Quan điểm của triết học Mác - Lenin về vật chất, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất. Liên hệ thực tiễn | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

Vật chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, xung quanh vấn đề này luôn diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Bản thân quan niệm của chủ nghĩa duy vật về phạm trù vật chất cũng phải trải qua lịch. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TR NG Đ I H C S PH M KỸỸ THU T TP.HỒỒ CHÍ MINHƯỜ Ư
KHOA LÝ LU N CHÍNH TR

QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
VỀ VẬT CHẤT, PHƯƠNG THỨC VÀ HÌNH THỨC
TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Tiểu luận cuối kỳ
(Môn học: Triết học Mác - Lênin)
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_03
GVHD: TS.Nguyễn Thị Quyết
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 2
HỌC KỲ: I–NĂM HỌC: 2020-2021
TP.HỒ CHÍ MINH – 2020
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài:
1.Phan Minh Chiến - 19143217 (nhóm trưởng)
2.Ngô Tiến Thanh - 19143331
3.Trần Nhật Hào - 19143241
4.Đặng Quang Huy - 19143255
5.Ngô Minh Quang - 19146377
6.Phạm Duy Phong - 19146374
ĐIỂM:
NHẬN XÉT CỦA GV:
GV ký tên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Vật chất một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Trong
lịch sử tư tưởng nhân loại, xung quanh vấn đề này luôn diễn ra cuộc đấu tranh
không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Bản thân
quan niệm của chủ nghĩa duy vật về phạm trù vật chất cũng phải trải qua lịch
sử phát triển lâu dài, gắn liền với những tiến bộ của khoa học thực tiễn.
Là những sinh viên năm hai được học tập và rèn luyện dưới mái trường Đại
học phạm Kỹ thuật, được thầy truyền đạt dạy bảo những kiến thức cơ
bản về bộ môn khoa học Triết học Mác - Lênin. Nhưng để có được những cơ sở
lí luận và phương pháp luận nhằm học tập tốt hơn, vì bộ môn khoa học này hầu
hết đều phải dựa vào kiến thức, các nguyên lý, các quy luật và các cặp phạm trù
triết học Mác-Lênin đưa ra, thì tất yếu nhất của bài tiểu luận này vừa để bồi
dưỡng thêm kiến thức bộ môn vừa giúp thỏa mãn được sự đam học hỏi
sáng tạo khoa học của các sinh viên đại học. Mặt khác, thông qua đây còn
giúp sinh viên nhận thức một cách sâu sắc hơn về những vấn đề kinh tế, chính
trị và đời sống xã hội thực tiễn.
Việc nghiên cứu phạm trù vật chất ý nghĩa quan trọng, chìa khóa
dẫn đến những vấn đề khác trong chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính vì vậy,
chúng em đã chọn đề tài: Quan điểm của triết học Mác - Lenin về vật chất,
phương thức hình thức tồn tại của vật chất. Liên hệ thực tiễn cho bài tiểu
luận của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chínhphạm trù vật chất trong chủ nghĩa duy vật biện
chứng trong thực tiễn.
1
Nhiệm vụ của nhóm tìm hiểu các quan điểm của triết học Mác - Leenin về
vật chất, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất và ý nghĩa của phương
pháp luận.
Từ đó nhóm đề ra mục tiêu là bên cạnh việc hiểu được các quan điểm của triết
học Mác - Lênin về vật chất, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất thì
nhóm phải rút ra bài học vận dụng được kiến thức để giải quyết vấn đề cụ
thể trong thực tiễn (kinh tế, chính trị,…).
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứngchủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp
cụ thể như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch…
2
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm của triết học Mác - Lenin về vật chất, phương
thức và hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Quan điểm về vật chất
1.1.1. Quan điểm về vật chất trong triết học trước Mác
Ở thời kì cổ đại
Các nhà triết học duy vật cổ đại thường coi vật chất là một vật thể nào đó,
cụ thể, mang lại tính trực quan cảm tính, có thể là vật thể hữu hình. Xu hướng
chung của các nhà triết học thời kỳ này là như vậy và cho rằng các vật thể đó
là những đơn vị cuối cùng, tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
* Các quan điểm:
- Quan điểm nhất nguyên: quan điểm xuất phát từ nhận thức trực
quan sinh động, cảm tính, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng, mọi sự
vật, hiện tượng quá trình của thế giới đều được bắt nguồn từ một nguyên
thể đầu tiên rõ rệt.
dụ: Talet cho rằng: Vật chất nước, nước yếu tố đầu tiên, mọi sự
vật đểu sinh ra từ nước, nước cấu thành ra cả vũ trụ, con người, vạn vật và tồn
tại dưới nhiều trạng thái khác nhau, khi phân huỷ lại biến thành nước. Mọi vật
đều có sinh ra và mất đi, biến đổi không ngừng, chỉ có nước là tồn tại mãi mãi,
quan niệm rằng nước là cái nhỏ nhất. Khác với Talet, Anaximen cho rằng, vật
chất không khí chứ không phải là nước. Theo ông không khí là nguồn gốc của
mọi vật, không khí sinh ra mọi vật bằng sự tản ra hay ngưng tụ của nó vạn vật
đều bắt nguồn từ vật chất đầu tiên không khí lại quay trở về không khí,
không khí là vô tận, là vĩnh viễn là biến động. Với Heraclít, lửa là cái đầu tiên
sinh ra và thế giới nói chung, những sự việc riêng lẻngay cả linh hồn cũng
từ lửa mà ra. Vật chất là lửa.
- Quan điểm đa nguyên thể:
Do một số nhà triết học cho rằng thế giới sự vật, hiện tượng do một số
yếu tố vật chất đầu tiên tạo thành. Chẳng hạn: Nhà triết học Hy Lạp cổ đại
Empcđộclơ trường phái triết học không chính thống lêkayata Ấn Độ cổ
đại cho rằng bốn yếu tố: đất, nước, lửa, không khí sinh ra mọi vật. Bốn căn
nguyên đó là tồn tại vĩnh viễn, không tự sinh ra, không tự mất đi.
Quan điểm đa nguyên thể giải thích rằng sự biến đổi của giới tự nhiên là
do sự kết hợp khác nhau của những yếu tố vật chất đầu tiên. So với quan điểm
nhất nguyên thể thì quan điểm đa nguyên thể là một bước tiến nhất định trong
quá trình nhận thức về vật chất.
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong quan niệm về vật chất thuộc
về các nhà nguyên tử luận Loxếp Đêmộrít. Hai ông định nghĩa vật chất
nguyên tử, căn nguyên của mọi vật nguyên tử. Đó các phần tử cực kỳ
nhỏ, không thể phân chia được, không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau về
hình dạng, tư thế và trật tự sắp xếp. Nguyên tử có nhiều hình dáng khác nhau:
hình que, ôvan, bầu dục, tròn... và sự sắp xếp theo các trình tự khác nhau, trật
tự khác nhau tạo ra sự đa dạng về vật. Nguyên tử tồn tại vĩnh viễn không do ai
sáng tạo ra và cũng không thể bị hủy diệt. Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới
là do sự kết hợp và phân giải của các nguyên tử mà thành.
Mặc còn nhiều hạn chế, nhưng thuyết nguyên tử cổ đại một bước
phát triển mới của chủ nghĩa duy vật trên con đường hình thành phạm trù vật
chất triết học, tạo thành sở triết học cho nhận thức khoa học sau này. Tuy
nhiên do điều kiện lịch sử, thuyết nguyên trở cổ đại cũng chỉ những phỏng
đoán giả định, không thoát khỏi hạn chế chung của các nhà triết học trước
đó: quy luật vật chất về dụng cụ thể của vật chất.
Thời cận đại
Thế kỷ XVII, XVIII, phát huy truyền thống của các nhà duy vật thời cổ
đại. Các nhà triết học trong giai đoạn này cũng đồng nhất vật chất với nguyên
tử (vật chất trùng nguyên tử ). Nhưng do khoa học tự nhiên phát triển mạnh
đặc biệt môn học, với xu thế chung các nhà triết học thời kỳ này như:
Galilê, Niutơn, Bệcơn, Hộpbach, vv... coi vật chất đồng nhất với khối lượng và
khối lượng bất biến. Đồng thời do ảnh hưởng của phương pháp duy siêu
hình, những quan niệm trên đã được coi như những chân lý hoàn chỉnh, bất di
bất dịch. Việc quan niệm khối lượng của các vật thể bất biến, không phụ
thuộc vào vận động là một trong những sai lầm ở thời kỳ này. Neutơn đã đồng
nhất khối lượng với vật chất, coi vận động của vật chất chỉ là vận động cơ học,
tách rời vận động không gian, thời gian, thời gian với vật chất. Theo Neutơn,
nguồn gốc của vận động ở bên ngoài vật chất, ông gắn vận động của vật chất
với cái kích đầu tiên của thượng đế. Đó những quan điểm của các nhà triết
học thời kỳ này.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một số phát minh quan trọng trong
khoa học tự nhiên đặc biệt trong lĩnh vực vật lý học đã đem lại những hiểu biết
mới về cấu trúc của vật chất, nó đã làm thay đổi căn bản quan niệm cổ truyền
về vật chất. Cụ thể vào năm 1895, Rơnghen nhà vật lục người Đức đã
phát hiện ra tia X ( tia Rơnghen ). Năm 1896, Bécơnên, nhà vật lực người
Pháp phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã chứng tỏ rằng nguyên tử không
phải là không thể phân chia được và không thể chuyển hoá sang các nguyên tử
khác, bác bỏ quan niệm siêu hình cho rằng nguyên tố hoá học là bất biến. Năm
1891, Tômxơn nhà vật học người Anh đã phát hiện ra điện tử. Điện tử
một trong những yếu tố tạo nên nguyên tử. Phát minh này chứng tỏ rằng
nguyên tử không phải đơn vị cuối cùng tạo nên thế giới vật chất. Đến đầu
thế kỷ XX , năm 1901 nhà vậthọc người Đức kan - phman đã phát hiện ra
hiện tượng rất quan trọng trong quá trình vận động, khối lượng của điện tử
tăng khi vận tốc của tăng. Như vậy, khối lượng cũng không phải là cái bất
biến. Phát minh này đã phủ nhận hoàn toàn quan điểm siêu hình coi khối
lượng là bất biến và vật đồng nhiệt vật chất với khối lượng.
Những phát minh trong vật đã chứng minh rằng sự đồng nhất với
những dụng cụ thể của vật chất, với những thuộc tính của vật chất như chủ
nghĩa duy vật trước Mác quan niệm căn cứ để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng
chống lại chủ nghĩa duy vật, bảo vệ những luận điểm duy tâm. Các nhà triết
học của chủ nghĩa duy tâm đã cho rằng “vật chất tiêu tan mất” làm cho toàn bộ
nền tảng của chủ nghĩa duy vật bị sụp đổ hoàn toàn.
1.1.2. Quan niệm về vật chất trong triết học Mác – Leenin.
Theo Lênin phạm trù vật chất một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng
nhất, cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được”. Khi
định nghĩa phạm trù này, không thể quy về vật thể hoặc một thuộc tính cụ
thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn đến nay chưa
phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể định nghĩa phạm
trù vật chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó là trong quan hệ
ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy,
định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt như sau:
“ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” .
Ở định nghĩa này. V.I.Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng :
Trước hết cần phân biệt vật chất với cách phạm trù triết học với
các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo những thuộc tính cụ thể
của các đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với cách phạm
trù triết học chỉ vật chất nói chung, hạn, tận, không sinh ra, không
mất đi, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều
có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyển hoá thành cái khác. Vì vậy, không
thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung
với những dụng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại,
cận đại đã làm.
Thứ hai là trong nhận thức luận , khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan
trọng để nhận biết vật chất chính thuộc tính khách quan. Khách quan theo
V.I.Lênincái đang tồn tại độc lập với loài người với cảm giác của con
người ”. Trong đời sống xã hội, “ vật chất là cái tôn tại xã hội không phụ thuộc
vào ý thức hội của con người ”. Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật
chất không nghĩa khác hơn: thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý
thức con người và được ý thức con người phản ánh ”.
Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội
dung cơ bản sau:
- Vật chấtcái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận được hay chưa nhận thức
được.
- Vật chất cái gây nên cảm giác con người khi gián tiếp hoặc trực
tiếp tác động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Với những nội
dung bản như trên, phạm trù vật chất trong định nghĩa của V.I.Lênin
nhiều ý nghĩa to lớn.
Khi khẳng định vật chất thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, “ tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ”, V.I.Lênin đã
thừa nhận rằng, trong nhận thức luận, vật chất tính thứ nhất, nguồn gốc
khách quan của cảm giác, ý thức. khi khẳng định vật chất cái được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh ”, V.I.Lênin muốn nhấn
mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác nhau ( chép lại, chụp lại,
phản ánh... ) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định
nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục
được những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất
. Đồng thời, định nghĩa vật chất của VILênin còn ý nghĩa định hướng đối
với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của
vật thể trong thế giới.
Định nghĩa vật chất (Theo quan điểm Leenin)
Vật chất được Lênin theo viết về vật chất trong tác phẩm “ V.I.Lênin:
toàn tập, Nhà xuất bản Tiến Bộ M.1980 ”.
Lênin đã bác bỏ quan điểm của các nhà triết học trước chỉ ra rằng:
không phải vật chất tiêu tan mất ”, chỉ giới hạn hiểu biết của con
người về vật chất là tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất, mà chỉ
là giới hạn của nhận thức của con người về tổ chức, kết cấu của nó mà thôi.
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc cách mạng trong khoa học tự
nhiên phê phán chủ nghĩa duy tâm triết học, Lênin đã đưa ra một định
nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất.
“ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ”.
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận
Định nghĩa này đã bao quát cả 2 mặt của vấn đềbản của triết học, thể
hiện lập trường duy vật biện chứng. Lenin đã giải đáp toàn bộ vấn đề
bản của triết học đứng trên lập trường của Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Coi vật chất trước, ý thức sau, vật chất nguồn gốc khách
quan của cảm giác, ý thức, ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách
quan đó. Con người có khả năng nhận thức thế giới.
Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất. (Vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức).
Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan
niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mac (quan niệm vật chất về các
vật thể cụ thể, về nguyên tử, không thấy vật chất trong đời sống hội tồn
tại).
Định nghĩa vật chất của Nin bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy
vật tầm thường về vật chất (coi ý thức cũng là 1 dạng vật chất)
– Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết.
– Định nghĩa này đã liên kết chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa
duy vật lịch sử thành một thể thống nhất. (vật chất trong tự nhiên, vật chất
trong hội đều những dạng cụ thể của vật chất thôi, đều thực tại
khách quan).
– Mở đường cổ vũ cho khoa học đi sâu khám phá ra những kết cấu phức
tạp hơn của thế giới vật chất. (Định nghĩa này không quy vật chất về vật thể cụ
thể, vì thế sẽ tạo ra kẻ hở cho chủ nghĩa duy tâm tấn công, cũng không thể quy
vật chất vào 1 khái niệm nào rộng hơn để định nghĩa nó, không khái
niệm nào rộng hơn khái niệm vật chất. Vì thế chỉ định nghĩa nó bằng cách đối
lập với ý thức để định nghĩa vạch tính thứ nhất tính thứ 2, cái
trước và cái có sau).
Định nghĩa vật chất của Lê-nin có hai ý nghĩa quan trọng sau đây.
Thứ nhất bằng việc chỉ ra thuộc tính bản nhất, phổ biến nhất thuộc
tính tồn tại khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản
giữa phạm trù vật chất với cách phạm trù triết học, khoa học chuyên
ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết
học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không
thuộc về vật chất.
Thứ hai khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản
ánh, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó vật chất
cái có trước, ý thức cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó con người
thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại,
phản ánh của con người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của
Lê-nin đã tạo sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về
hội,về lịch sử
Mặc dù định nghĩa vật chất của Lê-nin đã ra đời gần hai thế kỷ nhưng nó
vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn và khoa học.
1.3. Quan điểm của triết học Mac – Leenin về phương thức và
hình thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: phương thức tồnVận động
tại đồng thời là hình thức tồn tại của vật chất; thời gian là hìnhKhông gian
thức tồn tại của vật chất.
1.3.1. Vận động
Sự phát triển của nhận thức khoa học đã khẳng định rằng: Vận động
không phải chỉ sự di chuyển vị trí, trong không gian theo nghĩa chung
nhất, sự biến đổi nói chung. Ăngghen viết: Vận động, hiểu theo nghĩa
chung nhất, một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản
cho đến từ duy ”.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Vận động bao hàm mọi sự
biến đổi nói chung, thì luận điểm đó đã bao hàm luận điểm thứ hai vận động
phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính không tách rời của vật chất vận
động phương thức tồn tại của vật chất, điều đó nghĩa vật chất tồn tại
bằng nhiều cách vận động thông qua vận động biểu hiện sự tồn tại của
mình, không thể có vật chất không có vận động và ngược lại. Theo quan điểm
duy vật biện chứng, vận động của vật chất là sự tự thân vận động, bởi vì tất cả
các dạng vật chất bao giờ cũng một kết cấu bao gồm các yếu tố, các mặt,
các quá trình trong sự liên hệ tác động qua lại. Chính sự tác động qua lại giữa
các yếu tố, các mặt, các quá trình đã dẫn đến sự biến đổi nói chung. Quan
điểm về vận động là tự vận động hoàn toàn đối lập với quan điểm duy tâm và
siêu hình về vận động họ không đi tìm nguồn gốc của vận động bên trong
bản thân sự vật mà quy nguồn gốc của vận động bên trong bản thân sự vật
quy nguồn gốc ấy về thân nhiều linh hoặc vào chủ thể nhận thức. Vận động
thuộc tính cố hữu của vật chất nên vận động cũng không do ai sáng tạo ra
không thể bị tiêu diệt đi. Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, các vận
động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn
của vật chất.
Ăngghen lần đầu tiên đã phân loại các hình thức vận động bản dựa
trên những thành tự của khoa học tự nhiên và triết học như sau:
+ Vận động học: sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không
gian.
+ Vận động vật lý - sự vận động của các phân tử của hạt cơ bản, các quá
trình nhiệt, điện VV…
+ Vận động sinh vật, thể hiện hoạt động sống của thể,sự trao đổi
giữa cơ thể sống và môi trường.
+ Vận động xã hội là quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái kinh
tế - xã hội –> cũng luôn luôn vận động.
Tuy sự khác nhau về chất lượng, nhưng giữa các hình thức vận động
có sự liên hệ, tác động, chuyển hoá qua lại. Sự phát triển của thế giới vật chất
thể hiện qua sự liên hệ chuyển hoá từ những hình thức thấp đến hình thức vận
động cao. Những dạng vật chất phức tạp như các thể sống, hội loài
người bao hàm nhiều hình thức vận động trong sự liên hệ, tác động qua lại,
nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động bản xác
định. Trong cơ thể sống bao gồm các hình thức vận động sinh vật,giớ, vật
lý, hoá học, song hình thức vận động sinh vật hình thức đặc trưng bản
nhất, quy định sự khác biệt giữa cơ thể sinh vật với những dạng vật chất khoá.
Bằng sự phân loại các hình thức vận động bản nhất, quy định sự khác biệt
giữa cơ thể sinh vật với những dạng vật chất khoá. Bằng sự phân loại các hình
thức vận độngbản, Ăngghen đã đặt sở cho việc phân loại các khoa học
tương ứng với các đối tượng nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh
hướng phân ngành hợp ngành của các khoa học. Ngoài ra, tưởng về sự
khác biệt và thống nhất của các hình thức vận động cơ bản của vật chất còn
cơ sở để chống lại khuynh hướng sai lầm trong nhận thức: quy trình nhận thức
vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại.
Vận động phương thức tồn tại của vật chất vậy vật chất tồn tại bằng
cách vận động thông qua quá trình vận độngbiểu hiện sự tồn tại của mình.
Ăngghen đã nêu rõ vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức
tồn tại của vật chất không loại vật chất nào tồn tại không sự vận
động.
Vận động và đứng im:
Thế giới vật chất không đủ ở trong quá trình vận động mà còn có sự đứng
tim tương đối. Nếu không sự đứng im tương đối thì không sự phân hoá
thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú đa dạng. vậy,
đứng im chính là “ điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất ”.
Nếu vận động là sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng, thì đứng im là sự
ổn định, là sự bảo toàn tính quy định các sự vật và hiện tượng. Nhưng đứng im
là tương đối. Điều đó thể hiện ở những điểm sau đây:
+ Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.
+ Sự đứng im của vật thể chỉ trong một thời gian xác định và chính trong
thời gian đó đã nảy sinh những nhân tố dẫn đến phá vỡ sự im tạm thời của nó.
Như vậy, đứng im là tương đối tạm thời, biểu hiện một trạng thái vận
động trong thăng bằng. Hay nói khái quát hơn, vận động của thế giới vật chất
bao hàm trong tính biến đổi tính ổn định. Đứng im sự vận động
dưới một hình thức khác - hình thức ổn định.
Trong mối quan hệ giữa vận động đứng im, theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, đứng im là tuyệt đối, đứng im
là tương đối, tạm thời.
1.3.2. Không gian và thời gian
Đều những hình thức tồn tại của vật chất, những thuộc tính chung
vốn có của các dạng vật chất cụ thể. Mọi sự vật trong thế giới vật chất đều
vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài ngắn, cao thấp. Tất cả những cái đó được
gọi là không gian, không gian là hình thức tồn tại của vật chất biểu hiện những
thuộc tính như cùng tồn tại tách biệt, kết cấu quảng tính. Nhưng các
sự vật lại tồn tại trong trạng thái biến đổi với độ nhanh, chậm khác nhau, kế
tiếp chuyển hoá lẫn nhau. Những thuộc tính đó thời gian. Thời gian
hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính: độ lâu của sự biến
đổi, tình tự xuất hiện mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong
thế giới vật chất. Không gian thời gian những hình thức bản của vật
chất đang vận động Lênin viết: “ Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận
động và vật chất đang vận động thể hiện vận động đầu ngoài không gian
thời gian ”.
Thực ra không gian và thời gian là những phạm trù triết học đã xuất hiện
từ rất sớm trong lịch sử nhận thức. Ngay từ rất xa xưa người ta đã hiểu rằng
bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định, vào
một khung cảnh nhất định trong tương quan về mặt kích thước so với các
khách thể khác... Các hình thức tồn tại như vậy của vật chất thể được gọi
không gian. Bên cạnh các quan hệ không gian, sự tồn tại của các khách thể vật
chất còn được biểu hiện mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của hiện
tượng, sự kế tiếp trước sau của giai đoạn vận động... Những thuộc tính này
của các sự vật được đặc trưng bằng phạm trù thời gian. Các đại lượng không
gian và thời gian của sự tồn tại của sự vật, thông thường, được xem như là một
cái gì đó hiển nhiên. Tuy vậy, trong lịch sử triết học, xung quanh các phạm trù
không gian thời gian đã từng rất nhiều vấn đề nan giải, gây tranh cãi.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm.
Nhưng thường phủ nhận tính khách quan của không gian thời gian.
Cantơ cho rằng không gian thời gian chỉ hình thức chủ quan của trực
quan để xếp đặt các cảm giác mà ta thu nhận một cách lộn xộn. Mặc dù không
phải là người phủ nậhn sự tồn tại khách quan của các khách thể vật chất song
cantơ lại nhà triết học nêu lên sự hành nghề về tính khách quan của các
thuộc tính không gian và thời gian của thế giới vật chất. Makhơ cũng cho rằng
không gian, thời gian chỉ là một hệ thống liên kết chặt chẽ của chuỗi cảm giác.
Theo Makhơi không phải con người với những cảm giác của mình tồn tại
trong không gian thời gian chính không gian thời gian tồn tại trong
con người, lệ thuộc vào con người do con người sinh ra. Phê phán sai lầm
đó của Makhơ, Lênin đã chỉ rõ: “ Đó là một điều vô lý duy tâm rõ rệt nảy sinh
ra một cách tất nhiên từ học thuyết nói rằng vật thể những phức hợp cảm
giác ”. Các nhà duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII do quá chú trọng đến
việc phân tích các khách thể vĩ mô vận động trong tốc độ thông thường nên đã
tách rời không gian và thời gian với nhau và tách rời không gian, thời gian với
vật chất. Niutơn cho rằng không gian, thời gian và vận động là những thực thể
nào đóbên ngoài vật chất và không liên hệ với nhau. Khi phê phán quan
điểm đó của các nhà duy vật siêu hình, Ăngghen viết các hình thức cơ bản của
mọi tồn tại không gian thời gian tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức
như tồn tại ngoài không gian. Theo Ăngghen thì không gian thời
gian gắn hết sức chặt chẽ với nhau cả hai đều thuộc tính cố hữu của
vật chất. Chúng hình thức tồn tại của vật chất. Không thể vật chất nào
tồn tại bên ngoài không gian và thời gian, cũng như không thể có không gian,
thời gian nào tồn tại bên ngoài vật chất. Đây là điều không thể hình dung trong
ý thức thông thường. Đầu thế kỷ XX, thuyết tương đối của Anhxtanh ra đời,
luận điểm thiên tài trên đây của Ăngghen đã được chứng minh một cách hùng
hồn. Thuyết tương đối vạch ra một khía cạnh mới, cốt yếu của mối tương quan
giữa gian, thời gian và vận động mà cơ học cổ điển chưa đạt tới. Thuyết tương
đối cũng đem lại bức tranh về sự thống nhất giữa không gian thời gian.
Như vậy, thuyết tương đối đã bác bỏ tính bất biến của không gian, thời gian
cùng với sự vận động của vật chất, một lần nữa khẳng định không gian, thời
gian hình thức tồn tại của vật chất. Như vậy, không gian thời gian
những tính chất sau đây:
- Tính khách quan, không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại
gắn liền với nhau gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó
không gian và thời gian cùng tồn tại khách quan.
- Tính vĩnh cửu tận: Theo Ăngghen, vật chất vĩnh vửu tận
trong không gian thời gian. tận nghĩa không tận cùng nào cả.
Những thành tựu của vật học vi cũng như những thành tựu của trụ
học ngày càng xác nhận tính vĩnh cửu tính tận của không gian thời
gian.
- Tính ba chiều của không gian tính một chiều của thời gian. Tính ba
chiều của không là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời
gian là chiều từ quá khứ đến tương lai.
Không gian mà chúng ta đang xét là không gian hiện thực, không gian ba
chiều. Nếu chú ý, trong toán học ngoài phạm trù không gian ba chiều còn
phạm trù không gian nhiều chiều vv... Đó sự trừu tượng hoá toán học, một
công cụ, toán học dùng để nghiên cứu các đối tượng đặc thù. Tính thống nhất
vật chất của thế giới.
Tính thống nhất của thế giới luôn gắn liền với cách giải quyết vấn đề
bản của triết học thể phản xạ hai khuynh hướng bản về vấn đề này chủ
nghĩa duy vật, khi coi vật chất trước, ý thức sau, ý thức sự phản ánh thế
giới vật chất do đó tính thống nhất của thế giới vật chất. Ngược lại, chủ
nghĩa duy tâm ý thức, tinh thần trước, quyết định vật chất, tính thống
nhất của thế giới là ý thức tinh thần. Chủ nghĩa duy vật trước Mác có công lao
lớn trong việc hình thành phát triển nguyên tắc thống nhất vật chất của thế
giới. Song, do họ đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất, nên
nguyên tắc trên hạn chế rất lớn, mâu thuẫn với các thành tựu của khoa học
tự nhiên hiện đại. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự thống nhất
chân chính của thế giới là ở tính vật chất của nó, đó là một nguyên tắc của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Thế giới xung quanh chúng ta dù đa dạng và phong
phú như thế nào chăng nữa , nhưng bản chất của vật chất. Khi khẳng
định thế giới thống nhất tính vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng không
thể được quy sự thống nhất đó về sự giống nhau, tương đối của các yếu tố,
như nguyên tử chẳng hạn mà được hiểu. Trước hết, sự thống nhất thể hiện ở cơ
sở thực thể duy nhất phổ biến, tồn tại vĩnh viễn vô tậntất cả các hình
thức đa dạng, phong phú của thế giới đó là vật chất; thứ hai, sự thống nhất vật
chất của thế giới còn gắn liền với sự liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố ở
bên trong thế giới, chính sự tác động qua lại dẫn đến vận động, phát triển.
Nguyên tắc thống nhất vật chất của thế giới phải gắn liền với nguyên tắc vận
động phát triển. Những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại chứng
minh cho luận điểm trên thể khẳng định rằng tất cả các sự vật, từ trên trái
đất của chúng ta đến các hành tinh xa xôi đều có cấu trúc vật lý, hoá học thống
nhất đều được tạo ra từ các phân tử, nguyên tử các hạt bản thậm chí từ
các trường vật lý nữa.
Song chỉ bằng sự tương đồng của các cấu trúc thì chưa đủ để giải thích sự
đồng nhất vật chất của thế giới, bởi không thể quy thể sinh vật, con
người hội loài người vào các phân tử, nguyên tử, các hạt bản vv...
được mặc chúng cũng các yếu tố như vật cũng không thể chỉ bằng
các quy luật của vật lý học, hoá học đã có thể nhận thức đầy đủ được các dạng
vật chất cao, phức tạp hơn như thể sinh vật, con người, hội. Sự thống
nhất đây còn được bao gồm tất cả giới sinh, hữu sinh hội một
bức tranh thế giới duy nhất, trong đó giữa chúng có sự liên hệ tác động qua lại,
chuyển hoá lẫn nhau, vận động phát triển. Chính quá trình này cho phép
chúng ta thấy được đầy đủ sự thống nhất vật chất của thế giới với tất cả các
trạng thái, các giai đoạn phát triển, từ các hạt cơ bản đến phân tử, từ các phân
tử đến thể sống từ thể sống đến con người, hội loài người. Như
vậy, thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễntận. Tuy thế giới vật
chất đa dạng và phong phú nhưng tất cả đều là vật chất, đều thống nhất ở tính
vật chất của nó.
Chương 2: Vận dụng
- Đối với triết học, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết hai mặt
vấn đềbản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
cung cấp nguyên tắc thế giới quan phương pháp luận khoa học để đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu
hình mọi biểu hiện của chúng trong triết học sản hiện đại về phạm trù
này. Trong nhận thức thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên
tắc khách quan - xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn tọng khách quan, nhận
thức vận dụng đúng đắn quy luật khách quan... Định nghĩa vật chất của
V.I.Leenin là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hôi -
| 1/26

Preview text:

TR NG Đ ƯỜ I H Ạ C S Ọ PH Ư M KỸỸ THU Ạ T TP Ậ .HỒỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LU N CHÍNH TR 
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
VỀ VẬT CHẤT, PHƯƠNG THỨC VÀ HÌNH THỨC
TỒN TẠI CỦA VẬT CHẤT. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Tiểu luận cuối kỳ
(Môn học: Triết học Mác - Lênin)
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT130105_03
GVHD: TS.Nguyễn Thị Quyết
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 2
HỌC KỲ: I–NĂM HỌC: 2020-2021
TP.HỒ CHÍ MINH – 2020
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài:
1.Phan Minh Chiến - 19143217 (nhóm trưởng) 2.Ngô Tiến Thanh - 19143331
3.Trần Nhật Hào - 19143241 4.Đặng Quang Huy - 19143255 5.Ngô Minh Quang - 19146377 6.Phạm Duy Phong - 19146374 ĐIỂM: NHẬN XÉT CỦA GV: GV ký tên PHẦN MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề
Vật chất là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học. Trong
lịch sử tư tưởng nhân loại, xung quanh vấn đề này luôn diễn ra cuộc đấu tranh
không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Bản thân
quan niệm của chủ nghĩa duy vật về phạm trù vật chất cũng phải trải qua lịch
sử phát triển lâu dài, gắn liền với những tiến bộ của khoa học thực tiễn.
Là những sinh viên năm hai được học tập và rèn luyện dưới mái trường Đại
học Sư phạm Kỹ thuật, được thầy cô truyền đạt và dạy bảo những kiến thức cơ
bản về bộ môn khoa học Triết học Mác - Lênin. Nhưng để có được những cơ sở
lí luận và phương pháp luận nhằm học tập tốt hơn, vì bộ môn khoa học này hầu
hết đều phải dựa vào kiến thức, các nguyên lý, các quy luật và các cặp phạm trù
triết học Mác-Lênin đưa ra, thì tất yếu nhất của bài tiểu luận này vừa để bồi
dưỡng thêm kiến thức bộ môn vừa giúp thỏa mãn được sự đam mê học hỏi và
sáng tạo khoa học của các sinh viên đại học. Mặt khác, thông qua đây nó còn
giúp sinh viên nhận thức một cách sâu sắc hơn về những vấn đề kinh tế, chính
trị và đời sống xã hội thực tiễn.
Việc nghiên cứu phạm trù vật chất có ý nghĩa quan trọng, là chìa khóa
dẫn đến những vấn đề khác trong chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chính vì vậy,
chúng em đã chọn đề tài: “Quan điểm của triết học Mác - Lenin về vật chất,
phương thức và hình thức tồn tại của vật chất. Liên hệ thực tiễn” cho bài tiểu luận của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là phạm trù vật chất trong chủ nghĩa duy vật biện chứng trong thực tiễn. 1
Nhiệm vụ của nhóm là tìm hiểu các quan điểm của triết học Mác - Leenin về
vật chất, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất và ý nghĩa của phương pháp luận.
Từ đó nhóm đề ra mục tiêu là bên cạnh việc hiểu được các quan điểm của triết
học Mác - Lênin về vật chất, phương thức và hình thức tồn tại của vật chất thì
nhóm phải rút ra bài học và vận dụng được kiến thức để giải quyết vấn đề cụ
thể trong thực tiễn (kinh tế, chính trị,…).
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp
cụ thể như: lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch… 2 PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm của triết học Mác - Lenin về vật chất, phương
thức và hình thức tồn tại của vật chất
1.1. Quan điểm về vật chất
1.1.1. Quan điểm về vật chất trong triết học trước Mác
Ở thời kì cổ đại
Các nhà triết học duy vật cổ đại thường coi vật chất là một vật thể nào đó,
cụ thể, mang lại tính trực quan cảm tính, có thể là vật thể hữu hình. Xu hướng
chung của các nhà triết học thời kỳ này là như vậy và cho rằng các vật thể đó
là những đơn vị cuối cùng, tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới. * Các quan điểm:
- Quan điểm nhất nguyên: Là quan điểm xuất phát từ nhận thức trực
quan sinh động, cảm tính, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại cho rằng, mọi sự
vật, hiện tượng và quá trình của thế giới đều được bắt nguồn từ một nguyên thể đầu tiên rõ rệt.
Ví dụ: Talet cho rằng: Vật chất là nước, nước là yếu tố đầu tiên, mọi sự
vật đểu sinh ra từ nước, nước cấu thành ra cả vũ trụ, con người, vạn vật và tồn
tại dưới nhiều trạng thái khác nhau, khi phân huỷ lại biến thành nước. Mọi vật
đều có sinh ra và mất đi, biến đổi không ngừng, chỉ có nước là tồn tại mãi mãi,
quan niệm rằng nước là cái nhỏ nhất. Khác với Talet, Anaximen cho rằng, vật
chất không khí chứ không phải là nước. Theo ông không khí là nguồn gốc của
mọi vật, không khí sinh ra mọi vật bằng sự tản ra hay ngưng tụ của nó vạn vật
đều bắt nguồn từ vật chất đầu tiên là không khí và lại quay trở về không khí,
không khí là vô tận, là vĩnh viễn là biến động. Với Heraclít, lửa là cái đầu tiên
sinh ra và thế giới nói chung, những sự việc riêng lẻ và ngay cả linh hồn cũng
từ lửa mà ra. Vật chất là lửa. -
Quan điểm đa nguyên thể:
Do một số nhà triết học cho rằng thế giới sự vật, hiện tượng do một số
yếu tố vật chất đầu tiên tạo thành. Chẳng hạn: Nhà triết học Hy Lạp cổ đại
Empcđộclơ và trường phái triết học không chính thống lêkayata ở Ấn Độ cổ
đại cho rằng bốn yếu tố: đất, nước, lửa, không khí sinh ra mọi vật. Bốn căn
nguyên đó là tồn tại vĩnh viễn, không tự sinh ra, không tự mất đi.
Quan điểm đa nguyên thể giải thích rằng sự biến đổi của giới tự nhiên là
do sự kết hợp khác nhau của những yếu tố vật chất đầu tiên. So với quan điểm
nhất nguyên thể thì quan điểm đa nguyên thể là một bước tiến nhất định trong
quá trình nhận thức về vật chất.
Đỉnh cao của chủ nghĩa duy vật cổ đại trong quan niệm về vật chất thuộc
về các nhà nguyên tử luận Loxếp và Đêmộrít. Hai ông định nghĩa vật chất là
nguyên tử, căn nguyên của mọi vật là nguyên tử. Đó là các phần tử cực kỳ
nhỏ, không thể phân chia được, không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau về
hình dạng, tư thế và trật tự sắp xếp. Nguyên tử có nhiều hình dáng khác nhau:
hình que, ôvan, bầu dục, tròn... và sự sắp xếp theo các trình tự khác nhau, trật
tự khác nhau tạo ra sự đa dạng về vật. Nguyên tử tồn tại vĩnh viễn không do ai
sáng tạo ra và cũng không thể bị hủy diệt. Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới
là do sự kết hợp và phân giải của các nguyên tử mà thành.
Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng thuyết nguyên tử cổ đại là một bước
phát triển mới của chủ nghĩa duy vật trên con đường hình thành phạm trù vật
chất triết học, tạo thành cơ sở triết học cho nhận thức khoa học sau này. Tuy
nhiên do điều kiện lịch sử, thuyết nguyên trở cổ đại cũng chỉ là những phỏng
đoán giả định, nó không thoát khỏi hạn chế chung của các nhà triết học trước
đó: quy luật vật chất về dụng cụ thể của vật chất. Thời cận đại
Thế kỷ XVII, XVIII, phát huy truyền thống của các nhà duy vật thời cổ
đại. Các nhà triết học trong giai đoạn này cũng đồng nhất vật chất với nguyên
tử (vật chất trùng nguyên tử ). Nhưng do khoa học tự nhiên phát triển mạnh
đặc biệt là môn cơ học, với xu thế chung các nhà triết học thời kỳ này như:
Galilê, Niutơn, Bệcơn, Hộpbach, vv... coi vật chất đồng nhất với khối lượng và
khối lượng là bất biến. Đồng thời do ảnh hưởng của phương pháp tư duy siêu
hình, những quan niệm trên đã được coi như những chân lý hoàn chỉnh, bất di
bất dịch. Việc quan niệm khối lượng của các vật thể là bất biến, không phụ
thuộc vào vận động là một trong những sai lầm ở thời kỳ này. Neutơn đã đồng
nhất khối lượng với vật chất, coi vận động của vật chất chỉ là vận động cơ học,
tách rời vận động không gian, thời gian, thời gian với vật chất. Theo Neutơn,
nguồn gốc của vận động ở bên ngoài vật chất, ông gắn vận động của vật chất
với cái kích đầu tiên của thượng đế. Đó là những quan điểm của các nhà triết học thời kỳ này.
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một số phát minh quan trọng trong
khoa học tự nhiên đặc biệt trong lĩnh vực vật lý học đã đem lại những hiểu biết
mới về cấu trúc của vật chất, nó đã làm thay đổi căn bản quan niệm cổ truyền
về vật chất. Cụ thể là vào năm 1895, Rơnghen nhà vật lý lục người Đức đã
phát hiện ra tia X ( tia Rơnghen ). Năm 1896, Bécơnên, nhà vật lý lực người
Pháp phát hiện ra hiện tượng phóng xạ, đã chứng tỏ rằng nguyên tử không
phải là không thể phân chia được và không thể chuyển hoá sang các nguyên tử
khác, bác bỏ quan niệm siêu hình cho rằng nguyên tố hoá học là bất biến. Năm
1891, Tômxơn nhà vật lý học người Anh đã phát hiện ra điện tử. Điện tử là
một trong những yếu tố tạo nên nguyên tử. Phát minh này chứng tỏ rằng
nguyên tử không phải là đơn vị cuối cùng tạo nên thế giới vật chất. Đến đầu
thế kỷ XX , năm 1901 nhà vật lý học người Đức kan - phman đã phát hiện ra
hiện tượng rất quan trọng là trong quá trình vận động, khối lượng của điện tử
tăng khi vận tốc của nó tăng. Như vậy, khối lượng cũng không phải là cái bất
biến. Phát minh này đã phủ nhận hoàn toàn quan điểm siêu hình coi khối
lượng là bất biến và vật đồng nhiệt vật chất với khối lượng.
Những phát minh trong vật lý đã chứng minh rằng sự đồng nhất với
những dụng cụ thể của vật chất, với những thuộc tính của vật chất như chủ
nghĩa duy vật trước Mác quan niệm là căn cứ để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng
chống lại chủ nghĩa duy vật, bảo vệ những luận điểm duy tâm. Các nhà triết
học của chủ nghĩa duy tâm đã cho rằng “vật chất tiêu tan mất” làm cho toàn bộ
nền tảng của chủ nghĩa duy vật bị sụp đổ hoàn toàn.
1.1.2. Quan niệm về vật chất trong triết học Mác – Leenin.
Theo Lênin phạm trù vật chất là một phạm trù “rộng đến cùng cực, rộng
nhất, mà cho đến nay, thực ra nhận thức luận vẫn chưa vượt qua được”. Khi
định nghĩa phạm trù này, không thể quy nó về vật thể hoặc một thuộc tính cụ
thể nào đó, cũng không thể quy về phạm trù rộng hơn và đến nay chưa có
phạm trù nào rộng hơn phạm trù vật chất. Do vậy, chỉ có thể định nghĩa phạm
trù vật chất trong quan hệ với ý thức, phạm trù đối lập với nó là trong quan hệ
ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai. Bằng phương pháp như vậy,
định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin được diễn đạt như sau:
“ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” .
Ở định nghĩa này. V.I.Lênin phân biệt hai vấn đề quan trọng :
Trước hết là cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với
các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu tạo và những thuộc tính cụ thể
của các đối tượng các dạng vật chất khác nhau. Vật chất với tư cách là phạm
trù triết học nó chỉ vật chất nói chung, Vô hạn, vô tận, không sinh ra, không
mất đi, còn các đối tượng, các dạng vật chất khoa học cụ thể nghiên cứu đều
có giới hạn, nó sinh ra và mất đi để chuyển hoá thành cái khác. Vì vậy, không
thể quy vật chất nói chung về vật thể, không thể đồng nhất vật chất nói chung
với những dụng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.
Thứ hai là trong nhận thức luận , khi vật chất đối lập với ý thức, cái quan
trọng để nhận biết vật chất chính là thuộc tính khách quan. Khách quan theo
V.I.Lênin là “ cái đang tồn tại độc lập với loài người và với cảm giác của con
người ”. Trong đời sống xã hội, “ vật chất là cái tôn tại xã hội không phụ thuộc
vào ý thức xã hội của con người ”. Về mặt nhận thức luận thì khái niệm vật
chất không có nghĩa gì khác hơn: “ thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý
thức con người và được ý thức con người phản ánh ”.
Như vậy, định nghĩa phạm trù vật chất của V.I.Lênin bao gồm những nội dung cơ bản sau:
- Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận được hay chưa nhận thức được.
- Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực
tiếp tác động lên giác quan của con người.
- Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất. Với những nội
dung cơ bản như trên, phạm trù vật chất trong định nghĩa của V.I.Lênin có nhiều ý nghĩa to lớn.
Khi khẳng định vật chất là “ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác ” , “ tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ”, V.I.Lênin đã
thừa nhận rằng, trong nhận thức luận, vật chất là tính thứ nhất, là nguồn gốc
khách quan của cảm giác, ý thức. Và khi khẳng định vật chất là cái “ được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh ”, V.I.Lênin muốn nhấn
mạnh rằng bằng những phương thức nhận thức khác nhau ( chép lại, chụp lại,
phản ánh... ) con người có thể nhận thức được thế giới vật chất. Như vậy, định
nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bác bỏ thuyết không thể biết, đã khắc phục
được những khiếm khuyết trong các quan điểm siêu hình, máy móc về vật chất
. Đồng thời, định nghĩa vật chất của VILênin còn có ý nghĩa định hướng đối
với khoa học cụ thể trong việc tìm kiếm các dạng hoặc các hình thức mới của
vật thể trong thế giới.
Định nghĩa vật chất (Theo quan điểm Leenin)
Vật chất được Lênin theo và viết về vật chất trong tác phẩm “ V.I.Lênin:
toàn tập, Nhà xuất bản Tiến Bộ M.1980 ”.
Lênin đã bác bỏ quan điểm của các nhà triết học trước và chỉ ra rằng:
không phải ” vật chất tiêu tan mất ”, mà chỉ có giới hạn hiểu biết của con
người về vật chất là tiêu tan, nghĩa là cái mất đi không phải là vật chất, mà chỉ
là giới hạn của nhận thức của con người về tổ chức, kết cấu của nó mà thôi.
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc cách mạng trong khoa học tự
nhiên và phê phán chủ nghĩa duy tâm triết học, Lênin đã đưa ra một định
nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất.
“ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác ”.
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận
Định nghĩa này đã bao quát cả 2 mặt của vấn đề cơ bản của triết học, thể
hiện rõ lập trường duy vật biện chứng. Lenin đã giải đáp toàn bộ vấn đề cơ
bản của triết học đứng trên lập trường của Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
– Coi vật chất là có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách
quan của cảm giác, ý thức, ý thức con người là sự phản ánh của thực tại khách
quan đó. Con người có khả năng nhận thức thế giới.
– Định nghĩa này bác bỏ quan điểm duy tâm về phạm trù vật chất. (Vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức).
– Định nghĩa này khắc phục tính chất siêu hình, máy móc trong quan
niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật trước Mac (quan niệm vật chất về các
vật thể cụ thể, về nguyên tử, không thấy vật chất trong đời sống xã hội là tồn tại).
– Định nghĩa vật chất của Lê Nin bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy
vật tầm thường về vật chất (coi ý thức cũng là 1 dạng vật chất)
– Định nghĩa này bác bỏ thuyết không thể biết.
– Định nghĩa này đã liên kết chủ nghĩa duy vật biện chứng với chủ nghĩa
duy vật lịch sử thành một thể thống nhất. (vật chất trong tự nhiên, vật chất
trong xã hội đều là những dạng cụ thể của vật chất mà thôi, đều là thực tại khách quan).
– Mở đường cổ vũ cho khoa học đi sâu khám phá ra những kết cấu phức
tạp hơn của thế giới vật chất. (Định nghĩa này không quy vật chất về vật thể cụ
thể, vì thế sẽ tạo ra kẻ hở cho chủ nghĩa duy tâm tấn công, cũng không thể quy
vật chất vào 1 khái niệm nào rộng hơn để định nghĩa nó, vì không có khái
niệm nào rộng hơn khái niệm vật chất. Vì thế chỉ định nghĩa nó bằng cách đối
lập nó với ý thức để định nghĩa vạch rõ tính thứ nhất và tính thứ 2, cái có trước và cái có sau).
Định nghĩa vật chất của Lê-nin có hai ý nghĩa quan trọng sau đây.
Thứ nhất bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc
tính tồn tại khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản
giữa phạm trù vật chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên
ngành, từ đó khắc phục được hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết
học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.
Thứ hai khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại phản
ánh, Lê-nin đã giải quyết triệt để vấn đề cơ bản của triết học đó là vật chất là
cái có trước, ý thức là cái có sau, vật chất quyết định ý thức. Đó là con người
có thể nhận thức được thế giới khách quan thông qua sự chép lại, chụp lại,
phản ánh của con người đối với thực tại khách quan. Định nghĩa vật chất của
Lê-nin đã tạo cơ sở nền tảng, tiền đề để xây dựng quan niệm duy vật về xã hội,về lịch sử
Mặc dù định nghĩa vật chất của Lê-nin đã ra đời gần hai thế kỷ nhưng nó
vẫn giữ nguyên giá trị thực tiễn và khoa học.
1.3. Quan điểm của triết học Mac – Leenin về phương thức và
hình thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vận
động là phương thức tồn
tại đồng thời là hình thức tồn tại của vật chất; Không gian và thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất. 1.3.1. Vận động
Sự phát triển của nhận thức khoa học đã khẳng định rằng: Vận động
không phải chỉ là sự di chuyển vị trí, trong không gian mà theo nghĩa chung
nhất, là sự biến đổi nói chung. Ăngghen viết: “ Vận động, hiểu theo nghĩa
chung nhất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự
thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến từ duy ”.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Vận động bao hàm mọi sự
biến đổi nói chung, thì luận điểm đó đã bao hàm luận điểm thứ hai vận động là
phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính không tách rời của vật chất vận
động là phương thức tồn tại của vật chất, điều đó có nghĩa là vật chất tồn tại
bằng nhiều cách vận động và thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của
mình, không thể có vật chất không có vận động và ngược lại. Theo quan điểm
duy vật biện chứng, vận động của vật chất là sự tự thân vận động, bởi vì tất cả
các dạng vật chất bao giờ cũng là một kết cấu bao gồm các yếu tố, các mặt,
các quá trình trong sự liên hệ tác động qua lại. Chính sự tác động qua lại giữa
các yếu tố, các mặt, các quá trình đã dẫn đến sự biến đổi nói chung. Quan
điểm về vận động là tự vận động hoàn toàn đối lập với quan điểm duy tâm và
siêu hình về vận động họ không đi tìm nguồn gốc của vận động ở bên trong
bản thân sự vật mà quy nguồn gốc của vận động bên trong bản thân sự vật mà
quy nguồn gốc ấy về thân nhiều linh hoặc vào chủ thể nhận thức. Vận động là
thuộc tính cố hữu của vật chất nên vận động cũng không do ai sáng tạo ra và
không thể bị tiêu diệt đi. Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn nhau, các vận
động của vật chất nói chung thì vĩnh viễn tồn tại cùng với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.
Ăngghen lần đầu tiên đã phân loại các hình thức vận động cơ bản dựa
trên những thành tự của khoa học tự nhiên và triết học như sau:
+ Vận động cơ học: Là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian.
+ Vận động vật lý - sự vận động của các phân tử của hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện VV…
+ Vận động sinh vật, thể hiện ở hoạt động sống của cơ thể, ở sự trao đổi
giữa cơ thể sống và môi trường.
+ Vận động xã hội là quá trình biến đổi và thay thế của các hình thái kinh
tế - xã hội –> cũng luôn luôn vận động.
Tuy có sự khác nhau về chất lượng, nhưng giữa các hình thức vận động
có sự liên hệ, tác động, chuyển hoá qua lại. Sự phát triển của thế giới vật chất
thể hiện qua sự liên hệ chuyển hoá từ những hình thức thấp đến hình thức vận
động cao. Những dạng vật chất phức tạp như các cơ thể sống, xã hội loài
người bao hàm nhiều hình thức vận động trong sự liên hệ, tác động qua lại,
nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản xác
định. Trong cơ thể sống bao gồm các hình thức vận động sinh vật, cơ giớ, vật
lý, hoá học, song hình thức vận động sinh vật là hình thức đặc trưng cơ bản
nhất, quy định sự khác biệt giữa cơ thể sinh vật với những dạng vật chất khoá.
Bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản nhất, quy định sự khác biệt
giữa cơ thể sinh vật với những dạng vật chất khoá. Bằng sự phân loại các hình
thức vận động cơ bản, Ăngghen đã đặt cơ sở cho việc phân loại các khoa học
tương ứng với các đối tượng nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh
hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Ngoài ra, tư tưởng về sự
khác biệt và thống nhất của các hình thức vận động cơ bản của vật chất còn là
cơ sở để chống lại khuynh hướng sai lầm trong nhận thức: quy trình nhận thức
vận động cao vào hình thức vận động thấp và ngược lại.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất vậy vật chất tồn tại bằng
cách vận động thông qua quá trình vận động và biểu hiện sự tồn tại của mình.
Ăngghen đã nêu rõ vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, là phương thức
tồn tại của vật chất và không có loại vật chất nào tồn tại không có sự vận động.
Vận động và đứng im:
Thế giới vật chất không đủ ở trong quá trình vận động mà còn có sự đứng
tim tương đối. Nếu không có sự đứng im tương đối thì không có sự phân hoá
thế giới vật chất thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Vì vậy,
đứng im chính là “ điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất ”.
Nếu vận động là sự biến đổi của các sự vật, hiện tượng, thì đứng im là sự
ổn định, là sự bảo toàn tính quy định các sự vật và hiện tượng. Nhưng đứng im
là tương đối. Điều đó thể hiện ở những điểm sau đây:
+ Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.
+ Sự đứng im của vật thể chỉ trong một thời gian xác định và chính trong
thời gian đó đã nảy sinh những nhân tố dẫn đến phá vỡ sự im tạm thời của nó.
Như vậy, đứng im là tương đối tạm thời, nó biểu hiện một trạng thái vận
động trong thăng bằng. Hay nói khái quát hơn, vận động của thế giới vật chất
bao hàm trong nó có tính biến đổi và tính ổn định. Đứng im là sự vận động
dưới một hình thức khác - hình thức ổn định.
Trong mối quan hệ giữa vận động và đứng im, theo quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, đứng im là tuyệt đối, đứng im
là tương đối, tạm thời.
1.3.2. Không gian và thời gian
Đều là những hình thức tồn tại của vật chất, là những thuộc tính chung
vốn có của các dạng vật chất cụ thể. Mọi sự vật trong thế giới vật chất đều có
vị trí, có hình thức kết cấu, có độ dài ngắn, cao thấp. Tất cả những cái đó được
gọi là không gian, không gian là hình thức tồn tại của vật chất biểu hiện những
thuộc tính như cùng tồn tại và tách biệt, có kết cấu và quảng tính. Nhưng các
sự vật lại tồn tại trong trạng thái biến đổi với độ nhanh, chậm khác nhau, kế
tiếp và chuyển hoá lẫn nhau. Những thuộc tính đó là thời gian. Thời gian là
hình thức tồn tại của vật chất bao gồm những thuộc tính: độ lâu của sự biến
đổi, tình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong
thế giới vật chất. Không gian và thời gian là những hình thức cơ bản của vật
chất đang vận động Lênin viết: “ Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận
động và vật chất đang vận động thể hiện vận động ở đầu ngoài không gian và thời gian ”.
Thực ra không gian và thời gian là những phạm trù triết học đã xuất hiện
từ rất sớm trong lịch sử nhận thức. Ngay từ rất xa xưa người ta đã hiểu rằng
bất kỳ một khách thể vật chất nào cũng đều chiếm một vị trí nhất định, ở vào
một khung cảnh nhất định trong tương quan về mặt kích thước so với các
khách thể khác... Các hình thức tồn tại như vậy của vật chất thể được gọi là
không gian. Bên cạnh các quan hệ không gian, sự tồn tại của các khách thể vật
chất còn được biểu hiện ở mức độ tồn tại lâu dài hay mau chóng của hiện
tượng, ở sự kế tiếp trước sau của giai đoạn vận động... Những thuộc tính này
của các sự vật được đặc trưng bằng phạm trù thời gian. Các đại lượng không
gian và thời gian của sự tồn tại của sự vật, thông thường, được xem như là một
cái gì đó hiển nhiên. Tuy vậy, trong lịch sử triết học, xung quanh các phạm trù
không gian và thời gian đã từng có rất nhiều vấn đề nan giải, gây tranh cãi.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm.
Nhưng thường phủ nhận tính khách quan của không gian và thời gian.
Cantơ cho rằng không gian và thời gian chỉ là hình thức chủ quan của trực
quan để xếp đặt các cảm giác mà ta thu nhận một cách lộn xộn. Mặc dù không
phải là người phủ nậhn sự tồn tại khách quan của các khách thể vật chất song
cantơ lại là nhà triết học nêu lên sự hành nghề về tính khách quan của các
thuộc tính không gian và thời gian của thế giới vật chất. Makhơ cũng cho rằng
không gian, thời gian chỉ là một hệ thống liên kết chặt chẽ của chuỗi cảm giác.
Theo Makhơi không phải con người với những cảm giác của mình tồn tại
trong không gian và thời gian mà chính không gian và thời gian tồn tại trong
con người, lệ thuộc vào con người và do con người sinh ra. Phê phán sai lầm
đó của Makhơ, Lênin đã chỉ rõ: “ Đó là một điều vô lý duy tâm rõ rệt nảy sinh
ra một cách tất nhiên từ học thuyết nói rằng vật thể là những phức hợp cảm
giác ”. Các nhà duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII do quá chú trọng đến
việc phân tích các khách thể vĩ mô vận động trong tốc độ thông thường nên đã
tách rời không gian và thời gian với nhau và tách rời không gian, thời gian với
vật chất. Niutơn cho rằng không gian, thời gian và vận động là những thực thể
nào đó ở bên ngoài vật chất và không có liên hệ với nhau. Khi phê phán quan
điểm đó của các nhà duy vật siêu hình, Ăngghen viết các hình thức cơ bản của
mọi tồn tại là không gian và thời gian tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức
vô lý như tồn tại ở ngoài không gian. Theo Ăngghen thì không gian và thời
gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và cả hai đều là thuộc tính cố hữu của
vật chất. Chúng là hình thức tồn tại của vật chất. Không thể có vật chất nào
tồn tại bên ngoài không gian và thời gian, cũng như không thể có không gian,
thời gian nào tồn tại bên ngoài vật chất. Đây là điều không thể hình dung trong
ý thức thông thường. Đầu thế kỷ XX, thuyết tương đối của Anhxtanh ra đời,
luận điểm thiên tài trên đây của Ăngghen đã được chứng minh một cách hùng
hồn. Thuyết tương đối vạch ra một khía cạnh mới, cốt yếu của mối tương quan
giữa gian, thời gian và vận động mà cơ học cổ điển chưa đạt tới. Thuyết tương
đối cũng đem lại bức tranh về sự thống nhất giữa không gian và thời gian.
Như vậy, thuyết tương đối đã bác bỏ tính bất biến của không gian, thời gian
cùng với sự vận động của vật chất, một lần nữa khẳng định không gian, thời
gian là hình thức tồn tại của vật chất. Như vậy, không gian và thời gian có
những tính chất sau đây:
- Tính khách quan, không gian, thời gian là thuộc tính của vật chất tồn tại
gắn liền với nhau và gắn liền với vật chất. Vật chất tồn tại khách quan, do đó
không gian và thời gian cùng tồn tại khách quan.
- Tính vĩnh cửu và vô tận: Theo Ăngghen, vật chất vĩnh vửu có vô tận
trong không gian và thời gian. Vô tận có nghĩa là không có tận cùng nào cả.
Những thành tựu của vật lý học vi mô cũng như những thành tựu của vũ trụ
học ngày càng xác nhận tính vĩnh cửu và tính vô tận của không gian và thời gian.
- Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian. Tính ba
chiều của không là chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tính một chiều của thời
gian là chiều từ quá khứ đến tương lai.
Không gian mà chúng ta đang xét là không gian hiện thực, không gian ba
chiều. Nếu chú ý, trong toán học ngoài phạm trù không gian ba chiều còn có
phạm trù không gian nhiều chiều vv... Đó là sự trừu tượng hoá toán học, một
công cụ, toán học dùng để nghiên cứu các đối tượng đặc thù. Tính thống nhất
vật chất của thế giới.
Tính thống nhất của thế giới luôn gắn liền với cách giải quyết vấn đề cơ
bản của triết học có thể phản xạ hai khuynh hướng cơ bản về vấn đề này chủ
nghĩa duy vật, khi coi vật chất trước, ý thức có sau, ý thức là sự phản ánh thế
giới vật chất do đó tính thống nhất của thế giới là vật chất. Ngược lại, chủ
nghĩa duy tâm có ý thức, tinh thần có trước, quyết định vật chất, tính thống
nhất của thế giới là ý thức tinh thần. Chủ nghĩa duy vật trước Mác có công lao
lớn trong việc hình thành và phát triển nguyên tắc thống nhất vật chất của thế
giới. Song, do họ đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất, nên
nguyên tắc trên có hạn chế rất lớn, mâu thuẫn với các thành tựu của khoa học
tự nhiên hiện đại. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự thống nhất
chân chính của thế giới là ở tính vật chất của nó, đó là một nguyên tắc của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Thế giới xung quanh chúng ta dù đa dạng và phong
phú như thế nào chăng nữa , nhưng bản chất của nó là vật chất. Khi khẳng
định thế giới thống nhất ở tính vật chất, chủ nghĩa duy vật biện chứng không
thể được quy sự thống nhất đó về sự giống nhau, tương đối của các yếu tố,
như nguyên tử chẳng hạn mà được hiểu. Trước hết, sự thống nhất thể hiện ở cơ
sở thực thể duy nhất phổ biến, tồn tại vĩnh viễn và vô tận có ở tất cả các hình
thức đa dạng, phong phú của thế giới đó là vật chất; thứ hai, sự thống nhất vật
chất của thế giới còn gắn liền với sự liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố ở
bên trong thế giới, là chính sự tác động qua lại dẫn đến vận động, phát triển.
Nguyên tắc thống nhất vật chất của thế giới phải gắn liền với nguyên tắc vận
động và phát triển. Những thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại chứng
minh cho luận điểm trên có thể khẳng định rằng tất cả các sự vật, từ trên trái
đất của chúng ta đến các hành tinh xa xôi đều có cấu trúc vật lý, hoá học thống
nhất đều được tạo ra từ các phân tử, nguyên tử và các hạt cơ bản thậm chí từ
các trường vật lý nữa.
Song chỉ bằng sự tương đồng của các cấu trúc thì chưa đủ để giải thích sự
đồng nhất vật chất của thế giới, bởi vì không thể quy cơ thể sinh vật, con
người và xã hội loài người vào các phân tử, nguyên tử, các hạt cơ bản vv...
được mặc dù chúng cũng có các yếu tố như vật và cũng không thể chỉ bằng
các quy luật của vật lý học, hoá học đã có thể nhận thức đầy đủ được các dạng
vật chất cao, phức tạp hơn như cơ thể sinh vật, con người, xã hội. Sự thống
nhất ở đây còn được bao gồm tất cả giới Vô sinh, hữu sinh và xã hội và một
bức tranh thế giới duy nhất, trong đó giữa chúng có sự liên hệ tác động qua lại,
chuyển hoá lẫn nhau, vận động và phát triển. Chính quá trình này cho phép
chúng ta thấy được đầy đủ sự thống nhất vật chất của thế giới với tất cả các
trạng thái, các giai đoạn phát triển, từ các hạt cơ bản đến phân tử, từ các phân
tử đến cơ thể sống và từ cơ thể sống đến con người, xã hội loài người. Như
vậy, thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn và vô tận. Tuy thế giới vật
chất đa dạng và phong phú nhưng tất cả đều là vật chất, đều thống nhất ở tính vật chất của nó.
Chương 2: Vận dụng
- Đối với triết học, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã giải quyết hai mặt
vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Nó cung cấp nguyên tắc thế giới quan và phương pháp luận khoa học để đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm, thuyết không thể biết, chủ nghĩa duy vật siêu
hình và mọi biểu hiện của chúng trong triết học tư sản hiện đại về phạm trù
này. Trong nhận thức và thực tiễn, đòi hỏi con người phải quán triệt nguyên
tắc khách quan - xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn tọng khách quan, nhận
thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan... Định nghĩa vật chất của
V.I.Leenin là cơ sở khoa học cho việc xác định vật chất trong lĩnh vực xã hôi -