BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức, vai trò của tri
thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên.”
Họ và tên:
Mã SV:
Lớp tín chỉ:
GV hướng dẫn:
Hà Nội, tháng 12 năm 2021
LỜI MỞ ĐẦU
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đềbản của triết học.
là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng
con người mới có. ý thức của con người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc
biệt phức tạm mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo Lênin). Tác động của
ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Tri thức chính là nhân tố cơ
bản, cốt lỗi nhất trong kết cấu của ý thức.
Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế-kỹ
thuật yếu, trong điều kiện sự biến đổi khoa học - công nghệ trên thế giới lại
diễn ra rất nhanh, liệu nước ta thể đạt được những thành công mong muốn
trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong thời
gian ngắn không? Chúng ta phải làm gì để tránh tụt hậu so với các nước trong
khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự
lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công nghệ trong quan
hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy nghĩa ta cần
phải tri thức vì tri thức khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao
khả năng nhận thức cho mỗi người. Hoạt động nghiên cứu và học tập của sinh
viên cũng là một trong những thành phần của đời sống xã hội và sự thành, bại
của cũng góp phần vào công cuộc phát triển đời sống hội. Giống như
những thực tiễn khác, tri thức vừa kim chỉ nam vừa động lực của hoạt
động nghiên cứu và học tập của sinh viên.
Như vậy, đối với sự phát triển đời sống hội nói chung cũng như
trong nghiên cứu hoạt động của sinh viên nói riêng, trí thức vai trò
cùng quan trọng. Tìm hiểu về tri thức để những biện pháp đúng đắn tạo
điều kiện cho xã hội phát triển.
Trong bài tiểu lớn này em chọn đề tài: "Quan điểm của triết học Mác
- Lênin về tri thức, vai trò của tri thức sự vận dụng quan điểm đó
trong nghiên cứu, học tập của sinh viên" do thời gian trình độ còn hạn
chế vì vậy bài viết này chắc chắn sẽ không tránh được những thiếu sót
rất mong nhận được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn Lê Thị Hồng.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
NỘI DUNG
PHẦN 1: Lý luận chung của triết học về tri thức:
1.1.Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức:
Tri thức đã từ lâu trong lịch sử, thể nói từ khi con người bắt đầu
duy thì lúc đó tri thức. Trải qua một thời gian dài phát triển của
lịchsử, cho đến những thập kỷ gần đây tri thức vai trò của đối với sự
pháttriển kinh tế-xã hội mới được đề cặp nhiều. Vậy tri thức gì? rất
nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng theo quan điểm của “Tri thức kết
quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện
trong tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy diễn đạt
chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác”. Tri thức bao
gồm những kiến thức, thông tin, số liệu, sự hiểu biết, hay kỹ năng được
nhờ trải nghiệm, thông qua giáo dục hoặc tự học hỏi. thể những kỹ
năng, khả năng thực hành hay sự thông hiểu về một đối tượng nào đó.
Tri thức nhiều cấp độ khác nhau như: Tri thức thông thường được
hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính
trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức có hai loại là tri thức ẩn và tri thức hiện.
Tri thức hiện những thứ được thể hiện qua văn bản, âm thanh, hình
ảnh,...dễ dàng để truyền đạt lại. dụ như những kiến thức trên sách vở như
các công thức toán học, vật lý, hoặc là những bài hát, bộ phim. Đối với doanh
nghiệp, tri thức hiện được thể hiện dưới dạng báo cáo, kế hoạch kinh doanh,
bằng phát minh, nhãn hiệu, danh sách khách hàng… được tích lũylưu trữ
để mọi người dễ dàng tiếp cận khi cần. Còn tri thức ẩn là những tri thức được
thu lại nhờ trải nghiệm thực tế tập luyện nên khó để truyền đạt lại cho
người khác theo cách thông thường. Một người kiến trúc khi quen tay thì
sẽ không cần dụng cụ đo nữa vẫn thể vẽ được các thiết kế cho trước,
rồi xác định cấu trúc tòa nhà, đónhững kinh nghiệm của riêng họ và người
khác khó lòng học được y nguyên những điều đó.
Tri thức vai trò rất lớn đối với đời sống-xã hội. Kinh tế thế giới
đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới. Đó trình độ “Nhân
tố quan trọng nhất việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực việc sáng
tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngànhthuật cao”. Tiêu chí chủ
yếu của lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế
tồn tạitrực tiếp giống như các yếu tố sức lao động tài nguyên. Đó thời
2
đại mà “Tri thức đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, ”Tri
thức là tài nguyên là tư bản”,...
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, vai trò động lực của tri thức đối với
sự phát triển kinh tế hội ngày càng trở nên rõ ràng, nổi bật. Loài người
đang bước vào nền kinh tế tri thức - là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ
cập sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế. Trong nền kinh tế tri thức, đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa
vào thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, vì vậy, đầu tư vào tri thức
trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn. Sự ra đời của tri
thức gắn liền với sự hình thành của hội loài người do đó khi nghiên cứu,
không thể tách rời tri thức ra khỏi thế giới khách quan.
1.2. Vai trò của tri thức:
1.2.1. Đối với kinh tế:
Tri thức nền tảng, động lực để phát triển kinh tế, nhân tố đóng
vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần tạo nên mọi thành tựu tiến
bộ trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Tri thức nhận thức
kinh nghiệm loài người thu được trong quá trình cải tạo thế giới. Do vậy
trong bất giai đoạn nào con người cũng luôn ứng dụng tri thức vào việc
phát triển kinh tế. Trong các hình thái kinh tế khác nhau, mức độ tri thức được
ứng dụng sâu rộng cũng khác nhau, cho nêntác dụng cũng khác nhau.
Như chúng ta đã biết từ những năm 70 củ thế kỉ XX trở lại đây, tiến bộ
của kho học kỹ thuật dần trở thành yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế.Đầu
thế kỉ XX, nhân tố khoa học kỹ thuật mới chỉ chiếm 5% -20% trong sự tăng
trưởng của GDP, đến thập kỷ 50 đến 60 tỷ lệ này 50%, đến thập kỷ 80
lên tới 80%. Trong khoảng thời gian xuất hiện những máy móc, động thì
con người lại sử dụng chúng cho quá trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất
lao động, tiết kiệm chi phí, nhân lực đạt được hiệu quả cao hơn, thu được lợi
nhuân lớn hơn. Ngày nay, đối với nền kinh tế tri thức, tri thức là lực lượng sản
xuất trực tiếp, nguồn lực quan trọng nhất, đóng vai trò đầu tàu trong nền
kinh tế. Tri thức được áp dụng vào sản xuất của cải vật chất, động lực phát
triển nền kinh tế. Vì vậy đòi hỏi lực lượng lao động có chất xám, kỹ thuật, tay
nghề, được đào tạo bài bản ngày càng cao. Nói cách khác, tri thức khoa học
được ứng dụng, được vật hóa thành máy móc, thành công cụ sản xuất và được
người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất, do đó, trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Điều kiện để tri thức khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp đã được C. Mác khẳng định như sau: “Sự phát triển của hệ
thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt
3
được một trình độ phát triển cao hơn tất cả các môn khoa học đều được
phục vụ bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện thì những nguồn
lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, đối với nghề
đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự trở thành một
trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích”
Cạnh tranh trên thế giới ngày nay củ yếu dựa trên cở khoa học, đặc
biệt là khoa học kỹ thuật cao. Chính bởi vậy đất nướcnền kinh tế phát
triển hay không hầu như phụ thuộc vào vốn tri thức của con người. Một ví dụ
chất lượng tăng trưởng của Việt Nam được cải thiện, năng suất lao động nâng
lên rệt. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng
tăng từ 33,6% giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020, tính
chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 39,0% (vượt mục tiêu 35%). Tỉ trọng giá trị
xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị hàng hoá tăng từ 19%
năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu - GII
tăng 17 bậc trong giai đoạn 2016 - 2020, đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á,
đứng đầu trong số các quốc gia mức thu nhập trung bình thấp. Trong bối
cảnh đại dịch COVID-19 tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã
hội, khi nhiều nước rơi vào suy thoái, Việt Nam nằm trong nhóm ít các quốc
gia duy trì tăng trưởng dương, kiểm soát tốt dịch bệnh, đạt nhiều kết quả ấn
tượng. Với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2020 tăng 2,91%, Việt Nam
thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong thành tựu chung đó,
có đóng góp quan trọng của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
1.2.2. Đối với chính trị:
hội ngày càng phát triển, sánh vai với các cường quốc trên thế giới
là nhờ một phần rất lớn từ bộ máy chính trị nhà nước được coi là đầu não của
một quốc gia. Để điều hành xã hội đi đến thời đại mới, gần hơn với chế độ xã
hội chủ nghĩa thì bộ máy ấy là sự đóng góp củavàn sự lĩnh hội về tri thức
ở các lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực là một chân trời tri thức mà con người
luôn khao khát vươn tới, được lĩnh hội một cách trọn vẹn từ những hiểu
biết đó họ kiến tạo thành những ý tưởng, xây dựng những bước đi vững
mạnh, đưa ra những chínhch thiết thực nhằm đóng góp vào sự phát triển
mọi mặt của cuộc sống, từ đó góp phần thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của
dân tộc và của xã hội loài người nói chung. Chính vì vậy mà bộ máy chính trị
của mỗi quốc gia luôn phải tuyển chọn những con người họcrộng tài cao, đức
độ trung thành với mục tiêu xã hội.
Trong bối cảnh thế giới thay đổi đứng trước nhiều thách thức như
vậy, nếu nước ta muốn rút ngắn được khoảng cách với các nước phát triển
4
hướng đến mục tiêu năm 2045 nước ta trthành nước phát triển thu nhập
cao thì khâu đột phá đầu tiên phải được tính đến đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng một cách thật hiệu quả nguồn nhân lực, đặc biệt là phải hết sức tôn trọng
nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất tầng lớp tri thức tinh hoa của dân
tộc. Nói cách khác, muốn cho đất nước phát triển chúng ta phải tạo điều kiện
đào tạo những người tài cho từng lĩnh vực của hoạt động hội; phải thật sự
trọng dụng người tài; phải biết dùng người tài đúng lúc, đúng chỗ không
kém phần quan trọng chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với người tài
nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ cho các lĩnh vực sáng tạo khoa học, phát
minh, sáng chế, công nghệ, điều hành, quản lý và tổ chức xã hội.
Nhìn lại hơn 4000 năm lịch sử của dân tộc thể thấy, ông cha ta qua
bao đời rất coi trọng người hiền tài, quý trọng tri thức. Nội dung bia Tiến
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (năm 1442) tại Văn Miếu
Quốc Tử Giám (Hà Nội) do Thân Nhân Trung soạn, từng khắc ghi rằng, hiền
tài nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh thịnh,
nguyên khí kém thì thế nước kém suy, cho nên các đấng thánh đế minh
vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí.
Trong giai đoạn Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, nhiều cuộc khởi
nghĩa, đấu tranh diễn ra mạnh mẽ nhưng đều thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước ngày 5 tháng 6 năm 1911. Suốt 30
năm bôn ba nước ngoài, Người trở về với vốn tri thức học thuyết cách mạng
mà mình đã tiếp thu và nghiên cứu để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Kế tục truyền thống lâu đời coi trọng người hiền tài đó của dân tộc, trong quá
trình lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của nhân dân ta (1946- 1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
rất chú trọng việc bồi dưỡng, sử dụng trí thức và trọng dụng nhân tài thuộc tất
cả các lĩnh vực. Đây cũng quan điểm xuyên suốt của các tác gia kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày 19/12/1893, trong thư Gửi Đại hội quốc tế
các sinh viên hội chủ nghĩa, Ph. Ăng-ghen đã nêu ra một luận điểm rất
đáng chú ý cũng lời nhắn gửi đến các thế hệ sau rằng, trong “sự nghiệp
giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải những bác sĩ, sư, nhà hóa
học, nông học và các chuyên gia khác,vấn đềphải nắm lấy việc quản
không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa”.
Còn theo V.I. Lê-nin, xã hội càng phát triển thì “ngày càng cần nhiều đến tầng
lớp trí thức”. Với vốn tri thức sâu rộng, tưởng đổi mới, khả năng lãnh đạo
tài tình, Bác cùng với toàn thể nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn trước
thực dân Pháp.
5
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò
của trí thức nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí thức phát triển
nhanh về số lượng nâng lên về chất lượng, phát huy vai trò trên mọi lĩnh
vực đời sống hội. Nghị quyết số 27-NQ/TU, ngày 6/8/2008, của Hội nghị
Trung ương 7 khóa X, về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” khẳng định đội ngũ trí thức lực
lượng nòng cốt sáng tạo truyền tri thức, nguồn lực đặc biệt quan
trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Ðảng
cũng ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt các nghị quyết chuyên đề
để tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà
nước đã thực hiện các chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống
đào tạo, nghiên cứu, đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp
giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, văn hóa và văn nghệ, các chính
sách sử dụng tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức, chính sách đãi
ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh
khoa học các danh hiệu cao quý, thu hút trí thức người Việt Nam nước
ngoài... Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khi xác định các đột phá chiến lược
phát triển đất nước giai đoạn 2021-2025 những năm tiếp theo (tầm nhìn
2030, 2045), đã nhấn mạnh tới nhiệm vụ đào tạo nhân lực chất lượng cao
yêu cầu cần chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài cả trong
ngoài nước, góp phần đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia một cách
toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng hội số trong bối cảnh mới. Từ
đó có thể thấy được tầm quan trọng của tri thức đối với chính trị.
1.2.3. Đối với đời sống xã hội:
Tri thức thể hiểu sản phẩm đặc thù của hội, sự ra đời của tri
thức thương gắn liền với sự hình thành của hội loài người. Do đó tri thức
gắn liền với hội. Khi con người tri thức, hiểu biết, am hiểu sâu rộng
tới mọi vấn đề hay lĩnh vực hội, thì dễ dàng thực hiện được những mục
tiêu, ham muốn, ước nguyện của bản thân, chỉ có tri thức được lấy bằng chính
mồ hôi công sức thì mới mang lại được hiệu quả. hiển nhiên, một hội
với những con người thành đạt giúp xã hội phát triển không ngừng về tri thức.
Đơn giản xã hội được hợp thành bởi cá nhân, nhưng sự kết hợp mang lại hiệu
quả thì cần quá trình rèn luyện không ngừng đối với thế hệ trẻ, việc học tập
như nào, trau dồi bản thân ra sao để tri thức mình mang lại cho hội sự
đóng góp hiệu quả nhất.
Nhu cầu hội ngày càng nâng cao, việc đáp ứng nhu cầu đòi hỏi mỗi
người cần phải có, đặc biệt nhu cầu trong giáo dục trách nhiệm của học
6
sinh sinh viên quan trọng. Con người tri thức, kiến thức nhận thức
tốt, làm chủ tri thức bản thân chủ trong cách sống của mình, biết bản thân
mình làm gì, biết được nhu cầu xã hội đang đòi hỏi gì ở chính các bạn trẻ,
không ngừng học hỏi. Vai trò của tri thức trong việc phục vụ những yêu cầu
của hội, cũng góp phần trong việc thể hiện khả năng bản thân mình
hội không ngừng phát triển lớn mạnh. Khi trở thành con người tri thức thì
sống theo chuẩn mực đạo đức tốt, giữ gìn cũng như phát huy được những giá
trị văn hóa tốt đẹp ông cha ta để lại. Nếu bản thân mỗi công dân không có am
hiểu về tri thức, tri thức sách vở, tri thức trong cách sống, tri thức trong sự
nhìn nhận thì xã hội sẽ duy trì như thế nào. Tri thức hình thành được là nhờ sự
tiếp thu kiến thức cũng như học hỏi được những kỹ năng, một hội sẽ lạc
hậu, không có sự phát triển là xã hội còn xuất hiện những con người không có
tri thức, một thành phần thừa trong xã hội.
Về y dược, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Bộ KH&CN đã huy
động các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp triển khai các nhiệm vụ cấp
bách với nhiều kết quả quan trọng như: Việt Nam 1 trong 3 nước đầu tiên
phân lập, nuôi cấy thành công virus; làm chủ công nghệ sản xuất bộ KIT phát
hiện SARS-CoV-2 đạt tiêu chuẩn quốc tế; sản xuất vaccine phòng COVID-19
bằng công nghệ protein tái tổ hợp thuốc kháng thể đơn dòng điều trị đặc
hiệu COVID-19, trong đó vắc xin Nanocovax đang thử nghiệm lâm sàng trên
người tình nguyện; tổng hợp trên 1.700 công bố khoa học quốc tế về dịch
bệnh; phát huy đề án Hệ tri thức việt số hóa trong truy vết người tiếp xúc;
nghiên cứu chế tạo, thử nghiệm thành công Robot vận chuyển, Robot khử
khuẩn sàn nhà trong khu cách ly.
Nhờ tri thức mang lại sự hội nhập quốc tế, giao lưu học hỏi kiến
thức hay những truyền thống tốt đẹp của các quốc gia khác rất cần thiết,
hay tham gia các cuộc thi quốc tế các vấn đề cần quan tâm đây
ngôn ngữ tiếng anh phải thực sự tốt và chuyên môn cao. Giáo dục là nền tảng
của xã hội. Một xã hội phát triển là xã hộicon người được hoàn thiện bản
thân các lĩnh vực, đặc biệt đóng góp cho nền giáo dục ngày càng phát
triển, cải tiến trên mọi phương diện. Tri thức là “nguồn tài nguyên” vô giá của
nhân loại. Chúng ta phải tri thức để hiểu biết về văn hóa các nước tạo
nên nền văn hóa ngày càng lành mạnh. Mỗi con người chúng ta phải
những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục,biết về nội dung, phương
pháp giáo dục của các nước khác để ngày một cải thiện nền văn hóa - giáo
dục của Việt Nam. Từ đó vừa theo kịp nền tri thức của nhân loại lại vừa giữ
gìn bản sắc văn hóa tốt của dân tộc.
7
PHẦN 2: Sự vận dụng trong nghiên cứu, học tập của sinh viên:
Như đã tìm hiểu, tri thức sự hiểu biết, sáng tạo, những khả năng,
kỹ năng thể ứng dụng vào mục đích phát triển kinh tế - hội. Chính
vậy tri thức vai trò như sản phẩm của hoạt động học tập nghiên
cứu của sinh viên. Bản chất của quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên
chính là quá trình sinh viên tích lũy kiến thức chuyên ngành, kiến thức xã hội
các kỹ năng để sau này thể áp dụng vào những công việc thực tế giúp
phát triển kinh tế- xã hội.
Tri thức mọi nơi tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên nghiên cứu
và học tập. Sinh viên có thể tiếp cận tri thức từ nhiều nguồn khác nhau, đó là:
giáo viên, sách, báo, các học liệu mở, học qua internet. Thậm chí sinh viên có
thể nghiên cứu, học tập từ đời sống hội thực tế đó chính nguồn tri
thức tận rất thiết thực. Tri thức không chỉ vai trò sản phẩm,
nguyên liệu trong quá trình nghiên cứu học tập của sinh viên còn
giúp sinh viên nghiên cứu, học tập đúng đắn, có định hướng.
Vận dụng tri thức khoa học vào giảng dạyvai trò thúc đẩy giáo dục
mở, giúp hoạt động giáo dục đạt hiệu quả cao hơn: thúc đẩy một nền giáo dục
mở, giúp con người tiếp cận thông tin đa chiều, rút ngắn khoảng cách, thu hẹp
mọi không gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian. Từ đó con người phát triển
nhanh hơn về kiến thức, nhận thứcduy. Chương trình giáo dục mở giúp
sinh viên trao đổi tìm kiếm kiến thức một cách hiệu quả. Học dạy hiện
đại yêu cầu cần phải tiếp cận một vấn đề từ nhiều nguồn thông tin khác nhau,
dưới nhiều góc nhìn khác nhau, qua đó sinh viên được cái nhìn phổ quát,
có cơ hội đào sâu kiến thức, tìm ra được bản chất cốt yếu, nguyên nhân sâu xa
của vấn đề, góp phần nâng cao kiến thức, thay đổi duy, điều này gián tiếp
giúp cho công tác học tập nghiên cứu đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt trong
thời kỳ dịch SAS-CoV-2 lây lan trên toàn cầu, sinh viên không thể trực tiếp
đến trường học tập nghiên cứu thì khoa học công nghệ giúp cho mợi người có
thể học tập trực tuyến ngay tại nhà không cần phải tập trung tại một địa
điểm giúp hạn chế dịch bệnh. Việc học trực tuyến đã mang lại không gian
giáo dục mở với không gian thời gian học tập nghiên cứu linh động: Sinh
viên thể tự học mọi lúc (bất kể thời gian nào được cho phù hợp với
từng nhân), mọi nơi (bất kể nơi nào miễn kết nối internet với chương
trình trực tuyến, hoặc thể lưu lại để học trên máy tính, điện thoại (khi
không có kết nối internet). Ứng dụng công nghệ cho phép tất cả mọi người có
thể tham gia thảo luận một vấn đề nào đó mà không cần phải tập trung tại một
địa điểm, không phải cùng 1 quốc gia, qua đó góp phần tạo ra một hội
8
học tập rộng lớn đó, người học thể chủ động học tập, trao đổi kiến
thức, trau dồi kinh nghiệm suốt đời. Cũng nhờ những nền tảng này sinh viên
thể tiếp cận thông tin đa chiều, rút ngắn khoảng cách, thu hẹp mọi không
gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian. Nhờ vào công nghệ, sinh viên từ tất cả mọi
nơi trên thế giới thể tiếp cận nền giáo dục của các nước tiên tiến hơn.
Nhiều trường đại học và cao đẳng đã triển khai các chương trình giáo dục trực
tuyến từ xa. Phương pháp giáo dục này vô cùng linh hoạt, với chi phí hợp lí,
sinh viên thể tham gia các lớp học trực tuyến từ các trường đại học hàng
đầu. Đây một hội mới giúp cho sinh viên hội học hỏi, nghiên cứu
từ và tiếp cận nhiều nguồn tri thức chất lượng hơn.
Với sự thuận tiện cho việc học ở mọi lúc mọi nơi, ứng dụng công nghệ
sẽ tạo hội cho sinh viên thể lựa chọn những vấn đề mình ưa thích,
phù hợp với năng khiếu, sở thích để học tập nghiên cứu, từ đó thúc đẩy phát
triển năng lực nhân. Chương trình học sẵn có, học liệu mở phong phú
khiến cho việc tra cứu dễ dàng sẽ gián tiếp thúc đẩy các nhân chủ động
trang bị thêm nhiều những kiến thức mới, lấp đầy những lỗ hổng, kích thích
tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Cùng với đó, với việc sử dụng các thiết bị công
nghệ, việc kết nối giữa thầy cô và sinh viên được thực hiện dễ dàng và thường
xuyên hơn bao giờ hết. Nhờ đó, sinh viên được tiếp cận phương pháp dạy học
mới hấp dẫn hơn hẳn phương pháp đọc - chép truyền thống, sinh viên
nhiều hội được thể hiện quan điểm cũng như chính kiến riêng của mình,
giúp cho giáo viên hiểu thêm về năng lực, tính cách mức độ tiếp thu kiến
thức của học trò, từ đónhững điều chỉnh phù hợp và khoa học để thúc đẩy
phát triển năng lực của từng cá nhân người học.
Tựu chung lại, có thể thấy việc vận dụng tri thức vào nghiên cứu và học
tập là một xu thế tất yếu, có vai trò quan trọng và sẽ đem lại nhiều lợi ích cho
sinh viên. Khi nhận thức được vấn đề này một cách ràng chắc chắn,
chúng ta sẽ sẵn sàng chấp nhận, tích cực phấn đấu, thay đổi tư duy, chung tay
đổi mới toàn diện xã hội theo hướng hiện đại, phát triển.
KẾT LUẬN
9
Vai trò của tri thức khoa học ngày càng quan trọng. Đứng trước
thế kỉ XXI - thế kỉ nhiều biến đổi sâu sắc phổ biến trên tất cả các lĩnh
vực của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là thử thách đồng thời
là thời cơ cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Cả thế giới đang dần tiến tới xây dựng phát triển nền kinh tế tri thức. Nhờ
áp dụng các tri thức kỹ thuật khoa học – công nghệ của thế giới mà chúng ta
có thể đi thẳng tới nền kinh tế tri thức. Vấn đề là phải hiểu biết và vận dụng tri
thức khoa học vào tất cả các lĩnh vực hoạt động đặc biệt trong việc nghiên
cứu, học tập của sinh viên để xã hội ngày càng phát triển, văn minh.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong bối cảnh chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và trách
nhiệm góp phần vào sự nghiệp khó khăn nhưng cùng vẻ vang ấy. Tuy
nhiên, để từng bước tiến hành kết quả đến đích thành công trong cuộc
cách mạng chuyển đổi công nghệ số và trí tuệ nhân tạo thì đội ngũ trí thức giữ
vai trò trọng trách nặng nề nhất. Sự vận dụng tri thức vào nghiên cứu học
tập của sinh viên giúp đào tạo ra đội ngũ trí thức chất lượng với tư cách là lực
lượng lao động sáng tạo đặc biệt và mang trên vai sứ mệnh cao cả, có thể phát
huy tốt hơn nữa khả năng của mình để xứng đáng với truyền thống vẻ vang,
góp phần nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, đóng góp quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
10
1. Bộ Giáo dục Đào tạo, Giáo trình Những nguyên bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019.
2. C.Mác Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia,
Nội,1995.
3. tapchicongsan.org.vn
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-
cu/-/2018/823769/xay-dung-doi-ngu-tri-thuc-viet-nam-hien-nay-theo-
tu-tuong-ho-chi-minh.aspx, truy cập ngày 10/12/2021
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 135
5. Nguyễn Quốc Anh, "CHUYỂN GIAO TRI THỨC TẠI CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC KĨ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ
TẠI VIỆT NAM: NGHIÊN CỨU TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
NỘI." Tạp chí Quản Kinh tế Quốc tế (Journal of International
Economics and Management) 134 (2021): 76-89.
6. Nguyễn Xuân Trường, Giáo dục 4.0 sự thay đổi tất yếu trong việc
dạy học, bài tham luận tại hội thảo “Đào tạo nguồn nhân lực theo
định hướng ứng dụng và thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ 4”, Đại học Tài chính – Marketing, TP.HCM, 2018.
11
M C L C
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
PHẦN 1: Lý luận chung của triết học về tri thức:...................................2
1.1.Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức:..........................2
1.2. Vai trò của tri thức:..........................................................................3
PHẦN 2: Sự vận dụng trong nghiên cứu, học tập của sinh viên:...........8
KẾT LUẬN....................................................................................................10
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................11
12

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN 
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức, vai trò của tri
thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên.” Họ và tên: Mã SV: Lớp tín chỉ: GV hướng dẫn:
Hà Nội, tháng 12 năm 2021 LỜI MỞ ĐẦU
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó
là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng
con người mới có. ý thức của con người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc
biệt phức tạm mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo Lênin). Tác động của
ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Tri thức chính là nhân tố cơ
bản, cốt lỗi nhất trong kết cấu của ý thức.
Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế-kỹ
thuật yếu, trong điều kiện sự biến đổi khoa học - công nghệ trên thế giới lại
diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt được những thành công mong muốn
trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong thời
gian ngắn không? Chúng ta phải làm gì để tránh tụt hậu so với các nước trong
khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự
lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công nghệ trong quan
hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần
phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao
khả năng nhận thức cho mỗi người. Hoạt động nghiên cứu và học tập của sinh
viên cũng là một trong những thành phần của đời sống xã hội và sự thành, bại
của nó cũng góp phần vào công cuộc phát triển đời sống xã hội. Giống như
những thực tiễn khác, tri thức vừa là kim chỉ nam vừa là động lực của hoạt
động nghiên cứu và học tập của sinh viên.
Như vậy, đối với sự phát triển đời sống xã hội nói chung cũng như
trong nghiên cứu và hoạt động của sinh viên nói riêng, trí thức có vai trò vô
cùng quan trọng. Tìm hiểu về tri thức để có những biện pháp đúng đắn tạo
điều kiện cho xã hội phát triển.
Trong bài tiểu lớn này em chọn đề tài: "Quan điểm của triết học Mác
- Lênin về tri thức, vai trò của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó
trong nghiên cứu, học tập của sinh viên"
do thời gian và trình độ còn hạn
chế vì vậy bài viết này chắc chắn sẽ không tránh được những thiếu sót
rất mong nhận được sự góp ý của giáo viên hướng dẫn Lê Thị Hồng. Em xin chân thành cảm ơn! 1 NỘI DUNG
PHẦN 1: Lý luận chung của triết học về tri thức:
1.1.Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức:

Tri thức đã có từ lâu trong lịch sử, có thể nói từ khi con người bắt đầu
có tư duy thì lúc đó có tri thức. Trải qua một thời gian dài phát triển của
lịchsử, cho đến những thập kỷ gần đây tri thức và vai trò của nó đối với sự
pháttriển kinh tế-xã hội mới được đề cặp nhiều. Vậy tri thức là gì? Có rất
nhiều cách định nghĩa về tri thức nhưng theo quan điểm của “Tri thức là kết
quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện
trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt
chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác”. Tri thức bao
gồm những kiến thức, thông tin, số liệu, sự hiểu biết, hay kỹ năng có được
nhờ trải nghiệm, thông qua giáo dục hoặc tự học hỏi. Nó có thể là những kỹ
năng, khả năng thực hành hay sự thông hiểu về một đối tượng nào đó.
Tri thức có nhiều cấp độ khác nhau như: Tri thức thông thường được
hình thành do hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân, mang tính chất cảm tính
trực tiếp, bề ngoài và rời rạc. Tri thức có hai loại là tri thức ẩn và tri thức hiện.
Tri thức hiện là những thứ được thể hiện qua văn bản, âm thanh, hình
ảnh,...dễ dàng để truyền đạt lại. Ví dụ như những kiến thức trên sách vở như
các công thức toán học, vật lý, hoặc là những bài hát, bộ phim. Đối với doanh
nghiệp, tri thức hiện được thể hiện dưới dạng báo cáo, kế hoạch kinh doanh,
bằng phát minh, nhãn hiệu, danh sách khách hàng… được tích lũy và lưu trữ
để mọi người dễ dàng tiếp cận khi cần. Còn tri thức ẩn là những tri thức được
thu lại nhờ trải nghiệm thực tế và tập luyện nên khó để truyền đạt lại cho
người khác theo cách thông thường. Một người kiến trúc sư khi quen tay thì
sẽ không cần dụng cụ đo nữa mà vẫn có thể vẽ được các thiết kế cho trước,
rồi xác định cấu trúc tòa nhà, đó là những kinh nghiệm của riêng họ và người
khác khó lòng học được y nguyên những điều đó.
Tri thức có vai trò rất lớn đối với đời sống-xã hội. Kinh tế thế giới
đang bước vào một thời đại mới, một trình độ mới. Đó là trình độ mà “Nhân
tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và việc sáng
tạo, phân phối và sử dụng tri thức trong các ngành kĩ thuật cao”. Tiêu chí chủ
yếu của nó là lấy tri thức, trí óc làm yếu tố then chốt để phát triển kinh tế và
tồn tạitrực tiếp giống như các yếu tố sức lao động và tài nguyên. Đó là thời 2
đại mà “Tri thức đã trở thành động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội”, ”Tri
thức là tài nguyên là tư bản”,...
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, vai trò động lực của tri thức đối với
sự phát triển kinh tế xã hội ngày càng trở nên rõ ràng, nổi bật. Loài người
đang bước vào nền kinh tế tri thức - là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ
cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế. Trong nền kinh tế tri thức, đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa
vào thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, vì vậy, đầu tư vào tri thức
trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn. Sự ra đời của tri
thức gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người do đó khi nghiên cứu,
không thể tách rời tri thức ra khỏi thế giới khách quan.
1.2. Vai trò của tri thức:
1.2.1. Đối với kinh tế:

Tri thức là nền tảng, là động lực để phát triển kinh tế, là nhân tố đóng
vai trò hết sức quan trọng trong việc góp phần tạo nên mọi thành tựu và tiến
bộ trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Tri thức là nhận thức và
kinh nghiệm mà loài người thu được trong quá trình cải tạo thế giới. Do vậy
trong bất kì giai đoạn nào con người cũng luôn ứng dụng tri thức vào việc
phát triển kinh tế. Trong các hình thái kinh tế khác nhau, mức độ tri thức được
ứng dụng sâu rộng cũng khác nhau, cho nêntác dụng cũng khác nhau.
Như chúng ta đã biết từ những năm 70 củ thế kỉ XX trở lại đây, tiến bộ
của kho học kỹ thuật dần trở thành yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế.Đầu
thế kỉ XX, nhân tố khoa học kỹ thuật mới chỉ chiếm 5% -20% trong sự tăng
trưởng của GDP, đến thập kỷ 50 đến 60 tỷ lệ này là 50%, và đến thập kỷ 80
lên tới 80%. Trong khoảng thời gian xuất hiện những máy móc, động cơ thì
con người lại sử dụng chúng cho quá trình sản xuất nhằm nâng cao năng suất
lao động, tiết kiệm chi phí, nhân lực đạt được hiệu quả cao hơn, thu được lợi
nhuân lớn hơn. Ngày nay, đối với nền kinh tế tri thức, tri thức là lực lượng sản
xuất trực tiếp, là nguồn lực quan trọng nhất, đóng vai trò đầu tàu trong nền
kinh tế. Tri thức được áp dụng vào sản xuất của cải vật chất, là động lực phát
triển nền kinh tế. Vì vậy đòi hỏi lực lượng lao động có chất xám, kỹ thuật, tay
nghề, được đào tạo bài bản ngày càng cao. Nói cách khác, tri thức khoa học
được ứng dụng, được vật hóa thành máy móc, thành công cụ sản xuất và được
người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất, do đó, nó trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Điều kiện để tri thức khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp đã được C. Mác khẳng định như sau: “Sự phát triển của hệ
thống máy móc trên con đường ấy chỉ bắt đầu khi nền đại công nghiệp đã đạt 3
được một trình độ phát triển cao hơn và tất cả các môn khoa học đều được
phục vụ tư bản, còn bản thân hệ thống máy móc hiện có thì có những nguồn
lực to lớn. Như vậy, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề
đó thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một
trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích”
Cạnh tranh trên thế giới ngày nay củ yếu dựa trên cơ cở khoa học, đặc
biệt là khoa học kỹ thuật cao. Chính bởi vậy mà đất nước có nền kinh tế phát
triển hay không hầu như phụ thuộc vào vốn tri thức của con người. Một ví dụ
chất lượng tăng trưởng của Việt Nam được cải thiện, năng suất lao động nâng
lên rõ rệt. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng
tăng từ 33,6% giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020, tính
chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 39,0% (vượt mục tiêu 35%). Tỉ trọng giá trị
xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị hàng hoá tăng từ 19%
năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu - GII
tăng 17 bậc trong giai đoạn 2016 - 2020, đứng thứ 3 khu vực Đông Nam Á,
đứng đầu trong số các quốc gia ở mức thu nhập trung bình thấp. Trong bối
cảnh đại dịch COVID-19 tác động tiêu cực đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã
hội, khi nhiều nước rơi vào suy thoái, Việt Nam nằm trong nhóm ít các quốc
gia duy trì tăng trưởng dương, kiểm soát tốt dịch bệnh, đạt nhiều kết quả ấn
tượng. Với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2020 tăng 2,91%, Việt Nam
thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong thành tựu chung đó,
có đóng góp quan trọng của khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
1.2.2. Đối với chính trị:
Xã hội ngày càng phát triển, sánh vai với các cường quốc trên thế giới
là nhờ một phần rất lớn từ bộ máy chính trị nhà nước được coi là đầu não của
một quốc gia. Để điều hành xã hội đi đến thời đại mới, gần hơn với chế độ xã
hội chủ nghĩa thì bộ máy ấy là sự đóng góp của vô vàn sự lĩnh hội về tri thức
ở các lĩnh vực khác nhau. Mỗi lĩnh vực là một chân trời tri thức mà con người
luôn khao khát vươn tới, được lĩnh hội một cách trọn vẹn và từ những hiểu
biết đó họ kiến tạo thành những ý tưởng, xây dựng những bước đi vững
mạnh, đưa ra những chính sách thiết thực nhằm đóng góp vào sự phát triển
mọi mặt của cuộc sống, từ đó góp phần thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của
dân tộc và của xã hội loài người nói chung. Chính vì vậy mà bộ máy chính trị
của mỗi quốc gia luôn phải tuyển chọn những con người họcrộng tài cao, đức
độ trung thành với mục tiêu xã hội.
Trong bối cảnh thế giới thay đổi và đứng trước nhiều thách thức như
vậy, nếu nước ta muốn rút ngắn được khoảng cách với các nước phát triển và 4
hướng đến mục tiêu năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập
cao thì khâu đột phá đầu tiên phải được tính đến là đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng một cách thật hiệu quả nguồn nhân lực, đặc biệt là phải hết sức tôn trọng
nguồn nhân lực có chất lượng cao, nhất là tầng lớp tri thức tinh hoa của dân
tộc. Nói cách khác, muốn cho đất nước phát triển chúng ta phải tạo điều kiện
đào tạo những người tài cho từng lĩnh vực của hoạt động xã hội; phải thật sự
trọng dụng người tài; phải biết dùng người tài đúng lúc, đúng chỗ và không
kém phần quan trọng là có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với người tài
nhằm tạo ra động lực mạnh mẽ cho các lĩnh vực sáng tạo khoa học, phát
minh, sáng chế, công nghệ, điều hành, quản lý và tổ chức xã hội.
Nhìn lại hơn 4000 năm lịch sử của dân tộc có thể thấy, ông cha ta qua
bao đời rất coi trọng người hiền tài, quý trọng tri thức. Nội dung bia Tiến sĩ
khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (năm 1442) tại Văn Miếu
Quốc Tử Giám (Hà Nội) do Thân Nhân Trung soạn, từng khắc ghi rằng, hiền
tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh,
nguyên khí kém thì thế nước kém và suy, cho nên các đấng thánh đế minh
vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí.
Trong giai đoạn Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược, nhiều cuộc khởi
nghĩa, đấu tranh diễn ra mạnh mẽ nhưng đều thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước ngày 5 tháng 6 năm 1911. Suốt 30
năm bôn ba nước ngoài, Người trở về với vốn tri thức học thuyết cách mạng
mà mình đã tiếp thu và nghiên cứu để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Kế tục truyền thống lâu đời coi trọng người hiền tài đó của dân tộc, trong quá
trình lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của nhân dân ta (1946- 1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
rất chú trọng việc bồi dưỡng, sử dụng trí thức và trọng dụng nhân tài thuộc tất
cả các lĩnh vực. Đây cũng là quan điểm xuyên suốt của các tác gia kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngày 19/12/1893, trong thư Gửi Đại hội quốc tế
các sinh viên xã hội chủ nghĩa, Ph. Ăng-ghen đã nêu ra một luận điểm rất
đáng chú ý và cũng là lời nhắn gửi đến các thế hệ sau rằng, trong “sự nghiệp
giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sĩ, kĩ sư, nhà hóa
học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý
không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa”.
Còn theo V.I. Lê-nin, xã hội càng phát triển thì “ngày càng cần nhiều đến tầng
lớp trí thức”. Với vốn tri thức sâu rộng, tư tưởng đổi mới, khả năng lãnh đạo
tài tình, Bác cùng với toàn thể nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn trước thực dân Pháp. 5
Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò
của trí thức và có nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí thức phát triển
nhanh về số lượng và nâng lên về chất lượng, phát huy vai trò trên mọi lĩnh
vực đời sống xã hội. Nghị quyết số 27-NQ/TU, ngày 6/8/2008, của Hội nghị
Trung ương 7 khóa X, về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” khẳng định đội ngũ trí thức là lực
lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức, là nguồn lực đặc biệt quan
trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Ðảng
cũng ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề
để tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà
nước đã thực hiện các chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống
đào tạo, nghiên cứu, đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ, các chính
sách sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức, chính sách đãi
ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh
khoa học và các danh hiệu cao quý, thu hút trí thức người Việt Nam ở nước
ngoài... Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khi xác định các đột phá chiến lược
phát triển đất nước giai đoạn 2021-2025 và những năm tiếp theo (tầm nhìn
2030, 2045), đã nhấn mạnh tới nhiệm vụ đào tạo nhân lực chất lượng cao và
yêu cầu cần có chính sách vượt trội để thu hút, trọng dụng nhân tài cả trong
và ngoài nước, góp phần đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số quốc gia một cách
toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số trong bối cảnh mới. Từ
đó có thể thấy được tầm quan trọng của tri thức đối với chính trị.
1.2.3. Đối với đời sống xã hội:
Tri thức có thể hiểu là sản phẩm đặc thù của xã hội, sự ra đời của tri
thức thương gắn liền với sự hình thành của xã hội loài người. Do đó tri thức
gắn liền với xã hội. Khi con người có tri thức, có hiểu biết, am hiểu sâu rộng
tới mọi vấn đề hay lĩnh vực xã hội, thì dễ dàng thực hiện được những mục
tiêu, ham muốn, ước nguyện của bản thân, chỉ có tri thức được lấy bằng chính
mồ hôi công sức thì mới mang lại được hiệu quả. Và hiển nhiên, một xã hội
với những con người thành đạt giúp xã hội phát triển không ngừng về tri thức.
Đơn giản xã hội được hợp thành bởi cá nhân, nhưng sự kết hợp mang lại hiệu
quả thì cần quá trình rèn luyện không ngừng đối với thế hệ trẻ, việc học tập
như nào, trau dồi bản thân ra sao để tri thức mình mang lại cho xã hội có sự
đóng góp hiệu quả nhất.
Nhu cầu xã hội ngày càng nâng cao, việc đáp ứng nhu cầu đòi hỏi mỗi
người cần phải có, đặc biệt nhu cầu trong giáo dục và trách nhiệm của học 6
sinh sinh viên là quan trọng. Con người có tri thức, kiến thức và nhận thức
tốt, làm chủ tri thức bản thân là chủ trong cách sống của mình, biết bản thân
mình làm gì, biết được nhu cầu xã hội đang đòi hỏi gì ở chính các bạn trẻ, mà
không ngừng học hỏi. Vai trò của tri thức trong việc phục vụ những yêu cầu
của xã hội, cũng góp phần trong việc thể hiện khả năng bản thân mình ở xã
hội không ngừng phát triển lớn mạnh. Khi trở thành con người có tri thức thì
sống theo chuẩn mực đạo đức tốt, giữ gìn cũng như phát huy được những giá
trị văn hóa tốt đẹp ông cha ta để lại. Nếu bản thân mỗi công dân không có am
hiểu về tri thức, tri thức sách vở, tri thức trong cách sống, tri thức trong sự
nhìn nhận thì xã hội sẽ duy trì như thế nào. Tri thức hình thành được là nhờ sự
tiếp thu kiến thức cũng như học hỏi được những kỹ năng, một xã hội sẽ lạc
hậu, không có sự phát triển là xã hội còn xuất hiện những con người không có
tri thức, một thành phần thừa trong xã hội.
Về y dược, trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Bộ KH&CN đã huy
động các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp triển khai các nhiệm vụ cấp
bách với nhiều kết quả quan trọng như: Việt Nam là 1 trong 3 nước đầu tiên
phân lập, nuôi cấy thành công virus; làm chủ công nghệ sản xuất bộ KIT phát
hiện SARS-CoV-2 đạt tiêu chuẩn quốc tế; sản xuất vaccine phòng COVID-19
bằng công nghệ protein tái tổ hợp và thuốc kháng thể đơn dòng điều trị đặc
hiệu COVID-19, trong đó vắc xin Nanocovax đang thử nghiệm lâm sàng trên
người tình nguyện; tổng hợp trên 1.700 công bố khoa học quốc tế về dịch
bệnh; phát huy đề án Hệ tri thức việt số hóa trong truy vết người tiếp xúc;
nghiên cứu chế tạo, thử nghiệm thành công Robot vận chuyển, Robot khử
khuẩn sàn nhà trong khu cách ly.
Nhờ có tri thức mang lại sự hội nhập quốc tế, giao lưu học hỏi kiến
thức hay những truyền thống tốt đẹp của các quốc gia khác là rất cần thiết,
hay là tham gia các cuộc thi quốc tế mà các vấn đề cần quan tâm ở đây là
ngôn ngữ tiếng anh phải thực sự tốt và chuyên môn cao. Giáo dục là nền tảng
của xã hội. Một xã hội phát triển là xã hội mà con người được hoàn thiện bản
thân ở các lĩnh vực, đặc biệt là đóng góp cho nền giáo dục ngày càng phát
triển, cải tiến trên mọi phương diện. Tri thức là “nguồn tài nguyên” vô giá của
nhân loại. Chúng ta phải có tri thức để hiểu biết về văn hóa các nước và tạo
nên nền văn hóa ngày càng lành mạnh. Mỗi con người chúng ta phải có
những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục,biết về nội dung, phương
pháp giáo dục của các nước khác để ngày một cải thiện nền văn hóa - giáo
dục của Việt Nam. Từ đó vừa theo kịp nền tri thức của nhân loại lại vừa giữ
gìn bản sắc văn hóa tốt của dân tộc. 7
PHẦN 2: Sự vận dụng trong nghiên cứu, học tập của sinh viên:
Như đã tìm hiểu, tri thức là sự hiểu biết, sáng tạo, là những khả năng,
kỹ năng có thể ứng dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì
vậy mà tri thức có vai trò như là sản phẩm của hoạt động học tập và nghiên
cứu của sinh viên. Bản chất của quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên
chính là quá trình sinh viên tích lũy kiến thức chuyên ngành, kiến thức xã hội
và các kỹ năng để sau này có thể áp dụng vào những công việc thực tế giúp
phát triển kinh tế- xã hội.
Tri thức có ở mọi nơi tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên nghiên cứu
và học tập. Sinh viên có thể tiếp cận tri thức từ nhiều nguồn khác nhau, đó là:
giáo viên, sách, báo, các học liệu mở, học qua internet. Thậm chí sinh viên có
thể nghiên cứu, học tập từ đời sống xã hội thực tế vì đó chính là nguồn tri
thức vô tận và rất thiết thực. Tri thức không chỉ có vai trò là sản phẩm, là
nguyên liệu trong quá trình nghiên cứu và học tập của sinh viên mà nó còn
giúp sinh viên nghiên cứu, học tập đúng đắn, có định hướng.
Vận dụng tri thức khoa học vào giảng dạy có vai trò thúc đẩy giáo dục
mở, giúp hoạt động giáo dục đạt hiệu quả cao hơn: thúc đẩy một nền giáo dục
mở, giúp con người tiếp cận thông tin đa chiều, rút ngắn khoảng cách, thu hẹp
mọi không gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian. Từ đó con người phát triển
nhanh hơn về kiến thức, nhận thức và tư duy. Chương trình giáo dục mở giúp
sinh viên trao đổi và tìm kiếm kiến thức một cách hiệu quả. Học và dạy hiện
đại yêu cầu cần phải tiếp cận một vấn đề từ nhiều nguồn thông tin khác nhau,
dưới nhiều góc nhìn khác nhau, qua đó sinh viên có được cái nhìn phổ quát,
có cơ hội đào sâu kiến thức, tìm ra được bản chất cốt yếu, nguyên nhân sâu xa
của vấn đề, góp phần nâng cao kiến thức, thay đổi tư duy, điều này gián tiếp
giúp cho công tác học tập nghiên cứu đạt hiệu quả cao hơn. Đặc biệt trong
thời kỳ dịch SAS-CoV-2 lây lan trên toàn cầu, sinh viên không thể trực tiếp
đến trường học tập nghiên cứu thì khoa học công nghệ giúp cho mợi người có
thể học tập trực tuyến ngay tại nhà mà không cần phải tập trung tại một địa
điểm giúp hạn chế dịch bệnh. Việc học trực tuyến đã mang lại không gian
giáo dục mở với không gian và thời gian học tập nghiên cứu linh động: Sinh
viên có thể tự học ở mọi lúc (bất kể thời gian nào được cho là phù hợp với
từng cá nhân), mọi nơi (bất kể nơi nào miễn có kết nối internet với chương
trình trực tuyến, hoặc có thể lưu lại để học trên máy tính, điện thoại (khi
không có kết nối internet). Ứng dụng công nghệ cho phép tất cả mọi người có
thể tham gia thảo luận một vấn đề nào đó mà không cần phải tập trung tại một
địa điểm, không phải ở cùng 1 quốc gia, qua đó góp phần tạo ra một xã hội 8
học tập rộng lớn mà ở đó, người học có thể chủ động học tập, trao đổi kiến
thức, trau dồi kinh nghiệm suốt đời. Cũng nhờ những nền tảng này sinh viên
có thể tiếp cận thông tin đa chiều, rút ngắn khoảng cách, thu hẹp mọi không
gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian. Nhờ vào công nghệ, sinh viên từ tất cả mọi
nơi trên thế giới có thể tiếp cận nền giáo dục của các nước tiên tiến hơn.
Nhiều trường đại học và cao đẳng đã triển khai các chương trình giáo dục trực
tuyến từ xa. Phương pháp giáo dục này vô cùng linh hoạt, với chi phí hợp lí,
sinh viên có thể tham gia các lớp học trực tuyến từ các trường đại học hàng
đầu. Đây là một cơ hội mới giúp cho sinh viên có cơ hội học hỏi, nghiên cứu
từ và tiếp cận nhiều nguồn tri thức chất lượng hơn.
Với sự thuận tiện cho việc học ở mọi lúc mọi nơi, ứng dụng công nghệ
sẽ tạo cơ hội cho sinh viên có thể lựa chọn những vấn đề mà mình ưa thích,
phù hợp với năng khiếu, sở thích để học tập nghiên cứu, từ đó thúc đẩy phát
triển năng lực cá nhân. Chương trình học sẵn có, học liệu mở phong phú
khiến cho việc tra cứu dễ dàng sẽ gián tiếp thúc đẩy các cá nhân chủ động
trang bị thêm nhiều những kiến thức mới, lấp đầy những lỗ hổng, kích thích
tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Cùng với đó, với việc sử dụng các thiết bị công
nghệ, việc kết nối giữa thầy cô và sinh viên được thực hiện dễ dàng và thường
xuyên hơn bao giờ hết. Nhờ đó, sinh viên được tiếp cận phương pháp dạy học
mới hấp dẫn hơn hẳn phương pháp đọc - chép truyền thống, sinh viên có
nhiều cơ hội được thể hiện quan điểm cũng như chính kiến riêng của mình,
giúp cho giáo viên hiểu thêm về năng lực, tính cách và mức độ tiếp thu kiến
thức của học trò, từ đó có những điều chỉnh phù hợp và khoa học để thúc đẩy
phát triển năng lực của từng cá nhân người học.
Tựu chung lại, có thể thấy việc vận dụng tri thức vào nghiên cứu và học
tập là một xu thế tất yếu, có vai trò quan trọng và sẽ đem lại nhiều lợi ích cho
sinh viên. Khi nhận thức được vấn đề này một cách rõ ràng và chắc chắn,
chúng ta sẽ sẵn sàng chấp nhận, tích cực phấn đấu, thay đổi tư duy, chung tay
đổi mới toàn diện xã hội theo hướng hiện đại, phát triển. KẾT LUẬN 9
Vai trò của tri thức khoa học ngày càng quan trọng. Đứng trước
thế kỉ XXI - thế kỉ có nhiều biến đổi sâu sắc và phổ biến trên tất cả các lĩnh
vực của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là thử thách đồng thời
là thời cơ cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Cả thế giới đang dần tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Nhờ
áp dụng các tri thức kỹ thuật khoa học – công nghệ của thế giới mà chúng ta
có thể đi thẳng tới nền kinh tế tri thức. Vấn đề là phải hiểu biết và vận dụng tri
thức khoa học vào tất cả các lĩnh vực hoạt động đặc biệt trong việc nghiên
cứu, học tập của sinh viên để xã hội ngày càng phát triển, văn minh.
Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong bối cảnh chuyển đổi số, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Mọi người dân Việt Nam đều có nghĩa vụ và trách
nhiệm góp phần vào sự nghiệp khó khăn nhưng vô cùng vẻ vang ấy. Tuy
nhiên, để từng bước tiến hành có kết quả và đến đích thành công trong cuộc
cách mạng chuyển đổi công nghệ số và trí tuệ nhân tạo thì đội ngũ trí thức giữ
vai trò và trọng trách nặng nề nhất. Sự vận dụng tri thức vào nghiên cứu học
tập của sinh viên giúp đào tạo ra đội ngũ trí thức chất lượng với tư cách là lực
lượng lao động sáng tạo đặc biệt và mang trên vai sứ mệnh cao cả, có thể phát
huy tốt hơn nữa khả năng của mình để xứng đáng với truyền thống vẻ vang,
góp phần nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, đóng góp quan
trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 10
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995. 3. tapchicongsan.org.vn
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-
cu/-/2018/823769/xay-dung-doi-ngu-tri-thuc-viet-nam-hien-nay-theo-
tu-tuong-ho-chi-minh.aspx, truy cập ngày 10/12/2021
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 135
5. Nguyễn Quốc Anh, "CHUYỂN GIAO TRI THỨC TẠI CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC TRONG LĨNH VỰC KHOA HỌC KĨ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ
TẠI VIỆT NAM: NGHIÊN CỨU TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
HÀ NỘI." Tạp chí Quản lý Kinh tế Quốc tế (Journal of International
Economics and Management) 134 (2021): 76-89.
6. Nguyễn Xuân Trường, Giáo dục 4.0 và sự thay đổi tất yếu trong việc
dạy và học, bài tham luận tại hội thảo “Đào tạo nguồn nhân lực theo
định hướng ứng dụng và thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ 4”, Đại học Tài chính – Marketing, TP.HCM, 2018. 11 M C L Ụ Ụ C
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
PHẦN 1: Lý luận chung của triết học về tri thức:...................................2
1.1.Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tri thức:..........................2
1.2. Vai trò của tri thức:..........................................................................3
PHẦN 2: Sự vận dụng trong nghiên cứu, học tập của sinh viên:...........8
KẾT LUẬN....................................................................................................10
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................11 12