Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên | Bài tập lớn môn triết học mác - lênin
Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 23022540
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và
sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên.” Họ và tên. : Phạm Hồng Minh Lớp tín chỉ
: Triết học Mác – Lênin(221)_14 Số thứ tự : 32 Mã sinh viên : 11213911 GV hướng dẫn : TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội, tháng 5 năm 2022 LỜI MỞ ĐẦU
Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản của triết học. Đây là hình thức
cao của sự phản ánh hiện thực một cách khách quan, là hình thức mà chỉ riêng
con người mới có. Ý thức của con người là cơ năng của cái "khối vật chất đặc lOMoAR cPSD| 23022540
biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con người" (theo Lênin). Trong kết cấu
của ý thức, tri thức chính là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất.
Trong bối cảnh biến đổi và phát triển không ngừng của nền khoa học -
công nghệ trên thế giới, nền kinh tế của Việt Nam từ một điểm xuất phát thấp,
với tiềm lực kinh tế - kỹ thuật yếu, liệu có thể đạt được những thành công
trong việc tạo ra nền khoa học - công nghệ đạt chuẩn quốc tế trong thời gian
ngắn hay không? Chúng ta cần đặt ra kế hoạch như thế nào để tránh tụt hậu so
với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra một vấn đề đó
là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học - công nghệ trong
quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn sắp tới. Như vậy có nghĩa là
ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng
nâng cao khả năng nhận thức cho công dân. Và trong công cuộc phát triển đó
không thể bỏ qua hoạt động nghiên cứu và học tập của sinh viên, bởi đây cũng
là một trong những thành phần của đời sống xã hội. Tri thức, giống như
những thực tiễn khác, vừa là kim chỉ nam vừa là động lực của hoạt động
nghiên cứu và học tập của sinh viên.
Với nhận thức của mình về tầm quan trọng của tri thức, trong bài tập
lớn này em chọn đề tài: "Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tri thức, vai
trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của
sinh viên”. Mặc dù đã có nhiều sự học hỏi, cố gắng cũng như cải thiện rất
nhiều, tuy nhiên với lượng kiến thức còn giới hạn của mình chắc chắn bài tập
lớn của em sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được
những đánh giá và đóng góp ý kiến của giáo viên hướng dẫn Lê Thị Hồng để
bài tập lớn của em được hoàn thiện hơn. NỘI DUNG
Phần 1: Quan điểm của Mác - Lênin về tri thức và vai trò của tri thức
1.1. Tri thức trong quan điểm của Mác - Lênin
Tri thức đã tồn tại từ khi nào? Có thể nói từ khi con người bắt đầu hình
thành tư duy thì lúc đó đã có tri thức. Trải qua một thời gian dài phát triển của
lịch sử, cho đến những thập kỷ gần đây thì tri thức và vai trò của nó đối với sự
phát triển của kinh tế - xã hội mới được bàn luận nhiều. Vậy tri thức là gì? Tri
thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm
tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và
diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác. Tri
thức bao gồm những thông tin, số liệu, kiến thức, sự hiểu biết, hay kỹ năng có
được nhờ trải nghiệm, thông qua giáo dục hoặc tự học hỏi. Nó có thể là những
kỹ năng, khả năng thực hành hay sự thông hiểu về một đối tượng nào đó. 1 lOMoAR cPSD| 23022540
Trong lý luận của mác xít về tri thức, việc xác định tầm ảnh hưởng của
tầng lớp tri thức đối với đời sống chính trị là rất quan trọng và thu hút nhiều
sự quan tâm của các nhà kinh điển. Trong bức thư gửi V.I.Daxulich,
Ph.Ăngghen đã nói tới thái độ kiên quyết và lòng nhiệt tình của những người
tri thức dân tộc trong việc "chặt đứt xiềng xích đang giam cầm họ", tức là nền
quân chủ. Ph.Ăngghen khẳng định, "để điều hành bộ máy hành chính và toàn
bộ nền sản xuất xã hội, hoàn toàn không cần những lời nói suông, mà cần
những tri thức vững vàng" (C.Mác và Ph.Ăngghen, tập 22, tr.432).
Hiểu rõ tầm quan trọng của trí tuệ nói chung đối với tiến trình phát
triển, đặc biệt là đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, V.I.Lênin cho
rằng, "tri thức bao hàm không những chỉ các nhà trước tác mà thôi, mà còn
bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những người tự do nói
chung, các đại biểu của lao động trí óc" (V.I.Lênin, tập 8, tr.372). Về người trí
thức, quan niệm của V.I.Lênin cũng rất rõ ràng. Theo V.I.Lênin, “Người trí
thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực theo lối
này hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ chính là sự
hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin của cá nhân
họ..." (V.I.Lênin, tập 8, tr.373). C.Mác thì cho rằng người trí thức là người
sáng tạo tinh thần, sản xuất tinh thần. Đây là bộ phận tinh hoa của xã hội, là
những hiện thân của ý thức xã hội một cách tiêu biểu nhất. Trí thức là một
tầng lớp xã hội đặc biệt chuyên lao động trí óc phức tạp, có trình độ học vấn,
đại diện cho trí tuệ đương thời mà xã hội đạt được. Họ là những người sáng
tạo, phổ biến và vận dụng tri thức vào đời sống xã hội, thúc đẩy nhanh sự phát
triển văn hóa và tiến bộ xã hội.
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, vai trò động lực của tri thức đối với
sự phát triển kinh tế xã hội ngày càng trở nên rõ ràng, nổi bật. Loài người
đang bước vào nền kinh tế tri thức - là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ
cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế. Trong nền kinh tế tri thức, đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa
vào thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, vì vậy, đầu tư vào tri thức
trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn. Sự ra đời của tri
thức gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người do đó khi nghiên cứu,
không thể tách rời tri thức ra khỏi thế giới khách quan.
1.2. Vai trò của tri thức:
1.2.1. Đối với kinh tế:
Tri thức là nền tảng, là động lực để phát triển kinh tế, là nhân tố đóng
vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần tạo nên mọi thành tựu và tiến 2 lOMoAR cPSD| 23022540
bộ trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Tri thức là nhận thức và
kinh nghiệm mà loài người thu được trong quá trình cải tạo thế giới. Do vậy
trong bất kì giai đoạn nào con người cũng luôn ứng dụng tri thức vào việc
phát triển kinh tế. Trong các hình thái kinh tế khác nhau, mức độ tri thức được
ứng dụng sâu rộng cũng khác nhau, cho nên tác dụng cũng khác nhau.
Từ những năm 70 của thế kỉ XX trở lại đây, tiến bộ của khoa học kỹ
thuật dần trở thành yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế. Đầu thế kỉ XX,
nhân tố khoa học kỹ thuật mới chỉ chiếm 5% -20% trong sự tăng trưởng của
GDP, đến thập kỷ 50 đến 60 tỷ lệ này là 50%, và đến thập kỷ 80 lên tới 80%.
Trong khoảng thời gian xuất hiện những máy móc, động cơ thì con người lại
sử dụng chúng cho quá trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, tiết
kiệm chi phí, nhân lực đạt được hiệu quả cao hơn, thu được lợi nhuận lớn hơn.
Ngày nay, tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp, là nguồn lực quan trọng
nhất, đóng vai trò đầu tàu trong nền kinh tế. Tri thức được áp dụng vào sản
xuất của cải vật chất, là động lực phát triển nền kinh tế. Thời thế, vì vậy, đòi
hỏi lực lượng lao động có chất xám, kỹ thuật, tay nghề, được đào tạo bài bản
ngày càng cao. Nói cách khác, tri thức khoa học được ứng dụng, được vật hóa
thành máy móc, thành công cụ sản xuất và được người lao động sử dụng trong
quá trình sản xuất, do đó, nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều kiện
để tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp đã được C.Mác
khẳng định như sau: “Sự phát triển của hệ thống máy móc trên con đường ấy
chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt được một trình độ phát triển cao
hơn và tất cả các môn khoa học đều được phục vụ tư bản, còn bản thân hệ
thống máy móc hiện có thì có những nguồn lực to lớn. Như vậy, phát minh trở
thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề đó thì việc vận dụng khoa học vào
nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất
quyết định và kích thích”.
Cạnh tranh trên thế giới ngày nay chủ yếu dựa trên cơ cở khoa học, đặc
biệt là khoa học kỹ thuật cao. Chính bởi vậy mà đất nước có nền kinh tế phát
triển hay không hầu như phụ thuộc vào vốn tri thức của con người. Một ví dụ
cho điều này là trong những năm vừa qua, chất lượng tăng trưởng của Việt
Nam được cải thiện, năng suất lao động nâng lên rõ rệt nhờ có sự đóng góp
của yếu tố tri thức. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng
trưởng tăng từ 33,6% giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020,
tính chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 39,0% (vượt mục tiêu 35%). Tỉ trọng giá
trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị hàng hoá tăng từ 19%
năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu - GII
tăng 17 bậc trong giai đoạn 2016 - 2020, đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á, 3 lOMoAR cPSD| 23022540
đứng đầu trong số các quốc gia ở mức thu nhập trung bình thấp. Trong bối
cảnh đại dịch COVID-19 tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã
hội, khi nhiều nước rơi vào suy thoái, Việt Nam nằm trong nhóm ít các quốc
gia duy trì tăng trưởng dương, kiểm soát tốt dịch bệnh, đạt nhiều kết quả ấn
tượng. Với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2020 tăng 2,91%, Việt Nam
thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong thành tựu chung đó,
có đóng góp quan trọng của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
1.2.2. Đối với chính trị:
Xã hội ngày càng phát triển, sánh vai với các cường quốc trên thế giới
là nhờ một phần rất lớn từ bộ máy chính trị nhà nước - được coi là đầu não
của một quốc gia. Để điều hành xã hội đi đến thời đại mới, gần hơn với chế
độ xã hội chủ nghĩa thì bộ máy ấy là sự đóng góp của vô vàn tri thức được
tích luỹ ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực là một chân trời tri thức mà
con người luôn khao khát vươn tới, được lĩnh hội một cách trọn vẹn và từ
những hiểu biết đó họ kiến tạo thành những ý tưởng, xây dựng những bước đi
vững mạnh, đưa ra những chính sách thiết thực nhằm đóng góp vào sự phát
triển mọi mặt của cuộc sống, từ đó góp phần thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng
của dân tộc và của xã hội loài người nói chung. Chính vì vậy mà bộ máy
chính trị của mỗi quốc gia luôn phải tuyển chọn những con người học rộng tài
cao, đức độ trung thành với mục tiêu xã hội.
Trong bối cảnh thế giới thay đổi và đứng trước nhiều thách thức như
vậy, nếu nước ta muốn rút ngắn được khoảng cách với các nước phát triển và
hướng đến mục tiêu năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập
cao thì khâu đột phá đầu tiên phải được tính đến là đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng một cách thật hiệu quả nguồn nhân lực, đặc biệt là phải hết sức tôn trọng
nguồn nhân lực có chất lượng cao, nhất là tầng lớp tri thức tinh hoa của dân
tộc. Nói cách khác, muốn cho đất nước phát triển chúng ta phải tạo điều kiện
bồi dưỡng những người tài cho từng lĩnh vực của hoạt động xã hội; phải thật
sự trọng dụng người tài; phải biết dùng người tài đúng lúc, đúng chỗ và
không kém phần quan trọng là có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với người
tài nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ cho các lĩnh vực sáng tạo khoa học, phát
minh, sáng chế, công nghệ, điều hành, quản lý và tổ chức xã hội.
Nhìn lại hơn 4000 năm lịch sử của dân tộc có thể thấy, ông cha ta qua
bao đời rất coi trọng người hiền tài, quý trọng tri thức. Nội dung bia Tiến sĩ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (năm 1442) tại Văn Miếu
Quốc Tử Giám (Hà Nội) do Thân Nhân Trung soạn, từng khắc ghi rằng, hiền
tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, 4 lOMoAR cPSD| 23022540
nguyên khí kém thì thế nước kém và suy, cho nên các đấng thánh đế minh
vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí.
Trong giai đoạn Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, nhiều cuộc khởi
nghĩa, đấu tranh diễn ra mạnh mẽ nhưng đều thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước ngày 5 tháng 6 năm 1911. Suốt 30
năm bôn ba nước ngoài, Người trở về với vốn tri thức học thuyết cách mạng
mà mình đã tiếp thu và nghiên cứu để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Kế tục truyền thống lâu đời coi trọng người hiền tài đó của dân tộc, trong quá
trình lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của nhân dân ta (1946- 1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
rất chú trọng việc bồi dưỡng, sử dụng trí thức và trọng dụng nhân tài thuộc tất
cả các lĩnh vực. Đây cũng là quan điểm xuyên suốt của các tác gia kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày 19/12/1893, trong thư Gửi Đại hội quốc tế
các sinh viên xã hội chủ nghĩa, Ph. Ăng-ghen đã nêu ra một luận điểm rất
đáng chú ý và cũng là lời nhắn gửi đến các thế hệ sau rằng, trong “sự nghiệp
giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kĩ sư, nhà hóa
học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý
không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa”.
Còn theo V.I. Lê-nin, xã hội càng phát triển thì “ngày càng cần nhiều đến tầng
lớp trí thức”. Với vốn tri thức sâu rộng, tư tưởng đổi mới, khả năng lãnh đạo
tài tình, Bác cùng với toàn thể nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn trước thực dân Pháp.
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò
của trí thức và có nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí thức phát triển
nhanh về số lượng và nâng lên về chất lượng, phát huy vai trò trên mọi lĩnh
vực đời sống xã hội. Nghị quyết số 27-NQ/TU, ngày 6/8/2008, của Hội nghị
Trung ương 7 khóa X, về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” khẳng định đội ngũ trí thức là lực
lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức, là nguồn lực đặc biệt quan
trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Ðảng
cũng ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề
để tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà
nước đã thực hiện các chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống
đào tạo, nghiên cứu, đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ, các chính
sách sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức, chính sách đãi
ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh
khoa học và các danh hiệu cao quý, thu hút trí thức người Việt Nam ở nước 5 lOMoAR cPSD| 23022540
ngoài... Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khi xác định các đột phá chiến lược
phát triển đất nước giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo (tầm nhìn
2030, 2045), đã nhấn mạnh tới nhiệm vụ đào tạo nhân lực chất lượng cao và
yêu cầu cần có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài cả trong và
ngoài nước, góp phần đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia một cách toàn
diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số trong bối cảnh mới. Từ đó có
thể thấy được tầm quan trọng của tri thức đối với chính trị.
1.2.3. Đối với đời sống xã hội:
Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri
thức thương gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người. Do đó tri thức
gắn liền với xã hội. Khi con người có tri thức, có hiểu biết, am hiểu sâu rộng
tới mọi vấn đề hay lĩnh vực xã hội, thì dễ dàng thực hiện được những mục
tiêu, ham muốn, ước nguyện của bản thân, chỉ có tri thức được lấy bằng chính
mồ hôi công sức thì mới mang lại được hiệu quả. Và hiển nhiên, một xã hội
với những con người thành đạt giúp xã hội phát triển không ngừng về tri thức.
Đơn giản xã hội được hợp thành bởi cá nhân, nhưng sự kết hợp mang lại hiệu
quả thì cần quá trình rèn luyện không ngừng đối với thế hệ trẻ, việc học tập
như nào, trau dồi bản thân ra sao để tri thức mình mang lại cho xã hội có sự
đóng góp hiệu quả nhất.
Nhu cầu xã hội ngày càng nâng cao, việc đáp ứng nhu cầu đòi hỏi mỗi
người cần phải có, đặc biệt nhu cầu trong giáo dục và trách nhiệm của học
sinh sinh viên là quan trọng. Con người có tri thức, kiến thức và nhận thức tốt,
làm chủ tri thức bản thân là chủ trong cách sống của mình, biết bản thân mình
làm gì, biết được nhu cầu xã hội đang đòi hỏi gì ở chính các bạn trẻ, mà
không ngừng học hỏi. Vai trò của tri thức trong việc phục vụ những yêu cầu
của xã hội, cũng góp phần trong việc thể hiện khả năng bản thân mình ở xã
hội không ngừng phát triển lớn mạnh. Khi trở thành con người có tri thức thì
sống theo chuẩn mực đạo đức tốt, giữ gìn cũng như phát huy được những giá
trị văn hóa tốt đẹp ông cha ta để lại. Nếu bản thân mỗi công dân không có am
hiểu về tri thức, tri thức sách vở, tri thức trong cách sống, tri thức trong sự
nhìn nhận thì xã hội sẽ duy trì như thế nào. Tri thức hình thành được là nhờ sự
tiếp thu kiến thức cũng như học hỏi được những kỹ năng, một xã hội sẽ lạc
hậu, không có sự phát triển là xã hội còn xuất hiện những con người không có
tri thức, một thành phần thừa trong xã hội.
Về y dược, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Bộ KH&CN đã huy
động các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp triển khai các nhiệm vụ cấp
bách với nhiều kết quả quan trọng như: Việt Nam là 1 trong 3 nước đầu tiên
phân lập, nuôi cấy thành công virus; làm chủ công nghệ sản xuất bộ KIT phát 6 lOMoAR cPSD| 23022540
hiện SARS-CoV-2 đạt tiêu chuẩn quốc tế; sản xuất vaccine phòng COVID-19
bằng công nghệ protein tái tổ hợp và thuốc kháng thể đơn dòng điều trị đặc
hiệu COVID-19, trong đó vắc xin Nanocovax đang thử nghiệm lâm sàng trên
người tình nguyện; tổng hợp trên 1.700 công bố khoa học quốc tế về dịch
bệnh; phát huy đề án Hệ tri thức việt số hóa trong truy vết người tiếp xúc;
nghiên cứu chế tạo, thử nghiệm thành công Robot vận chuyển, Robot khử
khuẩn sàn nhà trong khu cách ly.
Nhờ có tri thức mang lại sự hội nhập quốc tế, giao lưu học hỏi kiến thức
hay những truyền thống tốt đẹp của các quốc gia khác là rất cần thiết, hay là
tham gia các cuộc thi quốc tế mà các vấn đề cần quan tâm ở đây là ngôn ngữ
tiếng anh phải thực sự tốt và chuyên môn cao. Giáo dục là nền tảng của xã
hội. Một xã hội phát triển là xã hội mà con người được hoàn thiện bản thân ở
các lĩnh vực, đặc biệt là đóng góp cho nền giáo dục ngày càng phát triển, cải
tiến trên mọi phương diện. Tri thức là “nguồn tài nguyên” vô giá của nhân
loại. Chúng ta phải có tri thức để hiểu biết về văn hóa các nước và tạo nên nền
văn hóa ngày càng lành mạnh. Mỗi con người chúng ta phải có những hiểu
biết về tầm quan trọng của giáo dục,biết về nội dung, phương pháp giáo dục
của các nước khác để ngày một cải thiện nền văn hóa - giáo dục của Việt
Nam. Từ đó vừa theo kịp nền tri thức của nhân loại lại vừa giữ gìn bản sắc
văn hóa tốt của dân tộc.
Phần 2: Sự vận dụng trong nghiên cứu, học tập của sinh viên:
Như đã tìm hiểu, tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo, là những khả năng,
kỹ năng có thể ứng dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì
vậy mà tri thức có vai trò như là sản phẩm của hoạt động học tập và nghiên
cứu của sinh viên. Bản chất của quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên
chính là quá trình sinh viên tích lũy kiến thức chuyên ngành, kiến thức xã hội
và các kỹ năng để sau này có thể áp dụng vào những công việc thực tế giúp
phát triển kinh tế - xã hội.
Tri thức có ở mọi nơi tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên nghiên cứu
và học tập. Ngày nay có rất nhiều nguồn khác nhau cho sinh viên tiếp cận tri
thức, như: giáo viên, sách, báo, các học liệu mở, học qua internet. Thậm chí
sinh viên có thể nghiên cứu, học tập từ đời sống xã hội thực tế vì đó chính là
nguồn tri thức vô tận và rất thiết thực. Tri thức không chỉ có vai trò là sản
phẩm, là nguyên liệu trong quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên mà
nó còn giúp sinh viên nghiên cứu, học tập đúng đắn, có định hướng.
Vận dụng tri thức khoa học vào giảng dạy có ý nghĩa trong việc thúc
đẩy giáo dục mở, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục. Trong một nền 7 lOMoAR cPSD| 23022540
giáo dục mở, con người có thể tiếp cận thông tin đa chiều, khoảng cách được
rút ngắn, không gian được thu hẹp và thời gian được tiết kiệm tối ưu. Từ đó
con người phát triển nhanh hơn về kiến thức, nhận thức và tư duy. Nhờ có
chương trình giáo dục mở, sinh viên có thể tìm kiếm và chắt lọc kiến thức một
cách hiệu quả. Học tập và nghiên cứu trong thời buổi hiện đại yêu cầu sinh
viên cần phải tiếp cận đánh giá một vấn đề từ nhiều nguồn thông tin khác
nhau, dưới nhiều khía cạnh khác nhau, qua đó sinh viên có được cái nhìn tổng
quát, có cơ hội đào sâu kiến thức, tìm ra được bản chất cốt yếu, nguyên nhân
sâu xa của vấn đề, góp phần nâng cao kiến thức, thay đổi tư duy, điều này
gián tiếp giúp cho công tác học tập nghiên cứu đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt
trong thời kỳ dịch SARS-CoV-2 bùng phát trên toàn cầu, sinh viên phải cách
li xã hội tại nhà thì khoa học công nghệ giúp cho mọi người có thể học tập từ
xa mà không cần phải tập trung tại một địa điểm, giúp hạn chế dịch bệnh.
Việc học trực tuyến đã mang lại không gian giáo dục mở với không gian và
thời gian học tập nghiên cứu linh động: Sinh viên có thể tự học mọi lúc (bất
kể thời gian nào được cho là phù hợp với từng cá nhân), mọi nơi (bất kể nơi
nào miễn có kết nối internet với chương trình trực tuyến, hoặc có thể lưu lại
để học trên máy tính, điện thoại (khi không có kết nối internet). Ứng dụng
công nghệ cho phép tất cả mọi người có thể tham gia thảo luận một vấn đề
nào đó mà không cần phải tập trung tại một địa điểm, không phải ở cùng 1
quốc gia, qua đó góp phần tạo ra một xã hội học tập rộng lớn mà ở đó, người
học có thể chủ động học tập, trao đổi kiến thức, trau dồi kinh nghiệm suốt đời.
Nhờ vào công nghệ, sinh viên từ tất cả mọi nơi trên thế giới có thể tiếp cận
nền giáo dục của các nước tiên tiến hơn. Ngày nay nhiều trường đại học và
cao đẳng đã triển khai các chương trình giáo dục trực tuyến từ xa, dễ dàng
tiếp cận với mọi đối tượng. Phương pháp giáo dục này vô cùng linh hoạt, với
chi phí hợp lí, sinh viên có thể tham gia các lớp học trực tuyến từ các trường
đại học hàng đầu. Đây là một cơ hội mới giúp cho sinh viên có cơ hội học hỏi,
nghiên cứu từ và tiếp cận nhiều nguồn tri thức chất lượng hơn.
Với sự thuận tiện cho việc học bất cứ lúc nào ở bất kì nơi đâu, ứng
dụng công nghệ sẽ tạo cơ hội cho sinh viên có thể lựa chọn những lĩnh vực
mà mình ưa thích, phù hợp với năng khiếu để học tập nghiên cứu, từ đó thúc
đẩy phát triển năng lực cá nhân. Chương trình học sẵn có, học liệu mở phong
phú khiến cho việc tra cứu dễ dàng sẽ gián tiếp thúc đẩy các cá nhân chủ động
trang bị thêm nhiều những kiến thức mới, tăng cường tích luỹ trải nghiệm và
kỹ năng, kích thích tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Cùng với đó, với việc sử
dụng các thiết bị công nghệ, việc kết nối giữa thầy cô và sinh viên được thực
hiện dễ dàng và thường xuyên hơn bao giờ hết. Nhờ đó, sinh viên được tiếp 8 lOMoAR cPSD| 23022540
cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn hẳn phương pháp đọc - chép
truyền thống, sinh viên có nhiều cơ hội được trao đổi, bày tỏ quan điểm cũng
như chính kiến riêng của mình, giúp cho giáo viên hiểu thêm về năng lực, tính
cách và mức độ tiếp thu kiến thức của học trò, từ đó có thể thiết kế, điều chỉnh
lại bài giảng sao cho phù hợp và khoa học hơn, giúp thúc đẩy phát triển năng
lực của từng cá nhân người học.
Tổng kết lại, có thể thấy việc vận dụng tri thức vào nghiên cứu và học
tập là một xu thế tất yếu, có vai trò quan trọng và đem lại nhiều lợi ích cho
sinh viên. Khi nhận thức được vấn đề này một cách rõ ràng và chắc chắn,
chúng ta sẽ sẵn sàng chấp nhận, tích cực phấn đấu, thay đổi tư duy, chung tay
đổi mới toàn diện xã hội theo hướng hiện đại, phát triển. KẾT LUẬN
Vai trò của tri thức khoa học ngày càng quan trọng. Đứng trước
thế kỉ XXI - thế kỉ có nhiều biến đổi sâu sắc và phổ biến trên tất cả các lĩnh vực
của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là thử thách đồng thời là
thời cơ cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cả
thế giới đang dần tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Nhờ áp
dụng các tri thức kỹ thuật khoa học – công nghệ của thế giới mà chúng ta có
thể đi thẳng tới nền kinh tế tri thức. Vấn đề là phải hiểu biết và vận dụng tri
thức khoa học vào tất cả các lĩnh vực hoạt động đặc biệt trong việc nghiên cứu,
học tập của sinh viên để xã hội ngày càng phát triển, văn minh.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong bối cảnh chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và trách
nhiệm góp phần vào sự nghiệp khó khăn nhưng vô cùng vẻ vang ấy. Tuy
nhiên, để từng bước tiến hành có kết quả và đến đích thành công trong cuộc
cách mạng chuyển đổi công nghệ số và trí tuệ nhân tạo thì đội ngũ trí thức giữ
vai trò và trọng trách nặng nề nhất. Sự vận dụng tri thức vào nghiên cứu học
tập của sinh viên giúp đào tạo ra đội ngũ trí thức chất lượng với tư cách là lực
lượng lao động sáng tạo đặc biệt và mang trên vai sứ mệnh cao cả, có thể phát
huy tốt hơn nữa khả năng của mình để xứng đáng với truyền thống vẻ vang,
góp phần nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, đóng góp quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa MácLênin,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995. 9 lOMoAR cPSD| 23022540
3. tapchicongsan.org.vnhttps://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-
/2018/823769/xay-dungdoi-ngu-tri-thuc-viet-nam-hien-nay-theo-tu-tuong-ho-chi-
minh.aspx, truy cập ngày 10/12/2021
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 135
5. Nguyễn Quốc Anh, "CHUYỂN GIAO TRI THỨC TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI
HỌC TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC KĨ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ TẠI
VIỆT NAM: NGHIÊN CỨU TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ
NỘI." Tạp chí Quản lý Kinh tế Quốc tế (Journal of International Economics and
Management) 134 (2021): 76-89.
6. Nguyễn Xuân Trường, Giáo dục 4.0 và sự thay đổi tất yếu trong việc dạy và học, bài
tham luận tại hội thảo “Đào tạo nguồn nhân lực theo định hướng ứng dụng và thích
ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, Đại học Tài chính – Marketing, TP.HCM, 2018. 10 lOMoAR cPSD| 23022540 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 0
NỘI DUNG .......................................................................................................................... 1
Phần 1: Quan điểm của Mác - Lênin về tri thức và vai trò của tri thức .................... 1
1.1. Tri thức trong quan điểm của Mác - Lênin ........................................................ 1
1.2. Vai trò của tri thức:............................................................................................. 2
Phần 2: Sự vận dụng trong nghiên cứu, học tập của sinh viên ................................... 7
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 9 11