trò vô cùng quan trọng.
Tình cảm có vai trò quan trọng trong cuộc sống và hoạt động của con người. Tình
cảm thúc đẩy con người hoạt động, vượt qua những khó khăn trở ngại gặp phải trong
quá trình hoạt động. Sự thành công của mọi việc ít nhiều phụ thuộc vào thái độ của
con người đối với công việc đó. Tình cảm luôn là động lực, là yếu tố thúc đẩy tri thức
phát triển mạnh mẽ. Nó kích thích sự tìm tòi, sáng tạo giúp cho vốn tri thức ngày càng
lớn mạnh. Đối với sinh viên, khi được học tập chuyên ngành, lĩnh vực mà mình yêu
thích thì tri thức lúc ấy sẽ được phát huy một cách mạnh mẽ, sinh viên sẽ luôn học
tập không ngừng nghỉ và rất hăng say. Tuy nhiên, dù ở mức độ nào thì tình cảm cũng
mang tính hai mặt, nghĩa là tính chất đối lập nhau: vui, buồn; yêu, ghét… Một sinh
viên, nếu không có đam mê với lĩnh vực mà mình nghiên cứu, học tập thì có cố gắng 7 lOMoAR cPSD| 44985297
nỗ lực hay bất kể dùng biện pháp nào cũng không tạo ra được hiệu quả cao và dễ gây
nhàm chán và dẫn đến bỏ cuộc.
Tất cả mọi việc trên đời này đều không phải dễ dàng mà thành công được, để có
được thành công, chúng ta cần phải có ý chí theo đuổi mục tiêu. Ý chí là sự nhẫn nại,
cố gắng, quyết tâm vươn lên, theo đuổi mục tiêu của mình cho dù gặp phải nhiều khó
khăn, trở ngại thậm chí là vấp ngã. Bởi vậy mà ý chí có thể coi là yếu tố quan trọng
nhất quyết định đến sự thành công của mỗi người. Đối với sinh viên, ý chí là biểu
hiện của động cơ thực hiện hành động học tập có mục đích đúng đắn, đòi hỏi sinh
viên phải nỗ lực khắc phục khó khăn mới có thể đạt được mục đích học tập. Nếu sinh
viên có trong mình mong muốn thực hiện các mục đích đúng đắn ấy, có ý chí khắc
phục mọi khó khăn trong rèn luyện và học tập thì sẽ tạo động cơ thôi thúc việc lĩnh
hội tri thức cho bản thân. Bởi vì khi mỗi sinh viên hiểu được giá trị chân chính của ý
chí, của động cơ học tập của mình thì đó chính là việc lĩnh hội làm giàu nhân cách
cho bản thân, học tập lấy cái tính chất tốt đẹp, loại bỏ cái xấu xa; học tập để lấy cái
cao thượng, bỏ đi cái thấp kém. Một khi sinh viên có ý chí vươn lên trong học tập thì
sẽ có được thành công và ngược lại, khi không đủ ý chí để vượt qua khó khăn trong
sự nghiệp học hành của mình thì chắc chắn sẽ là một người thất bại.
3.Thực trạng sinh viên Việt Nam hiện nay trong việc lĩnh hội và phát huy sức
mạnh tri thức a,Tích cực

Khi nhắc đến con người Việt Nam nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng, mỗi
người chúng ta thường nghĩ đến đức tính siêng năng cần cù, chịu thương chịu khó.
Sinh viên Việt Nam được thừa hưởng một truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đó là
truyền thống hiếu học. Thực trạng hiện nay, nhìn chung các học sinh, sinh viên trên
mọi miền đất nước đã có cái nhìn đúng đắn về giá trị của tri thức. Sinh viên luôn ham
học hỏi, ham hiểu biết, khao khát tìm tòi, khám phá chân trời tri thức, say mê với
những điều mới lạ. Ham học, ham hiểu biết chính là động lực cho việc lĩnh hội tri
thức của sinh viên. Vậy sinh viên đã lĩnh hội và phát huy sức mạnh tri thức như thế nào?
Nói về sinh viên, đó là những con người sáng tạo, năng động, là những người tiên
phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi mới về kinh tế, giáo dục…Trong đầu họ
luôn chứa đầy các ý tưởng độc đáo và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các ý tưởng ấy
thành hiện thực. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh, sáng chế và không
ít trong số những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu
ích trong đời sống thực tiễn nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cũng như khắc phục khó khăn
cho đời sống người dân.
Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương pháp học sao cho lượng
kiến thức họ thu được là tối đa như đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ
nhiều nguồn khác nhau… Phần lớn sinh viên đều có khả năng thích nghi cao với mọi
môi trường sinh sống và học tập. Không chỉ học tập trong một phạm vi hẹp ở trường, 8 lOMoAR cPSD| 44985297
lớp, sinh viên ngày nay luôn phát huy tinh thần học tập ở mọi lúc, mọi nơi. Không
chỉ lĩnh hội tri thức nhân loại, sinh viên Việt Nam còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp
trong mọi lĩnh vực khác nhau như văn hoá, nghệ thuật…
Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham gia các hoạt
động xã hội như y tế, tình nguyện…Ngoài giờ học, những sinh viên tuyên truyền hiến
máu nhân đạo lại ngược xuôi đi lại mang kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi
nhà…Bằng sự năng động và sáng tạo của mình, sinh viên luôn tự cập nhật thông tin,
kiến thức, làm mới mình để phù hợp với sự thay đổi và phát triển của xã hội.
Một biểu hiện tích cực nữa trong lối sống của sinh viên Việt Nam hiện nay là phong
cách tự khẳng định chính mình. Phải thực sự có tri thức và đủ tự tin thì mới dám tự
khẳng định mình. Sánh ngang vai cùng các tầng giới khác, sinh viên Việt Nam luôn
tạo ra được thế đứng cho mình. Dù trong bất kì lĩnh vực nào, sinh viên cũng tự tin
vào năng lực của mình. Họ đã chứng minh cho tất cả mọi người thấy được sức mạnh,
vai trò to lớn của họ trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. b,Hạn chế
Bên cạnh đó, cũng không ít sinh viên đánh giá, nhìn nhận sai về sức mạnh của tri
thức. Họ học hành chống đối, xem việc tích luỹ tri thức là việc làm không cần thiết.
Ngoài ra còn một số thành phần có cái nhìn hạn hẹp, chỉ đề cao giá trị đồng tiền mà
quên đi tầm quan trọng mà học vấn mang lại. “Học để thi”, “Học để có được một
tấm bằng đẹp”, “Học để có được công việc nhàn hạ về sau”…là những câu nói của
không ít các bạn sinh viên ngày nay. Chính vì thế ra trường, khi có được công việc
ổn định, họ đã thực sự quên đi sức mạnh của tri thức đem lại, quên đi việc mình vẫn
cần phải đọc, vẫn cần học và trau dồi kiến thức.
4.Giải pháp cho sinh viên để trở thành con người có tri thức và phát huy tối đa
sức mạnh của tri thức
Để trở thành một người có đầy đủ trình độ tri thức khoa học, tri thức chuyên ngành,
có phẩm chất, lối sống trong sáng, đúng mực thì bắt buộc sinh viên phải nhận thức rõ
được nhiệm vụ của mình khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Bản thân sinh viên phải
nỗ lực học tập tích luỹ, phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn kiến thức khoa học cơ bản,
biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức đó vào giải quyết những vấn đề hiệu quả
trong học tập và trong cuộc sống, tự giác tu dưỡng, rèn luyện để vững vàng về tư duy
khoa học, phát triển tư duy cá nhân của bản thân.
Trong việc đào tạo sinh viên thì sự tác động của giảng viên chỉ là điều kiện cần, còn
nỗ lực của chính bản thân sinh viên mới là điều kiện đủ để phát triển năng lực tư duy
cá nhân. Chỉ khi sinh viên tự giác, chủ động tìm tòi, đam mê khám phá, lĩnh hội tri
thức vốn sống, tư duy logic thì sinh viên mới thực sự có khả năng nâng cao trình độ
và năng lực tư duy của mình.
Để phát huy năng lực tư duy, sinh viên phải tự trang bị cho mình vốn tri thức logic
học, không ngừng rèn luyện thực tiễn, tích cực học tập rút ra những bài học kinh
nghiệm cho bản thân để từng bước phát triển và hoàn thành nhân cách nghề nghiệp 9 lOMoAR cPSD| 44985297
tương lai. Ngoài ra sinh viên cần đổi mới phương pháp tự học, tự tìm tòi và khám phá
đạt hiệu quả. Ý thức tự học của sinh viên phụ thuộc vào năng lực và phương pháp
học của mỗi sinh viên đó. Càng hiểu bài thì sinh viên sẽ càng say mê, yêu thích và
dành nhiều thời gian để nghiên cứu môn học.
Để sức mạnh của tri thức có thể phát huy được một cách tối đa, nghĩa là có sự kết
hợp cả ba yếu tố tri thức – tình cảm – ý chí thì trước khi bắt tay vào một công việc gì,
sinh viên nên tự đặt ra câu hỏi cho mình rằng: Mình có yêu thích công việc đó hay
không? Bởi nếu có sự yêu thích và niềm đam mê vào công việc đó, sinh viên sẽ tự
hình thành ý chí quyết tâm, nỗ lực để hoàn thành mục tiêu mình đề ra từ đó hiệu quả
công việc được phát huy một cách tốt nhất. KẾT LUẬN
Tri thức là hành trang thiết yếu mà mỗi người cần có trên đường đời, là vốn hiểu biết
không bao giờ có thể cạn kiệt. Tri thức giúp chúng ta hoàn thiện bản thân, dũng cảm
và tự tin hơn khi tham gia vào các hoạt động xã hội. Chúng ta đang là những người
trẻ, những hy vọng tương lai của nước nhà bởi vậy cần hiểu rõ được tầm quan trọng
của tri thức, cố gắng học tập thật giỏi, trau dồi, rèn luyện cả đạo đức, tri thức để phát
triển toàn diện. Là một sinh viên, cần trau dồi tri thức để mang đến sức mạnh cho
chính mình, cho quốc gia, dân tộc mình. Bản thân em cũng luôn cố gắng rút ra những
kinh nghiệm, những bài học quý giá từ sách vở, từ cuộc sống xung quanh mình bởi
tận sâu em luôn ghi nhớ rằng, đó chính là hành trang quan trọng nhất quyết định
tương lai sau này. Và em mong không chỉ riêng bản thân em mà các bạn khác cũng
vậy, phải hiểu được tầm quan trọng của tri thức mang lại và đừng bao giờ trì hoãn
việc học dù chỉ một giây! 10 lOMoAR cPSD| 44985297
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.GS.TS. Phạm Văn Đức, Giáo trình triết học Mác – Lênin (Trình độ Đại học – Khối
các ngành ngoài lý luận chính trị), Hà nội – 2019
2.Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình triết học Mác – Lênin (Dùng trong các trường đại học, cao đẳng) 3.Tri thức trong Wikipedia
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tri_thức, truy cập ngày 01/12/2021
4.Báo thanh niên https://thanhnien.vn/sinh-vien-duy-tan-gianh-nhieu-giai-sinh-vien-
nghien-cuu-khoahoc-cap-bo-nam-2019-post914828.html, truy cập ngày 05/12/2021
5.Trang thông tin điện tử Tạp chí Cộng sản
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/820152/cach-
mangkhoa-hoc---cong-nghe-hien-dai-va-nen-kinh-te-tri-thuc.aspx, truy cập ngày 03/12/2021 MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.............................................................................................2
I/ Quan điểm của triết học Mác- Lênin về tri thức, vai trò của tri thức.............2
Downloaded by Ho Thi Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn) lOMoAR cPSD| 44985297
1.1 Khái niệm về tri thức..................................................................................2
1.2 Mối quan hệ giữa tri thức, tình cảm và ý chí.............................................3
1.2.1 Khái niệm về tình cảm, ý chí................................................................3
1.2.2 Mối quan hệ giữa tri thức, tình cảm, ý chí..........................................3
1.3 Vai trò của tri thức......................................................................................4
1.3.1 Vai trò của tri thức đối với hoạt động của con người..........................4
1.3.2 Vai trò của tri thức trong sự phát triển của xã hội..............................4
II/Sự vận dụng quan điểm của triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò
của tri thức trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên.....................................................6

2.1 Vai trò của tri thức trong nghiên cứu, học tập của sinh viên....................6
2.2 Tình cảm, ý chí trong quá trình sinh viên phát huy sức mạnh của tri thức
...........................................................................................................................8
2.3 Thực trạng sinh viên Việt Nam hiện nay trong việc lĩnh hội và phát huy
sức mạnh tri thức..............................................................................................8

2.3.1 Tích cực................................................................................................8
2.3.2 Hạn chế................................................................................................9
2.4 Giải pháp cho sinh viên để trở thành con người có tri thức và phát huy
tối đa sức mạnh của tri thức...........................................................................10
PHẦN III: KẾT
LUẬN.........................................................................................11 TÀI LIỆU
THAM KHẢO.........................................................................................
Downloaded by Ho Thi
Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)