BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò
của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học
tập của sinh viên”.
Họ và tên :
Mã số sinh viên :
Lớp tín chỉ : Triết học Mác – Lênin(221)_37
Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2022
Mục lục
A. LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………..1
B. NỘI DUNG ……………………………………………………………..2
I. LÝ LUẬN CHUNG CỦA TRIẾT HỌC VỀ TRI THỨC ………2
1. KHÁI NIỆM VỀ TRI THỨC ……………………………….2
2. VAI TRÒ CỦA TRI THỨC …………………………………2
a. Vai trò của tri thức đối với kinh tế……………………….2
b. Vai trò của tri thức đối với chính trị……………………..5
c. Vai trò của tri thức đối với xã hội………………………..6
II. VẬN DỤNG – TRI THỨC TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN………………………………………………8
1. Tri thức của sinh viên trong nghiên cứu khoa học………….8
2. Tri thức trong việc học tập của sinh viên…………………..10
C. KẾT LUẬN ……………………………………………………………11
LỜI MỞ ĐẦU
Nhà văn Francis Baron đã nói rằng: “Tri thức là sức mạnh”, qua câu nói đó
ta thể nhận ra rằng để thể vững bước trên con đường đời thì mỗi
người cần phải mang trong mình tri thức. Tác động của tri thức đối với đời
sống xã hội là vô cùng to lớn, tri thức là người bảo vệ và nuôi dưỡng những
nét đẹp văn hóa mà ông cha ta truyền lại sau đó hình thành tri thức chuyên
môn khả năng sẵn của chính mình. Trong những năm gần đây, dưới
tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp lần thứtrên mọi phương
diện với những tiến bộ khoa học công nghệ, truyển thông, thế giới đang
thay đổi nhanh chóng tới một nền kinh tế hội trong đó thông tin
tri thức yếu tố cùng quan trọng để tạo nên sự giàu mạnh của một
quốc gia, dân tộc, sở cho sự phát triển. hội loài người càng phát
triển thì vai trò của tri thức ngày càng được ưu tiên và là dấu hiệu của một
nền tri thức rông mở. Các nước phát triển trên thế giới với nhiều thành tựu
về khoa học công nghệ luôn hướng tới một hội tri thức, do đó nâng
cao tri thức để phục vụ cho kinh tế là chiến lược cấp bách hàng đầu để đưa
Việt Nam bắt kịp và phát triển cùng thế giới.
Trong bối cảnh hiện tại, sự bùng nổ của khoa học công nghệ mang
lại nguồn kiến thức rộng lớn đòi hỏi chúng ta phải biến chúng thành tri
thức của mình. Hoạt động nghiên cứu và học tập của sinh viên cũng là một
thành phần quan trọng đối với đời sống hội góp phầm vào sự phát
triển của đất nước. Để tăng trưởng nền kinh tế đất nước đi trên con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mỗi người cần phải tích lũy tri thức
tìm những phương pháp, lối đi phù hợp cho đất nước. Vì vậy em quyết
định chọn đề tài tri thức để làm đề tài nghiên cứu của mình.
1
I. LÝ LUẬN CHUNG CỦA TRIẾT HỌC VỀ TRI THỨC
.1. Khái niệm về tri thức
Lênin đã từng nói: “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức thì người đó có được
sức mạnh”. Câu nói của Lênin đã góp phần giúp cho lịch sử loài người hiểu biết
sâu hơn về tri thức cũng như nhấn mạnh về vai trò sức mạnh của tri thức đối
với cuộc sống chúng ta. Vậy tri thức là gì?
Tri thức là những kiến thức, kinh nghiệm của con người được đúc kết trong
một thời gian dài qua hàng trăm thế kỉ, hay từ thời xa xưa đến ngày nay để hình
thành nên hiểu biết về những vấn đề trên thế giới như khoa học, lịch sử, đời sống
hội. Nhắc đến tri thức những người kiến thức phong phú, học vấn rộng,
hiểu biết sâu xa về nhiều cấn đề, tri thức phương thức tồn tại của ý thức. Con
người ý thức cao cũng đồng nghĩa với tích lũy nhiều được nhiều tri thức, đi sâu
vào bản chất sự vật cải tạo thế giới tốt hơn. Vốn trí thức của con người
mênh mông rộng lớn, dồi dào sự sinh sôi phát triển, tri thức bao gồm những
dữ liệu, thông tin hay kỹ năng, kinh nghiệm từ trải nghiệm thực tế hay qua
giáo dục. Đôi khi, người ta còn dùng kiến thức để chỉ tri thức. Thế nhưng, Tri
thức có hàm nghĩa rộng lớn hơn kiến thức rất nhiều. Có thể nói, tri thức chính
nguồn sức mạnh quan trọng, là một phần không thể thiếu trong hoạt động của đời
sống con người hay cũng là sức mạnh thúc đẩy sự phát triển đất nước ngày càng
giàu mạnh
Chúng ta vận dụng những tri thức của con người trong các hoạt động lao
động, sản xuất, nghiên cứu khoa học, công nghệ máy móc. Từ kết quả của tri
thức, nó giúp cho xã hội tiến lên, phát triển, phồn thịnh hơn trong tương lai. Yếu
tố tri thức còn được hiểu như sáng tạo ra cái mới, tiến bộ vượt bậc để dẫn tới
sự phát triển cuả dân tộc, hội đất nước càng thêm giàu mạnh. Con người
biết tích lũy tri thức nhờ đó có thể hiểu biết về thế giới khách quan.
2. Vai trò của tri thức
a. Vai trò của tri thức đối với kinh tế
Tri thức một nhân tố rất quan trọng, đặc biệt trong nền kinh tế hiện
nay với nhiều nước trên thế giới ngày càng phát triển, sáng tạo ra nhiều sản phẩm
2
khoa học công nghệ để thúc đẩy nền kinh tế. Trong tri thức chứa đựng những
kiến thức kinh nghiệm, chất xám để biến thành năng lượng đưa đất nước phát
triển, sánh vai với cường quốc năm châu. Sử dụng hiệu quả tri thức giữ vai trò
then chốt để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội, tạo ra nhiều phát minh giúp
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân loại.
Trước hết, tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp, là nguồn vốn cơ bản
vai trò quyết định sản xuất. Nền kinh tế phát triển hay không nhờ vào nguồn
lực tri thức, đó cũng chính nguồn vốn hình khổng lồ. Trong nền văn minh
trí tuệ, tri thức yếu tố quyết định của sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy
cho sự phát triển của đất nước."Sự tiến bộ của cách mạng công nghệ lại thúc đẩy
khoa học phát triền nhanh hơn nữa và đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp" (TS. Trần Quang Lâm). Nói cách khác thì đất nước nào nguồn tri
thức hạn, phong phú thì sẽ nắm trong tay quyền chủ động trong sản xuất
thu về lợi nhuận. Theo Alvin Toffler, tri thức có thể thay thế vật chất, giao thông
vận tải, nguồn năng lượng và tiết kiệm thời gian.
thể nói, trong nền kinh tế hiện đại, những thành tựu khoa học - kỹ
thuật và nền sản xuất công nghiệp đã tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết và
thuận lợi để mọi người phát huy, bộc lộ hết những tiềm năng trí tuệ của mình. Ví
dụ điển hình như Nhật Bản, là một nước nghèo tài nguyên, khí hậu địa hình khắc
nghiệt những nhờ nguồn lực tri thức dồi dào đất nước Nhật Bản đã giữ
một trong các vị trí cao nhất trong những quốc gia phát triển. Phần lớn sản phẩm
của Nhật Bản những công nghệ hiện đại, khoa học cao tiên tiến nhất.
Những phát minh đó nhờ đến những con người tri thức cố gắng không
ngừng nỗ lực để phát triển đất nước dù có khó khăn cản trở họ như thế nào.
Thấy được vai trò quan trọng của tri thức trong đời sống xã hội hiện đại,
Đảng ta đặt ra chính sách giáo dục phát triển khoa học, công nghệ lên hàng
đầu, tạo cơ hội để phát triển nguồn lực trí tuệ như là yếu tố quyết định trong công
cuộc đổi mới, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta đã đang vận động toàn dân học
tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để thế góp phần giúp đất
nước phát triển, tiến bộ về mọi mặt và sánh vai cùng các nước phát triển trên thế
giới.
3
Không chỉ vậy, nền kinh tế tri thức tính chất toàn cầu hóa. Trong thời
đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế thế giới bước vào cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, những quốc gia vận dụng tri thức hiệu quả để sáng tạo, đổi mới
sẽ hội để vượt lên mạnh mẽ thành những nước phát triển bền vững.
Những năm qua vừa qua, nhà nước ta luôn quan tâm đến thúc đẩy sự phát triển
khoa học và công nghệ, phát hiện, đào tạo nhân tài. Ðại hội lần thứ XII của Ðảng
đã xác định cần phải "phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp,
tổ chức" để phát triển nguồn vốn tri thức, nâng cao chất lượng, trình độ nguồn
nhân lực.
Bên cạnh đó, tri thức hóa các quyết sách kinh tế. Kinh tế tri thức đã
đang trở thành xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới, được nhiều quốc
gia lựa chọn làm chiến lược phát triển, điển hình như: Mỹ, Canada, Tây Âu, Nhật
Bản, Singapore, Úc - nơi các yếu tố của nền kinh tế tri thức ở mức khá cao, trong
đó các ngành công nghiệp dựa trên tri thức đã đóng góp trên 40% GDP[1];
đang hình thành tại một số quốc gia đang phát triển như: Trung Quốc, Ấn Độ,
Malaysia, Thái Lan… Tại những quốc gia này, những quyết sách để phát triển
kinh tế tri thức nhằm tạo ra những bước đột phá.
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/34091
Quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Nước ta đang trong bối
cảnh hội nhập quốc tế nên quyền sở hữu trí tuệ được coi như một công cụ để
phát triển nền kinh tế, văn hóa hội đất nước, yếu tố đánh giá sự phát triển
của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo đầu nước ngoài. Quyền sở hữu
trí tuê là sự duy trì và đảm bảo sự đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục được diễn ra, tạo ra
những thành quả mới từ tri thức từ đó phục vụ đất nước phát triển mạnh mẽ hơn.
Các tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Vậy nên
Đảng và nhà nước đã thiết lập chính sách bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ
đảm bảo nguồn lực tri thức có thể thỏa sức sáng tạo và phát triển.
Sở hữu trí tuệ là yếu tố quyết định làm nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ
cho xã hội, đồng thời nó cũng luôn tạo cơ hội cho con người để chế tạo ra những
thành quả có giá trị cho đất nước. Nói về lịch sử của các nước phát triển trên thế
4
giới thì sở hữu trí tuệ tài sản quan trọng nhất đối với sự tang trưởng của đất
nước. dụ như Apple nhiều phát minh ra đời không chỉ thu được nhiều lợi
nhuận từ những sản phẩm mới này còn thu được nhiều tỷ USD từ việc bán
bản quyền. Văn hóa sở hữu trí tuệ đã tạo ra năng lực trong tham gia cạnh tranh
trên thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra còn là công cụ đắc lực cạnh tranh
cho doanh nghiệp trong và ngoài nước trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.
do đó cần nhiều nguồn lực tri thức để tang trưởng kinh tế. Quyền sở hữu trí tuệ
ngăn chặn những hành vi gian dối giúp mọi người có niềm tin vào sự trung thực
để tìm kiếm lợi ích. Ta thấy những quốc gia phát triển trên thế giới hiện nay như
Mỹ, Canada, Nhật,… đều có năng lực cạnh tranh và tiếp cận thị trường cao phần
lớn đó cũng nhờ có nhiều quyền sở hữu trí tuệđánh giá cao những quyền đó.
V c thúc đẩy quyền sở hữu trí tuệ được coi như một nguyên lí của sự vận động
và phát triển của nền kinh tế. Thực tế thì những công ty hay doanh nghiệp nào có
lợi nhuận lớn thường nơi biết phát triển đầu nguồn lực tri thức từ đó
dẫn đến sự thành công trong công việc.
b. Vai trò của tri thức đối với chính trị.
Đối với mỗi quốc gia, nguồn nhân lực có tri thức phong phú đóng vai trò
quyết định đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi quốc gia. Từ xa xưa, ta đã
bao nhiêu anh hùng đã giành được nhiều chiến công phần lớn nhờ vào trí
thông minh để nghĩ ra những chiến lược khôn ngoan để đánh thắng quân địch.
Chính vậy ta lực lượng yếu vẫn thắng địch giành lại độc lập cho dân.
Trong bối cảnh nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới ngày
càng tác động mạnh mẽ đến nước ta, Đảng ta luôn chú trọng và phát huy đội ngũ
tri thức nhiều lĩnh vực hoạt động, nâng cao dân trí và giáo dục, đào tạo những
nhân tài. Những con người tri thức đó đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất
nước của Đảng về các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã
chứng minh rằng, muốn đất nước phát triển nhanh, thành công bền vững cần
có hệ thống đường lối, chính sách lãnh đạo đúng đắn của Đảng phù hợp với từng
giai đoạn phát triển. Trong quá trình xây dựng đường lối chính sách của đất
nước, các nhà chính trị không thể một mình dựa vào tri thức và kinh nghiệm của
5
mình mà còn phải tham khảo ý kiến và sử dụng tri thức của đội ngũ trí thức Việt
Nam. Các thành phần tri thứcnhững người sáng tạo, hiểu biết sâu rộng,
tầm nhìn để dẫn dắt, định hướng những đường lối đúng đắn cho đất nướcmở
đường cho dân tộc ta. Không chỉ vậy, đội ngũ tri thức cũng cần phải hiểu biết về
những vấn đề xã hội để tìm ra giải pháp hợp lí. Bên cạnh những hiểu biết, những
người đó cũng cần phải biết gìn giữ, phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc ta.
Tất cả những điều đó cùng với những đóng góp chohội khiến cho ta càng đề
cao, trân trọng những con người tri thức. Tri thức đóng vai trò chính yếu, mũi
nhọn trong quá trình thực hiện đường lối chính sách của Đảng từ đó cũng
nền tảng cho công cuộc đổi mới đất nước.
Nói chung, tri thức đã phát triển lớn mạnh những đóng góp to lớn
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như sự phát triển đất nước ta.
Với sự phát triển đó, đội ngũ trí thức luôn đóng vai trò lực lượng then chốt
trong sáng tạo giá trị vật chất, tinh thần truyền tri thức để góp phần đất
nước vươn lên tầm cao mới. Đảng ta đã có nhiều chính sách đào tạo nhân dân lao
động trở thành những cán bộ tri thức chuyên về các lĩnh vực khoa học công nghệ,
các nhà giáo, các văn nghệ sỹ.
c. Vai trò của tri thức đối với xã hội.
Đối với hội, tri thức đóng góp một phần quan trọng trong việc phát
triển đất nước, văn hóa của nước ta cũng vào sự ổn định phát triển. Dưới tác
động của những tiến bộ của khoa học công nghệ, nền kinh tế hội đã
nhiều thay đổi, chuyển biến tới môi trường xã hội tri thức. Vậy nên đất nước cần
những nguồn lực tri thức thì tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm, nâng cao đời sống của
nhân dân. Trước đây, tri thức thường tầng lớp tri thức của những người
học vấn trong xã hội. Nhưng đến thời đại thông tin hiện nay, với các phương tiện
truyền thông hiện đại, con người mới thể chia sẻ tri thức cho nhau để cùng
phát triển. Khi đó chúng ta mới có được một xã hội tri thức thực sự. Nhà nước đề
cao nguồn lực tri thức thì giáo dục sẽ được đưa lên hàng đầu để xây dựng một
môi trường giáo dục lành mạnh, chất lượng bồi dưỡng nhân tài đưa đất nước
ngày càng lớn mạnh hơn và nâng cao vị trí để sánh vai với các nước phát triển.
Từ xa xưa, tri thức gắn liền với đời sống tinh thần, đạo đức, trí tuệ và lịch
sử phát triển của loài. Con người sáng tạo ra sử dụng tri thức từ đó nghĩ ra
6
những phát minh để cải thiện đời sống. Trong xã hội tri thức, thông tin và tri thức
những điều quyết định trong mọi lĩnh vực hội không chỉ vậy chúng còn
chuyển hóa lẫn nhau và được diễn ra trong môi trường giáo dục và đào tạo. Giáo
dục hiện nay không chỉ trong phạm vi của môi trường chính quy, còn
nghĩa là tự giáo dục, tự đào tạo, tự học. Có được điều này chính là nhờ sự hỗ trợ
hiệu quả của công nghệ thông tin và truyền thông. Các quốc gia trên thế giới
luôn đề ra những chính sách để thúc đẩy nền giáo dục phát triển, tạo điều kiện
cho mọi người đều có quyền học để thành những người có tri thức và phục vụ đất
nước. Hầu hết các nước đều thực thi chính sách giáo dục miễn phí cho học sinh
tiểu học. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ngoài ra. Các quốc gia
châu Âu còn những chính sách học phí ưu đãi như Đức, Thụy Điển, Áo,…
Nhưng việc hỗ trợ này mới chỉ thực hiện được ở các trường công lập. Một xã hội
tri thức bền nó bảo tồn và thúc đẩy các quyền con người và quyền công dân; khi
việc truy cập tri thức không bị giới hạn khả năng bao quát rộng lớn, khi
việc truy cập tri thức và thông tin được cung cấp cho mọi người dân trên thế giới
cơ hội được tự phát triển về mọi mặt trong cuộc sống. Tất cả những điều đó cũng
chính là việc chúng ta phải khắc phục những khuyết điểm của xã hội thông tin để
xây đựng một hội tri thức bền vững. Những điều tiêu cực đó liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ, ô nhiễm và huỷ hoại môi trường.
thể nói, hội tri thức thể hiện sự sử dụng thông tin tận dụng tri
thức nhằm mục đích sáng tạo. hội tri thức mang ý nghĩa nhân quyền, phẩm
chất nhân văn cao cả, chuyển sang hội tri thức là một xu hướng hợp
đang nhận được sự đồng tình của đông đảo giới khoa học. Sáng tạo đổi mới
không ngừng chính những yếu tố chúng ta cần chuẩn bị để vững bước đi
trong hội hiện đại ngày nay. Vậy nên sự tồn tại của hội tri thức nước ta
cần phải được thực hiện và duy trì nó càng sớm càng tốt, phải xem mọi dự đoán
đều thể sai, chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ để thể ứng phó linh hoạt kịp
thời trước mọi đổi thay. Phát triển tri thức làm cho hội giàu thông tin
trau dồi các phẩm chất đạo đức đó giúp cho đất nước ta vươn lên trong mọi
khó khăn, chuẩn bị cho hội nhập nền kinh tế thế giới trong tương lai.
7
II. VẬN DỤNG – TRI THỨC TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC
TẬP CỦA SINH VIÊN.
1. TRI THỨC CỦA SINH VIÊN TRONG NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC
Thời đại công nghiệp 4.0, nền kinh tế nước ta đang hội nhập kinh tế thế giới
ngày càng rộng, dẫn đến sự chuyển biến sâu sắc về mọi mặt của đời sống kinh tế
- hội đòi hỏi các lĩnh vực không ngừng thay đổi để sáng tạo, nghiên cứu
những cái mới góp phần làm cho đất nước trở nên phát triển. Đặc biệt đối với
những người trẻ như sinh viên nhiều kiến thức, sáng tạo, tinh thần ham học
hỏi nghiên cứu khoa học. Trong môi trường đại học, yếu tố tri thức càng cần
được chú trọng bởi giúp nâng cao hiệu quả học tập nghiên cứu của sinh
viên. Nghiên cứu khoa học chiếm một vai trò quan trọng trong đời sống con
người, đặc biệt sinh viên trong các hoạt động hoạt động, duy trong môi
trường giáo dục. Hoạt động nghiên cứu giúp các sinh viên thể vận dụng
thực hành thuyết để giải các vấn đề thực tế, qua đó sinh viên thể thu về
nhiều lợi ích như kiến thức, kinh nghiệm, khơi gợi khả năng sáng tạo trên giảng
đường đại học của mình.
Nhà nước ta đã khuyến khích các sinh viên tích cực tham gia hoạt động
nghiên cứu khoa học để bồi dưỡng nguồn lực tri thức phục vụ cho sự phát triển
của đất nước. Khi nghiên cứu khoa học, sinh viên không chỉ được học những
kiến thức trong sách vở mà còn được học những vấn đề thực tế ở đời sống xã hội,
rèn luyện những kỹ năng bổ trợ cần thiết cho công việc cuộc sống sau này như:
kỹ năng tư duy phản biện, làm việc nhóm, kỹ thuật tin học,… Ngoài ra sinh viên
còn thỏa sức tư duy sáng tạo để giải quyết một vấn đề, cải thiện kỹ năng mềm và
nhìn bao quát mọi việc. Bên cạnh những kiến thức kinh nghiệm thu được
thông qua việc nghiên cứu khoa học, sinh viên còn được đạt những thành tích
mở rộng cơ hội nghề nghiệp sau này
Đảng nhà nước xác định nghiên cứu khoa học hoạt động không thể
thiếu trong quá trình đào tạo chính vì thế nhà nước sẵn sàng đầu những trang
thiết bị và những chính sách đãi ngộ tốt nhằm thu hút nhân tài. Nhiều trường
đại học và các cơ sở giáo dục đại học luôn đề cao hoạt động nghiên cứu khoa học
để nâng cao nguồn lực tri thức để phục vụ cho đất nước. Năm 2020 một năm
8
nhiều biến động với đại dịch Covid-19, chính vì vậy những con người tri thức đã
bắt tay vào nghiên cứu những phương pháp để giải quyết vấn đề phức tạp này
như sản xuất nước rửa tay khô, Kit xét nghiệm virus SARS-CoV-2, buồng khử
khuẩn toàn thân di động,… Nghiên cứu khoa học là hoạt động tạo ra các tri thức,
đóng góp thêm vào sự hiểu biết của dân tộc Việt Nam, sự phát triển, đào tạo thế
hệ tương lai trong nền giáo dục ở nước ta.
“Nghiên cứu khoa học một trong những công tác vai trò rất quan
trọng trong việc rèn luyện khả năngduy sáng tạo, năng lực nghiên cứutạo
phong cách làm việc khoa học cho người nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu
khoa học là hình thành cho người nghiên cứu phương pháp tiếp cận và làm quen
với môi trường khoa học, phương pháp làm việc khoa học. Qua đó, góp phần làm
sáng tỏ một số vấn đề khoa học giải quyết những vấn đề thực tiễn nảy sinh
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. vậy, tăng cường công tác
nghiên cứu khoa học nhiệm vụ thường xuyên cực kỳ quan trọng của mỗi
giảng viên trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
Cách mạng 4.0 - xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết
nối internet - đang thách thức ý niệm của chúng ta về vai trò thực sự của con
người, trong đó người thầy. Vai trò giảng viên trong thế kỉ XXI trở nên phức
tạp ở một thế giới thay đổi nhanh chóng, nơi mà tri thức hầu như vô tận. Sự thay
đổi nhanh chóng do cuộc cách mạng này đã tạo ra nhiều thay đổi về cấu
chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn
nhân lực ấy không chỉ cần kiến thức, kinh nghiệm, còn cần có khả năng giải
quyết nhanh các vấn đề thực tiễn và tư duy sáng tạo. Muốn bắt kịp xu hướng này,
ngành Giáo dục đào tạo, đặc biệt các giảng viên cần phải những thay đổi
toàn diện để phù hợp với xu thế mới.
Đội ngũ giảng viên các trường đại học phải người chủ động, hào hứng đón
nhận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như một cơ hội, đồng thời coi đây là thách
thức phải vượt qua trong công tác giảng dạy, cũng như nghiên cứu khoa học.
Giảng viên phải xác định nghiên cứu khoa học trong giai đoạn hiện nay khác xa
về chất so với giai đoạn trước. Do vậy, phải cách tiếp cận mới để đáp ứng
được yêu cầu của công việc. Để đáp ứng yêu cầu đó, giảng viên phải thực hiện
tốt ba chức năng quan trọng: Chức năng sáng tạo, chức năng phản biện chức
9
năng giáo dục. Sự hòa quyện giữa trình độ trí tuệ của nhà khoa học với nhà giáo
ở bậc đại học là nền tảng để người giảng viên trụ vững trong tương lai.
Nghiên cứu khoa học giúp giảng viên mở rộng được vốn kiến thức của
mình vận dụng những kiến thức luận ấy vào trong thực tiễn giảng dạy.
Đồng thời nghiên cứu khoa học còn giúp cho người giảng viên được phong
cách phương pháp làm việc khoa học, đặt các vấn đề trong một khung tác
động đa chiều với cách nhìn khách quan, chính xác.”
http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu-khoa-hoc-nhiem-vu-
rat-quan-trong-cua-giang-vien-trong-thoi-dai-cach-mang-khoa-hoc-cong-nghe-4-
0-180.html.
2. TRI THỨC TRONG VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN.
Trong cuộc đời của mỗi con người, giáo dục không đơn giản chỉ học
trong sách vở, truyền thụ kiến thức, thông tin còn giáo dục ngoài nhà
trường (gia đình, hội) để hướng tới phát triển nhân cách, phẩm chất của mỗi
nhân, sự duy sáng tạo để từ đó tìm ra tri thức sử dụng để giải quyết
những vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Tri thức chính chìa khóa quan trọng
để thúc đẩy sự phát triển hội đồng thời cũng mở ra hội học tập cho mọi
người đặc biệt những người trẻ như học sinh, sinh viên. Mỗi nhân học
sinh, sinh viên muốn phát triển thì cần phải tìm tòi, học hỏi những kiến thức
thông tin mọi lúc mọi nơi để trở thành những người tri thức có ích cho đất nước.
Vậy nên, nhà nước đã dựng nên mô hình xã hội học tập giúp cho người dân có cơ
hội học tập để hình thành nhân cách, hiểu được các giá trị của cuộc sống, môi
trường, và làm việc hiệu quả, có ích để giúp ích cho cộng đồng và đất nước.
Để đáp ứng những yêu cầu về công nghiệp hóa- hiện đại hóa trong bối
cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, cần một nguồn lực tri thức dồi dào, luôn
luôn đổi mới, sáng tạo, năng động, thích ứng nhanh với môi trường mới. Sinh
viên chính chủ thể của hoạt động học tập, những người luôn luôn đổi mới,
cập nhật kỹ thuật cao, phong cách sống mới: năng động, khả năng thích nghi
cao sáng tạo.để sinh viên thể học tập để trở thành những công dân tri
thức, phải xây dựng được hình thức “công dân học tập” góp phần xây dựng
hội phát triển. Đây không chỉ trách nhiệm của ngành giáo dục trách
nhiệm của mỗi người của toàn hội. Hoạt động giáo dục hai yếu tố
then chốt cho nguồn lực tri thức tham gia vào lao động hội. Sinh viên muốn
phát huy được tính sáng tạo, đổi mới của bản thân thì việc t học, tự tìm tòi,
10
khám phá luôn luôn quan trọng để hình thành tri thức. Hoạt động tự học của sinh
viên ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của quá trình học. Tự học hoạt động
sinh viên thỏa mãn nhu cầu trong học tập, hoàn thành các nhiệm vụ học tập bắt
buộc phải thực hiện trong một thời gian nhất định. Quá trình tự học của sinh viên
giúp nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân, nảy sinh ở sinh viên sự ham hiểu
biết, lòng ham mê tìm tòi, khám phá, nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức khoa học.
Ngoài ra, tự học còn hình thànhrèn luyện các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu,
tìm và thu thập tài liệu, kỹ năng lập kế hoạc, kỹ năng phân bố thời gian cho việc
tự học… Sinh viên cần tự học một cách có ý thức, sáng tạo chứ không mang tính
đối phó hay chạy theo thành tích. Việc tích lũy tri thức sinh viên không chỉ
điểm số, giấy khen, bằng cấp mà nằm ở phẩm chất, đạo đức và những giá trị đem
lại cho hội. Do đó, sinh viện phải biết phân bố thời gian phù hợp, vận dụng
các kỹ năng để quá trình học tập của mình đạt kết quả cao hơn.
KẾT LUẬN
Tri thức là vốn hiểu biết không bao giờ cạn kiệt. Trong sự phát triển
hội nói chung thì tri thức vai trò quan trọng không thể thiếu với
mọi lĩnh vực trong hội. Đồng thời, tri thức cũng đóng góp phần lớn
trong việc nghiên cứu và học tập. Yếu tố tri thức giúp cho quá trình học tập
của sinh viên trở nên có hiệu quả, tốt hơn từng ngày và là nền tảng chuẩn bị
cho những công việc sau khi ra trường. "Tri thức là sức mạnh" là lời khẳng
đinh mạnh mẽ cũng chính chân vĩnh hằng đối với con người. Hãy
trau dồi tri thức, rèn luyện, kiên trì học tập cách để chúng ta chiếm lĩnh
được tri thức, mang đến sức mạnh, lợi thế cho chính mình, cho dân tộc
quốc gia.
11
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình Triết học Mác – Lênin
- Slide bài giảng
- http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/34091
- http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu-khoa-hoc-nhiem-
vu-rat-quan-trong-cua-giang-vien-trong-thoi-dai-cach-mang-khoa-hoc-cong-
nghe-4-0-180.html.
12

Preview text:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác – Lênin về tri thức, vai trò
của tri thức và sự vận dụng quan điểm đó trong nghiên cứu, học
tập của sinh viên”. Họ và tên : Mã số sinh viên :
Lớp tín chỉ : Triết học Mác – Lênin(221)_37
Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng

Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2022 Mục lục A. LỜI MỞ ĐẦU
…………………………………………………………..1 B. NỘI DUNG
……………………………………………………………..2 I. LÝ LUẬN CHUNG CỦA
TRIẾT HỌC VỀ TRI THỨC ………2 1. KHÁI NIỆM
VỀ TRI THỨC ……………………………….2 2. V
AI TRÒ CỦA TRI THỨC …………………………………2
a. Vai trò của tri thức đối với kinh tế……………………….2
b. Vai trò của tri thức đối với chính trị……………………..5
c. Vai trò của tri thức đối với xã hội………………………..6 II. VẬN
DỤNG – TRI THỨC TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN………………………………………………8
1. Tri thức của sinh viên trong nghiên cứu khoa học………….8
2. Tri thức trong việc học tập của sinh viên…………………..10 C. KẾT L
UẬN ……………………………………………………………11 LỜI MỞ ĐẦU
Nhà văn Francis Baron đã nói rằng: “Tri thức là sức mạnh”, qua câu nói đó
ta có thể nhận ra rằng để có thể vững bước trên con đường đời thì mỗi
người cần phải mang trong mình tri thức. Tác động của tri thức đối với đời
sống xã hội là vô cùng to lớn, tri thức là người bảo vệ và nuôi dưỡng những
nét đẹp văn hóa mà ông cha ta truyền lại sau đó hình thành tri thức chuyên
môn và khả năng sẵn có của chính mình. Trong những năm gần đây, dưới
tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên mọi phương
diện với những tiến bộ khoa học công nghệ, truyển thông, thế giới đang
thay đổi nhanh chóng tới một nền kinh tế và xã hội mà trong đó thông tin
và tri thức là yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên sự giàu mạnh của một
quốc gia, dân tộc, là cơ sở cho sự phát triển. Xã hội loài người càng phát
triển thì vai trò của tri thức ngày càng được ưu tiên và là dấu hiệu của một
nền tri thức rông mở. Các nước phát triển trên thế giới với nhiều thành tựu
về khoa học công nghệ và luôn hướng tới một xã hội tri thức, do đó nâng
cao tri thức để phục vụ cho kinh tế là chiến lược cấp bách hàng đầu để đưa
Việt Nam bắt kịp và phát triển cùng thế giới.
Trong bối cảnh hiện tại, sự bùng nổ của khoa học công nghệ mang
lại nguồn kiến thức rộng lớn và đòi hỏi chúng ta phải biến chúng thành tri
thức của mình. Hoạt động nghiên cứu và học tập của sinh viên cũng là một
thành phần quan trọng đối với đời sống xã hội và góp phầm vào sự phát
triển của đất nước. Để tăng trưởng nền kinh tế và đất nước đi trên con
đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mỗi người cần phải tích lũy tri thức
và tìm những phương pháp, lối đi phù hợp cho đất nước. Vì vậy em quyết
định chọn đề tài tri thức để làm đề tài nghiên cứu của mình. 1
I. LÝ LUẬN CHUNG CỦA TRIẾT HỌC VỀ TRI THỨC
1. Khái niệm về tri thức.
Lênin đã từng nói: “Tri thức là sức mạnh. Ai có tri thức thì người đó có được
sức mạnh”. Câu nói của Lênin đã góp phần giúp cho lịch sử loài người hiểu biết
sâu hơn về tri thức cũng như nhấn mạnh về vai trò và sức mạnh của tri thức đối
với cuộc sống chúng ta. Vậy tri thức là gì?
Tri thức là những kiến thức, kinh nghiệm của con người được đúc kết trong
một thời gian dài qua hàng trăm thế kỉ, hay từ thời xa xưa đến ngày nay để hình
thành nên hiểu biết về những vấn đề trên thế giới như khoa học, lịch sử, đời sống
xã hội. Nhắc đến tri thức là những người kiến thức phong phú, học vấn rộng,
hiểu biết sâu xa về nhiều cấn đề, tri thức là phương thức tồn tại của ý thức. Con
người ý thức cao cũng đồng nghĩa với tích lũy nhiều được nhiều tri thức, đi sâu
vào bản chất sự vật và cải tạo thế giới tốt hơn. Vốn trí thức của con người là
mênh mông rộng lớn, dồi dào sự sinh sôi và phát triển, tri thức bao gồm những
dữ liệu, thông tin hay kỹ năng, kinh nghiệm có từ trải nghiệm thực tế hay qua
giáo dục. Đôi khi, người ta còn dùng kiến thức để chỉ tri thức. Thế nhưng, Tri
thức có hàm nghĩa rộng lớn hơn kiến thức rất nhiều. Có thể nói, tri thức chính là
nguồn sức mạnh quan trọng, là một phần không thể thiếu trong hoạt động của đời
sống con người hay cũng là sức mạnh thúc đẩy sự phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh
Chúng ta vận dụng những tri thức của con người trong các hoạt động lao
động, sản xuất, nghiên cứu khoa học, công nghệ máy móc. Từ kết quả của tri
thức, nó giúp cho xã hội tiến lên, phát triển, phồn thịnh hơn trong tương lai. Yếu
tố tri thức còn được hiểu như là sáng tạo ra cái mới, tiến bộ vượt bậc để dẫn tới
sự phát triển cuả dân tộc, xã hội và đất nước càng thêm giàu mạnh. Con người
biết tích lũy tri thức nhờ đó có thể hiểu biết về thế giới khách quan.
2. Vai trò của tri thức
a. Vai trò của tri thức đối với kinh tế
Tri thức là một nhân tố rất quan trọng, đặc biệt là trong nền kinh tế hiện
nay với nhiều nước trên thế giới ngày càng phát triển, sáng tạo ra nhiều sản phẩm 2
khoa học công nghệ để thúc đẩy nền kinh tế. Trong tri thức chứa đựng những
kiến thức kinh nghiệm, chất xám để biến thành năng lượng đưa đất nước phát
triển, sánh vai với cường quốc năm châu. Sử dụng hiệu quả tri thức giữ vai trò
then chốt để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội, tạo ra nhiều phát minh giúp
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân loại.
Trước hết, tri thức là lực lượng sản xuất trực tiếp, là nguồn vốn cơ bản có
vai trò quyết định sản xuất. Nền kinh tế phát triển hay không là nhờ vào nguồn
lực tri thức, đó cũng chính là nguồn vốn vô hình khổng lồ. Trong nền văn minh
trí tuệ, tri thức là yếu tố quyết định của sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy
cho sự phát triển của đất nước."Sự tiến bộ của cách mạng công nghệ lại thúc đẩy
khoa học phát triền nhanh hơn nữa và đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp" (TS. Trần Quang Lâm). Nói cách khác thì đất nước nào có nguồn tri
thức vô hạn, phong phú thì sẽ nắm trong tay quyền chủ động trong sản xuất và
thu về lợi nhuận. Theo Alvin Toffler, tri thức có thể thay thế vật chất, giao thông
vận tải, nguồn năng lượng và tiết kiệm thời gian.
Có thể nói, trong nền kinh tế hiện đại, những thành tựu khoa học - kỹ
thuật và nền sản xuất công nghiệp đã tạo ra những điều kiện vật chất cần thiết và
thuận lợi để mọi người phát huy, bộc lộ hết những tiềm năng trí tuệ của mình. Ví
dụ điển hình như Nhật Bản, là một nước nghèo tài nguyên, khí hậu địa hình khắc
nghiệt những nhờ có nguồn lực tri thức dồi dào mà đất nước Nhật Bản đã giữ
một trong các vị trí cao nhất trong những quốc gia phát triển. Phần lớn sản phẩm
của Nhật Bản là những công nghệ hiện đại, khoa học cao và tiên tiến nhất.
Những phát minh đó là nhờ đến những con người tri thức cố gắng và không
ngừng nỗ lực để phát triển đất nước dù có khó khăn cản trở họ như thế nào.
Thấy được vai trò quan trọng của tri thức trong đời sống xã hội hiện đại,
Đảng ta đặt ra chính sách giáo dục và phát triển khoa học, công nghệ lên hàng
đầu, tạo cơ hội để phát triển nguồn lực trí tuệ như là yếu tố quyết định trong công
cuộc đổi mới, hiện đại hóa đất nước. Đảng ta đã và đang vận động toàn dân học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để có thế góp phần giúp đất
nước phát triển, tiến bộ về mọi mặt và sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới. 3
Không chỉ vậy, nền kinh tế tri thức có tính chất toàn cầu hóa. Trong thời
đại toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và thế giới bước vào cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, những quốc gia vận dụng tri thức hiệu quả để sáng tạo, đổi mới
sẽ có cơ hội để vượt lên mạnh mẽ thành những nước phát triển và bền vững.
Những năm qua vừa qua, nhà nước ta luôn quan tâm đến thúc đẩy sự phát triển
khoa học và công nghệ, phát hiện, đào tạo nhân tài. Ðại hội lần thứ XII của Ðảng
đã xác định cần phải "phát huy năng lực sáng tạo của mọi cá nhân, doanh nghiệp,
tổ chức" để phát triển nguồn vốn tri thức, nâng cao chất lượng, trình độ nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, tri thức hóa các quyết sách kinh tế. Kinh tế tri thức đã và
đang trở thành xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới, được nhiều quốc
gia lựa chọn làm chiến lược phát triển, điển hình như: Mỹ, Canada, Tây Âu, Nhật
Bản, Singapore, Úc - nơi các yếu tố của nền kinh tế tri thức ở mức khá cao, trong
đó các ngành công nghiệp dựa trên tri thức đã đóng góp trên 40% GDP[1]; và
đang hình thành tại một số quốc gia đang phát triển như: Trung Quốc, Ấn Độ,
Malaysia, Thái Lan… Tại những quốc gia này, những quyết sách để phát triển
kinh tế tri thức nhằm tạo ra những bước đột phá.
http://www.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/34091
Quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Nước ta đang trong bối
cảnh hội nhập quốc tế nên quyền sở hữu trí tuệ được coi như là một công cụ để
phát triển nền kinh tế, văn hóa xã hội đất nước, là yếu tố đánh giá sự phát triển
của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và đầu tư nước ngoài. Quyền sở hữu
trí tuê › là sự duy trì và đảm bảo sự đổi mới sáng tạo sẽ tiếp tục được diễn ra, tạo ra
những thành quả mới từ tri thức từ đó phục vụ đất nước phát triển mạnh mẽ hơn.
Các tài sản trí tuệ và quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Vậy nên
Đảng và nhà nước đã thiết lập chính sách bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ
đảm bảo nguồn lực tri thức có thể thỏa sức sáng tạo và phát triển.
Sở hữu trí tuệ là yếu tố quyết định làm nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ
cho xã hội, đồng thời nó cũng luôn tạo cơ hội cho con người để chế tạo ra những
thành quả có giá trị cho đất nước. Nói về lịch sử của các nước phát triển trên thế 4
giới thì sở hữu trí tuệ là tài sản quan trọng nhất đối với sự tang trưởng của đất
nước. Ví dụ như Apple có nhiều phát minh ra đời không chỉ thu được nhiều lợi
nhuận từ những sản phẩm mới này mà còn thu được nhiều tỷ USD từ việc bán
bản quyền. Văn hóa sở hữu trí tuệ đã tạo ra năng lực trong tham gia cạnh tranh
trên thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra còn là công cụ đắc lực cạnh tranh
cho doanh nghiệp trong và ngoài nước trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.
do đó cần nhiều nguồn lực tri thức để tang trưởng kinh tế. Quyền sở hữu trí tuệ
ngăn chặn những hành vi gian dối giúp mọi người có niềm tin vào sự trung thực
để tìm kiếm lợi ích. Ta thấy những quốc gia phát triển trên thế giới hiện nay như
Mỹ, Canada, Nhật,… đều có năng lực cạnh tranh và tiếp cận thị trường cao phần
lớn đó cũng nhờ có nhiều quyền sở hữu trí tuệ và đánh giá cao những quyền đó.
Viê ›c thúc đẩy quyền sở hữu trí tuệ được coi như một nguyên lí của sự vận động
và phát triển của nền kinh tế. Thực tế thì những công ty hay doanh nghiệp nào có
lợi nhuận lớn thường là nơi biết phát triển và đầu tư nguồn lực tri thức và từ đó
dẫn đến sự thành công trong công việc.
b. Vai trò của tri thức đối với chính trị.
Đối với mỗi quốc gia, nguồn nhân lực có tri thức phong phú đóng vai trò
quyết định đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi quốc gia. Từ xa xưa, ta đã có
bao nhiêu anh hùng đã giành được nhiều chiến công phần lớn là nhờ vào trí
thông minh để nghĩ ra những chiến lược khôn ngoan để đánh thắng quân địch.
Chính vì vậy dù ta lực lượng yếu vẫn thắng địch giành lại độc lập cho dân.
Trong bối cảnh nước ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới và ngày
càng tác động mạnh mẽ đến nước ta, Đảng ta luôn chú trọng và phát huy đội ngũ
tri thức ở nhiều lĩnh vực hoạt động, nâng cao dân trí và giáo dục, đào tạo những
nhân tài. Những con người tri thức đó đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất
nước của Đảng về các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Các cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã
chứng minh rằng, muốn đất nước phát triển nhanh, thành công và bền vững cần
có hệ thống đường lối, chính sách lãnh đạo đúng đắn của Đảng phù hợp với từng
giai đoạn phát triển. Trong quá trình xây dựng đường lối và chính sách của đất
nước, các nhà chính trị không thể một mình dựa vào tri thức và kinh nghiệm của 5
mình mà còn phải tham khảo ý kiến và sử dụng tri thức của đội ngũ trí thức Việt
Nam. Các thành phần tri thức là những người sáng tạo, có hiểu biết sâu rộng, có
tầm nhìn để dẫn dắt, định hướng những đường lối đúng đắn cho đất nước và mở
đường cho dân tộc ta. Không chỉ vậy, đội ngũ tri thức cũng cần phải hiểu biết về
những vấn đề xã hội để tìm ra giải pháp hợp lí. Bên cạnh những hiểu biết, những
người đó cũng cần phải biết gìn giữ, phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc ta.
Tất cả những điều đó cùng với những đóng góp cho xã hội khiến cho ta càng đề
cao, trân trọng những con người tri thức. Tri thức đóng vai trò chính yếu, mũi
nhọn trong quá trình thực hiện đường lối chính sách của Đảng và từ đó cũng là
nền tảng cho công cuộc đổi mới đất nước.
Nói chung, tri thức đã phát triển lớn mạnh và có những đóng góp to lớn
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như sự phát triển đất nước ta.
Với sự phát triển đó, đội ngũ trí thức luôn đóng vai trò là lực lượng then chốt
trong sáng tạo giá trị vật chất, tinh thần và truyền bá tri thức để góp phần đất
nước vươn lên tầm cao mới. Đảng ta đã có nhiều chính sách đào tạo nhân dân lao
động trở thành những cán bộ tri thức chuyên về các lĩnh vực khoa học công nghệ,
các nhà giáo, các văn nghệ sỹ.
c. Vai trò của tri thức đối với xã hội.
Đối với xã hội, tri thức đóng góp một phần quan trọng trong việc phát
triển đất nước, và văn hóa của nước ta cũng vào sự ổn định phát triển. Dưới tác
động của những tiến bộ của khoa học công nghệ, nền kinh tế và xã hội đã có
nhiều thay đổi, chuyển biến tới môi trường xã hội tri thức. Vậy nên đất nước cần
những nguồn lực tri thức thì tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm, nâng cao đời sống của
nhân dân. Trước đây, tri thức thường là tầng lớp tri thức và của những người có
học vấn trong xã hội. Nhưng đến thời đại thông tin hiện nay, với các phương tiện
truyền thông hiện đại, con người mới có thể chia sẻ tri thức cho nhau để cùng
phát triển. Khi đó chúng ta mới có được một xã hội tri thức thực sự. Nhà nước đề
cao nguồn lực tri thức thì giáo dục sẽ được đưa lên hàng đầu để xây dựng một
môi trường giáo dục lành mạnh, chất lượng và bồi dưỡng nhân tài đưa đất nước
ngày càng lớn mạnh hơn và nâng cao vị trí để sánh vai với các nước phát triển.
Từ xa xưa, tri thức gắn liền với đời sống tinh thần, đạo đức, trí tuệ và lịch
sử phát triển của loài. Con người sáng tạo ra và sử dụng tri thức từ đó nghĩ ra 6
những phát minh để cải thiện đời sống. Trong xã hội tri thức, thông tin và tri thức
là những điều quyết định trong mọi lĩnh vực xã hội không chỉ vậy chúng còn
chuyển hóa lẫn nhau và được diễn ra trong môi trường giáo dục và đào tạo. Giáo
dục hiện nay không chỉ trong phạm vi của môi trường chính quy, mà còn có
nghĩa là tự giáo dục, tự đào tạo, tự học. Có được điều này chính là nhờ sự hỗ trợ
có hiệu quả của công nghệ thông tin và truyền thông. Các quốc gia trên thế giới
luôn đề ra những chính sách để thúc đẩy nền giáo dục phát triển, tạo điều kiện
cho mọi người đều có quyền học để thành những người có tri thức và phục vụ đất
nước. Hầu hết các nước đều thực thi chính sách giáo dục miễn phí cho học sinh
tiểu học. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ngoài ra. Các quốc gia ở
châu Âu còn có những chính sách học phí ưu đãi như Đức, Thụy Điển, Áo,…
Nhưng việc hỗ trợ này mới chỉ thực hiện được ở các trường công lập. Một xã hội
tri thức bền nó bảo tồn và thúc đẩy các quyền con người và quyền công dân; khi
việc truy cập tri thức không bị giới hạn và có khả năng bao quát rộng lớn, khi
việc truy cập tri thức và thông tin được cung cấp cho mọi người dân trên thế giới
cơ hội được tự phát triển về mọi mặt trong cuộc sống. Tất cả những điều đó cũng
chính là việc chúng ta phải khắc phục những khuyết điểm của xã hội thông tin để
xây đựng một xã hội tri thức bền vững. Những điều tiêu cực đó liên quan đến
quyền sở hữu trí tuệ, ô nhiễm và huỷ hoại môi trường.
Có thể nói, xã hội tri thức thể hiện sự sử dụng thông tin và tận dụng tri
thức nhằm mục đích sáng tạo. Xã hội tri thức mang ý nghĩa nhân quyền, phẩm
chất nhân văn cao cả, chuyển sang xã hội tri thức là một xu hướng hợp lý và nó
đang nhận được sự đồng tình của đông đảo giới khoa học. Sáng tạo và đổi mới
không ngừng chính là những yếu tố mà chúng ta cần chuẩn bị để vững bước đi
trong xã hội hiện đại ngày nay. Vậy nên sự tồn tại của xã hội tri thức ở nước ta
cần phải được thực hiện và duy trì nó càng sớm càng tốt, phải xem mọi dự đoán
đều có thể sai, và chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ để có thể ứng phó linh hoạt và kịp
thời trước mọi đổi thay. Phát triển tri thức làm cho xã hội giàu có thông tin và
trau dồi các phẩm chất và đạo đức đó giúp cho đất nước ta vươn lên trong mọi
khó khăn, chuẩn bị cho hội nhập nền kinh tế thế giới trong tương lai. 7 II.
VẬN DỤNG – TRI THỨC TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN.
1. TRI THỨC CỦA SINH VIÊN TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Thời đại công nghiệp 4.0, nền kinh tế nước ta đang hội nhập kinh tế thế giới
ngày càng rộng, dẫn đến sự chuyển biến sâu sắc về mọi mặt của đời sống kinh tế
- xã hội đòi hỏi các lĩnh vực không ngừng thay đổi để sáng tạo, nghiên cứu
những cái mới góp phần làm cho đất nước trở nên phát triển. Đặc biệt đối với
những người trẻ như sinh viên có nhiều kiến thức, sáng tạo, tinh thần ham học
hỏi và nghiên cứu khoa học. Trong môi trường đại học, yếu tố tri thức càng cần
được chú trọng bởi nó giúp nâng cao hiệu quả học tập và nghiên cứu của sinh
viên. Nghiên cứu khoa học chiếm một vai trò quan trọng trong đời sống con
người, đặc biệt là sinh viên và trong các hoạt động hoạt động, tư duy trong môi
trường giáo dục. Hoạt động nghiên cứu giúp các sinh viên có thể vận dụng và
thực hành lý thuyết để giải các vấn đề thực tế, qua đó sinh viên có thể thu về
nhiều lợi ích như kiến thức, kinh nghiệm, khơi gợi khả năng sáng tạo trên giảng
đường đại học của mình.
Nhà nước ta đã khuyến khích các sinh viên tích cực tham gia hoạt động
nghiên cứu khoa học để bồi dưỡng nguồn lực tri thức phục vụ cho sự phát triển
của đất nước. Khi nghiên cứu khoa học, sinh viên không chỉ được học những
kiến thức trong sách vở mà còn được học những vấn đề thực tế ở đời sống xã hội,
rèn luyện những kỹ năng bổ trợ cần thiết cho công việc cuộc sống sau này như:
kỹ năng tư duy phản biện, làm việc nhóm, kỹ thuật tin học,… Ngoài ra sinh viên
còn thỏa sức tư duy sáng tạo để giải quyết một vấn đề, cải thiện kỹ năng mềm và
nhìn bao quát mọi việc. Bên cạnh những kiến thức và kinh nghiệm thu được
thông qua việc nghiên cứu khoa học, sinh viên còn được đạt những thành tích và
mở rộng cơ hội nghề nghiệp sau này
Đảng và nhà nước xác định nghiên cứu khoa học là hoạt động không thể
thiếu trong quá trình đào tạo chính vì thế nhà nước sẵn sàng đầu tư những trang
thiết bị và có những chính sách đãi ngộ tốt nhằm thu hút nhân tài. Nhiều trường
đại học và các cơ sở giáo dục đại học luôn đề cao hoạt động nghiên cứu khoa học
để nâng cao nguồn lực tri thức để phục vụ cho đất nước. Năm 2020 là một năm 8
nhiều biến động với đại dịch Covid-19, chính vì vậy những con người tri thức đã
bắt tay vào nghiên cứu những phương pháp để giải quyết vấn đề phức tạp này
như sản xuất nước rửa tay khô, Kit xét nghiệm virus SARS-CoV-2, buồng khử
khuẩn toàn thân di động,… Nghiên cứu khoa học là hoạt động tạo ra các tri thức,
đóng góp thêm vào sự hiểu biết của dân tộc Việt Nam, sự phát triển, đào tạo thế
hệ tương lai trong nền giáo dục ở nước ta.
“Nghiên cứu khoa học là một trong những công tác có vai trò rất quan
trọng trong việc rèn luyện khả năng tư duy sáng tạo, năng lực nghiên cứu và tạo
phong cách làm việc khoa học cho người nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu
khoa học là hình thành cho người nghiên cứu phương pháp tiếp cận và làm quen
với môi trường khoa học, phương pháp làm việc khoa học. Qua đó, góp phần làm
sáng tỏ một số vấn đề khoa học và giải quyết những vấn đề thực tiễn nảy sinh
nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy. Vì vậy, tăng cường công tác
nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ thường xuyên và cực kỳ quan trọng của mỗi
giảng viên trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay.
Cách mạng 4.0 - xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết
nối internet - đang thách thức ý niệm của chúng ta về vai trò thực sự của con
người, trong đó có người thầy. Vai trò giảng viên trong thế kỉ XXI trở nên phức
tạp ở một thế giới thay đổi nhanh chóng, nơi mà tri thức hầu như vô tận. Sự thay
đổi nhanh chóng do cuộc cách mạng này đã tạo ra nhiều thay đổi về cơ cấu và
chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn
nhân lực ấy không chỉ cần kiến thức, kinh nghiệm, mà còn cần có khả năng giải
quyết nhanh các vấn đề thực tiễn và tư duy sáng tạo. Muốn bắt kịp xu hướng này,
ngành Giáo dục và đào tạo, đặc biệt các giảng viên cần phải có những thay đổi
toàn diện để phù hợp với xu thế mới.
Đội ngũ giảng viên các trường đại học phải là người chủ động, hào hứng đón
nhận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như một cơ hội, đồng thời coi đây là thách
thức phải vượt qua trong công tác giảng dạy, cũng như nghiên cứu khoa học.
Giảng viên phải xác định nghiên cứu khoa học trong giai đoạn hiện nay khác xa
về chất so với giai đoạn trước. Do vậy, phải có cách tiếp cận mới để đáp ứng
được yêu cầu của công việc. Để đáp ứng yêu cầu đó, giảng viên phải thực hiện
tốt ba chức năng quan trọng: Chức năng sáng tạo, chức năng phản biện và chức 9
năng giáo dục. Sự hòa quyện giữa trình độ trí tuệ của nhà khoa học với nhà giáo
ở bậc đại học là nền tảng để người giảng viên trụ vững trong tương lai.
Nghiên cứu khoa học giúp giảng viên mở rộng được vốn kiến thức của
mình và vận dụng những kiến thức lý luận ấy vào trong thực tiễn giảng dạy.
Đồng thời nghiên cứu khoa học còn giúp cho người giảng viên có được phong
cách và phương pháp làm việc khoa học, đặt các vấn đề trong một khung tác
động đa chiều với cách nhìn khách quan, chính xác.”
http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu-khoa-hoc-nhiem-vu-
rat-quan-trong-cua-giang-vien-trong-thoi-dai-cach-mang-khoa-hoc-cong-nghe-4- 0-180.html.
2. TRI THỨC TRONG VIỆC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN.
Trong cuộc đời của mỗi con người, giáo dục không đơn giản chỉ là học
trong sách vở, truyền thụ kiến thức, thông tin mà còn là giáo dục ngoài nhà
trường (gia đình, xã hội) để hướng tới phát triển nhân cách, phẩm chất của mỗi
cá nhân, sự tư duy sáng tạo để từ đó tìm ra tri thức và sử dụng nó để giải quyết
những vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Tri thức chính là chìa khóa quan trọng
để thúc đẩy sự phát triển xã hội đồng thời cũng mở ra cơ hội học tập cho mọi
người đặc biệt là ở những người trẻ như học sinh, sinh viên. Mỗi cá nhân học
sinh, sinh viên muốn phát triển thì cần phải tìm tòi, học hỏi những kiến thức và
thông tin mọi lúc mọi nơi để trở thành những người tri thức có ích cho đất nước.
Vậy nên, nhà nước đã dựng nên mô hình xã hội học tập giúp cho người dân có cơ
hội học tập để hình thành nhân cách, hiểu được các giá trị của cuộc sống, môi
trường, và làm việc hiệu quả, có ích để giúp ích cho cộng đồng và đất nước.
Để đáp ứng những yêu cầu về công nghiệp hóa- hiện đại hóa trong bối
cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, cần có một nguồn lực tri thức dồi dào, luôn
luôn đổi mới, sáng tạo, năng động, thích ứng nhanh với môi trường mới. Sinh
viên chính là chủ thể của hoạt động học tập, là những người luôn luôn đổi mới,
cập nhật kỹ thuật cao, có phong cách sống mới: năng động, khả năng thích nghi
cao và sáng tạo. Và để sinh viên có thể học tập để trở thành những công dân tri
thức, phải xây dựng được hình thức “công dân học tập” góp phần xây dựng xã
hội phát triển. Đây không chỉ là trách nhiệm của ngành giáo dục mà là trách
nhiệm của mỗi người và của toàn xã hội. Hoạt động và giáo dục là hai yếu tố
then chốt cho nguồn lực tri thức tham gia vào lao động xã hội. Sinh viên muốn
phát huy được tính sáng tạo, đổi mới của bản thân thì việc tự học, tự tìm tòi, 10
khám phá luôn luôn quan trọng để hình thành tri thức. Hoạt động tự học của sinh
viên ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của quá trình học. Tự học là hoạt động
sinh viên thỏa mãn nhu cầu trong học tập, hoàn thành các nhiệm vụ học tập bắt
buộc phải thực hiện trong một thời gian nhất định. Quá trình tự học của sinh viên
giúp nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân, nảy sinh ở sinh viên sự ham hiểu
biết, lòng ham mê tìm tòi, khám phá, nghiên cứu để chiếm lĩnh tri thức khoa học.
Ngoài ra, tự học còn hình thành và rèn luyện các kỹ năng tự học, tự nghiên cứu,
tìm và thu thập tài liệu, kỹ năng lập kế hoạc, kỹ năng phân bố thời gian cho việc
tự học… Sinh viên cần tự học một cách có ý thức, sáng tạo chứ không mang tính
đối phó hay chạy theo thành tích. Việc tích lũy tri thức ở sinh viên không chỉ ở
điểm số, giấy khen, bằng cấp mà nằm ở phẩm chất, đạo đức và những giá trị đem
lại cho xã hội. Do đó, sinh viện phải biết phân bố thời gian phù hợp, vận dụng
các kỹ năng để quá trình học tập của mình đạt kết quả cao hơn. KẾT LUẬN
Tri thức là vốn hiểu biết không bao giờ cạn kiệt. Trong sự phát triển
xã hội nói chung thì tri thức có vai trò quan trọng và không thể thiếu với
mọi lĩnh vực trong xã hội. Đồng thời, tri thức cũng đóng góp phần lớn
trong việc nghiên cứu và học tập. Yếu tố tri thức giúp cho quá trình học tập
của sinh viên trở nên có hiệu quả, tốt hơn từng ngày và là nền tảng chuẩn bị
cho những công việc sau khi ra trường. "Tri thức là sức mạnh" là lời khẳng
đinh mạnh mẽ và cũng chính là chân lí vĩnh hằng đối với con người. Hãy
trau dồi tri thức, rèn luyện, kiên trì học tập là cách để chúng ta chiếm lĩnh
được tri thức, mang đến sức mạnh, lợi thế cho chính mình, cho dân tộc và quốc gia. 11 Tài liệu tham khảo
- Giáo trình Triết học Mác – Lênin - Slide bài giảng - http://www
.thanhdoan.hochiminhcity.gov.vn/ThanhDoan/webtd/News/34091
- http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/ nghien-cuu-khoa-hoc-nhiem-
vu-rat-quan-trong-cua-giang-vien-trong-thoi-dai-cach-mang-khoa-hoc-cong- nghe-4-0-180.html. 12