lOMoARcPSD| 45474828
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI SỐ 1
TÌM HIỂU VỀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN GIAI ĐOẠN 2011-2021. RÚT RA NHẬN XÉT
Tên học phần
Mã lớp học phần
241
_HCMI0131_
19
Giảng viên
Lê Văn Nguyên
Nhóm
0
3
Hà Nội, tháng 10 năm 2024
lOMoARcPSD| 45474828
1
lOMoARcPSD| 45474828
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế nhân bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế nhân một chủ
trương lớn của Đảng Nhà nước trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm khai thác mọi tiềm năng thế mạnh của kinh tế
nhân, đưa kinh tế nhân trở thành động lực quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
Tại Việt Nam, kể từ khi đổi mới, kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển
vượt bậc, đóng góp ngày càng lớn o cấu GDP giải quyết việc làm. Tuy nhiên,
trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, kinh
tế nhân Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức mới, đòi hỏi phải những
giải pháp phù hợp để phát triển bền vững. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước
ta đã khái quát cụ thể những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế
nhân; đồng thời cũng từng bước hoàn thiện bổ sung nhiều Văn kiện Đại hội
Đảng nhằm chỉ rõ vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng hội chủ nghĩa Việt Nam. Giai đoạn 2011-2021 một giai đoạn quan
trọng trong quá trình đổi mới và hội nhập của Việt Nam. Những năm qua, Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế hội, trong đó sự
đóng góp không nhỏ của kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, vẫn
còn tồn tại những hạn chế và bất cập cần được giải quyết.
Để làm hơn về phát triển kinh tế nhân, nhóm chúng em đã chọn đề tài:
“Tìm hiểu về quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế nhân giai đoạn 20112021”.
Qua đtài này, góp phần làm hơn quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư
nhân, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây dựng
hoàn thiện chính ch, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của khu vực kinh
tế tư nhân trong thời gian tới.
1. Khái niệm kinh tế tư nhân
Kinh tế nhân, hiểu cách khái quát chung, khu vực kinh tế nằm ngoài quốc
doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp trong ngoài
lOMoARcPSD| 45474828
3
nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Kinh tế tư nhân là tất cả các cơ s
sản xuất kinh doanh không dựa trên sở hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản
xuất. Hiểu ở cấp độ hẹp, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở
hữu nhân, bao gồm kinh tế thể, tiểu chủ kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở
hữu tư nhân về liệu sản xuất. Kinh tế nhân tồn tại dưới các hình thức như: doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh
cá thể.
2. Vai trò của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế thị trường
Một là, vai trò của kinh tế nhân đối với nền kinh tế ngày càng quan trọng.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư nhân
nhân tố không chỉ đảm bảo cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao, tạo nguồn
thu cho ngân sách nhà nước mà còn tham gia vào giải quyết hàng loạt những vấn đề
xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực,… Kinh tế
tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 40 43% GDP; thu hút
khoảng 85% lực lượng lao động, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực
hội cho đầu phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân,
bảo đảm an sinh xã hội.
Hai là, đóng góp vào nền kinh tế hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế
tư nhân cao, nhiều sáng kiến, đổi mới và sự đột phá được xuất phát từ những doanh
nghiệp nhân. Hiệu quả sử dụng vốn đầu của khu vực kinh tế nhân cao hơn
1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước.
Vai trò của kinh tế nhân càng trở nên quan trọng hơn khi khoa học công
nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Ba là, kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc thay thế nguồn vốn
đầu công trong bối cảnh nguồn vốn đầu công được tiết giảm. Trong giai đoạn
2010 - 2021, tỷ lệ đầu tư công trong tổng đầu tư năm cao nhất là 36,1% (năm 2012),
lOMoARcPSD| 45474828
năm thấp nhất 24,1% (năm 2019). Tuy nhiên, stăng cao của đầu nhân
tăng cường đầu tư nước ngoài đã góp phần ổn định kinh tế.
CHƯƠNG II: NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ 1. Tình hình thế giới
Lạm phát trong hai cuộc suy thoái toàn cầu gần nhất
Trong năm 2020, lạm phát đã giảm 0,9 điểm % trên toàn cầu và 1,2 điểm %
tại các EMDE kể từ tháng 1/2020 cho đến khi chạm đáy vào tháng 5/2020. Lạm phát
bắt đầu tăng trở lại phần lớn các quốc gia trên thế giới vào tháng 5/2020- chỉ 5
tháng sau khi đại dịch COVID-19ng phát. Việc lạm phát toàn cầu giảm trong thời
gian ttháng 1 đến tháng 5/2020 đa phần do sự sụp đổ trong nhu cầu thế giới và
một phần khác nguyên nhân từ sự lao dốc của giá dầu mỏ, tuy một số áp lực
lạm phát từ sự gián đoạn nguồn cung. Theo WB, vai trò lớn hơn của cầu thế giới đối
với suy giảm lạm phát năm 2020 so với các cuộc suy thoái trước đó có thể phản ánh
mức độ nghiêm trọng của cuộc suy thoái năm 2020. Trong năm 2020, kỳ vọng lạm
phát ngắn hạn (một năm tới) đã giảm 0,3 điểm % trên toàn cầu từ tháng 3 đến tháng
5, trước khi ổn định trở lại mức 2,0% cho phần còn lại của năm 2020. Chúng chỉ
tăng thêm 0,2 % vào tháng 3/2021 khi quá trình phục hồi ràng đã diễn ra nhanh
hơn dự kiến và các biện pháp hỗ trợ chính sách mới đã được phê duyệt.
Sự phục hồi từ khủng hoảng tài chính toàn cầu
Kinh tế thế giới năm 2021 khép lại với xu hướng phục hồi kể từ khi chịu tác
động nghiêm trọng nặng nề của đại dịch Covid-19. Tuy vậy, đà phục hồi sự
phân hóa ràng giữa các nền kinh tế. Sau khi tăng trưởng GDP sụt giảm mạnh 3,1%
trong năm 2020 do tác động của đại dịch Covid-19, đà phục hồi của kinh tế toàn cầu
diễn ra khá nhanh ngay sau đó khiến chu kỳ suy thoái kinh tế dấu hiệu được rút
ngắn hơn so với các khủng hoảng trước đây. Ngay từ quý III/2020, kinh tế thế giới
đã bước đầu dần phục hồi. Bước sang năm 2021, đà phục hồi tiếp tục được củng cố
và dẫn dắt trong 6 tháng đầu năm bởi các nền kinh tế phát triển. Tốc độ tăng trưởng
lOMoARcPSD| 45474828
5
kinh tế theo quý của Mỹ, châu Âu, Trung Quốc đều cho thấy mức độ tăng trưởng cao
trong quý II/2021, trong đó Trung Quốc là quốc gia phục hồi nhanh nhất so với các
nước khác do kinh nghiệm kiểm soát dịch bệnh (Đồ thị 1). Ti lại, các nền kinh tế
mới nổi có mức độ phục hồi chậm hơn do chịu sự tác động của biến thể Delta cũng
như việc tiếp cận các nguồn vắc-xin còn hạn chế.
Đồ thị 1: Tốc độ tăng trưởng GDP một số nước lớn (%y/y)
Nguồn: Tradingeconomics.com
Ảnh hưởng của các cuộc chiến thương mại.
Chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc Hoa Kỳ (còn được gọi tắt Cuộc
chiến thương mại Trung - Mỹ) khởi đầu vào ngày 22/3/2018 khi Tổng thống Mỹ
Donald Trump tuyên bố đánh thuế 50 tỷ USD đối với hàng hóa Trung Quốc xuất
khẩu vào Mỹ, để ngăn chặn những gì hcho hành vi thương mại không công bằng
và hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ. Các mức thuế áp lên Trung Quốc, vốn được mệnh
danh công xưởng toàn cầu, sẽ nh hưởng đến nhiều công ty vốn dựa vào chuỗi
cung ng toàn cầu nhiều khả năng sẽ gây tổn thương cho các công ty Mỹ nhiều
hơn các công ty Trung Quốc chính quyền ông Trump đang nhắm vào. Cuộc
chiến thương mại của ông Trump sẽ gia tăng chi phí cho các ngành công nghiệp Mỹ,
nhiều khả năng đe dọa các công việc trong lĩnh vực sản xuất ông Trump từ u
nói rằng ông muốn bảo vệ. những chi phí cao thêm này cuối cùng cũng đổ dồn
lOMoARcPSD| 45474828
lên vai của người tiêu dùng Mỹ. Không chỉ ảnh hưởng lên hai nền kinh tế hàng
đầu thế giới, hàng loạt quốc gia châu Á khác cũng sẽ chịu tác động từ các động thái
này. Báo cáo phân tích của DBS cho thấy Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan
Singapore sẽ là các nền kinh tế gặp rủi ro cao nhất tại châu Á vì chiến tranh thương
mại Mỹ - Trung. Do các nước này có độ mở thương mại cao tham gia nhiều vào
chuỗi cung ứng. Tăng trưởng GDP của Hàn Quốc có thể mất 0,4% năm nay. Con số
này của Malaysia Đài Loan đều được dự báo 0,6%. Còn Singapore là 0,8%. Tác
động này có thể lên gấp đôi năm 2019.
Sự gia tăng của các nền kinh tế mới nổi
Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) vai trò quan trọng trong việc giải
quyết các thách thức toàn cầu, như ứng phó với đại dịch COVID-19 và phục hồi nền
kinh tế thế giới. Năm 2021, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của khối BRICS đạt hơn
23,5 nghìn tỷ USD, cao hơn GDP của Mỹ (22,68 nghìn tỷ USD). Trong đó, Trung
Quốc có GDP lớn nhất trong khối BRICS, đạt 16,86 nghìn tỷ USD bốn quốc gia
còn lại (Nga, Ấn Độ…) đều dưới 3 nghìn tỷ USD.
Cụ thể là: đối với Nga, năm 2021, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đạt
4,6% nhờ sự huy động chuẩn bị tốt trước sốc kinh tế do tác động của đại
dịch COVID-19. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5%. Dòng vốn đầu tư nước ngoài
tăng khoảng 11 tỷ USD (tháng 6-2021). Tỷ lệ thất nghiệp thấp (ở mức 4,3%) và lạm
phát ở mức 8%. Là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới, GDP
của Ấn Đtăng 8,4% (quý II-2021). Hoạt động dịch vụ hành chính công quốc
phòng tăng trưởng mạnh nhất mức 17,4%. Chi tiêu chính phủ tăng 8,7% so với
cùng kỳ năm 2020. Lãi suất thấp đã thúc đẩy tiêu dùng tăng cao. Trong quý IV-2021,
tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt 4,0%; sụt giảm so với quý I, II và III
năm 2021 lần lượt là 18,3%, 7,9% và 4,9%. Sự giảm tốc này là do tác động của một
số yếu tố, như Thị trường bất động sản, khủng hoảng ng lượng, khủng hoảng nhân
khẩu học. Sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc đang gây thêm rủi ro cho kinh tế
toàn cầu.
lOMoARcPSD| 45474828
7
Biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu là một trong các thách thức lớn nhất hiện nay, đe dọa an ninh
khu vực, toàn cầu làm suy giảm những thành quả phát triển quan trọng của con
người hiện tại tương lai. Theo Báo cáo, 10 sự kiện thời tiết khắc nghiệt ảnh
hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2021 là: Bão tuyết ở Texas; Lũ lụt Australia; Băng
giá tại Pháp; Bão xoáy Tauktae; Bão xoáy Yaas; Lũ lụt châu u; Lũ lụt Hà Nam; Bão
nhiệt đới Infa; Bão Ida; Lũ lụt bang British Columbia. Mười trong số các sự kiện đó
gây thiệt hại 1,5 tỷ USD trở lên. Hầu hết, các ước tính này chỉ dựa trên tổn thất được
bảo hiểm, nghĩa là thiệt hại tài chính thực sự thể còn cao hơn. Trong số đó
cơn bão Ida đổ bộ vào Mỹ hồi tháng 8, gây thiệt hại 65 tỷ USD khiến 95 người
thiệt mạng. Lũ lụt xảy ra vào tháng 7 châu u gây thiệt hại 43 tỷ USD làm 240
người thiệt mạng, trong khi lũ lụt ở tỉnh Hà Nam của Trung Quốc gây thiệt hại 17,5
tỷ USD, làm 320 người thiệt mạng khiến hơn một triệu người phải di dời.Có thể
nói, những cái giá phải trả của biến đổi khí hậu trong năm 2021 rất lớn, cả thiệt
hại tài chính lẫn thiệt hại về nhân mạng sự di dời của người dân trên khắp thế giới.
Cách mạng công nghiệp 4.0
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ làm thay đổi nền tảng, thúc đẩy các
nền kinh tế truyền thống chuyển đổi sang kinh tế tri thức đổi mới sáng tạo. Bên
cạnh đó, đổi mới công nghệ cũng làm gia tăng các yếu tố sản xuất - kinh doanh, kéo
theo tăng thu nhập và dẫn đến sự gia tăng tiêu dùng dân cư, tăng đầu cho cả nền
kinh tế tăng năng suất lao động. Cùng với đó, nhờ ứng dụng công nghệ, chi p
giao thông vận tải thông tin liên lạc sẽ giảm xuống, chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ
trở nên hiệu quả hơn, các chi phí thương mại được giảm bớt. Tất cả những yếu tố
trên góp phần mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động thương mại đầu toàn cầu.
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng làm gia tăng khoảng cách
phát triển giữa các quốc gia định hình lại bản đồ kinh tế thế giới. Trong đó, các
nền kinh tế phát triển dựa trên nền tảng công nghệ sẽ chiếm ưu thế, trong khi các nền
lOMoARcPSD| 45474828
kinh tế “thâm dụng” tài nguyên khoáng sản hay “thâm dụng” lao động thì dần trở
nên mất lợi thế.
2. Tình hình trong nước
2.1. Tình hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011-2021
Nhìn chung GDP trong giai đoạn 2011-2021 tăng dần theo thời gian. Năm
2011, tổng sản phẩm trong nước đạt 2,5 triệu tỷ đồng nhưng đến năm 2021, con số
này đã tăng gấp 3 lần. Tuy sxuất hiện của dịch Covid-19 từ năm 2020 nhưng
nhờ các chính sách phòng chống dịch tốt kinh tế Việt Nam vẫn dấu hiệu tăng
trưởng dương. GDP năm 2021 tăng 2,58% so với năm 2020 đạt gần 8,4 triệu tỷ
đồng.
Năm 2012, vốn đăng cấp mới vào Việt Nam sụt giảm đáng kể nhưng giai
đoạn từ 2013 2019 giai đoạn phục hồi của dòng vốn FDI. Năm 2020, do tác động
của Covid-19, nền kinh tế thế giới chịu nhiều thiệt hại nặng nề khiến các dòng vốn
đầu ra nước ngoài giảm mạnh. Cụ thể, vốn FDI vào Việt Nam năm 2020 giảm
6,7% so với năm 2019. Tuy diễn biến tình hình dịch bệnh vẫn diễn ra khá phức tạp
vào năm 2021, tín hiệu đầu nước ngoài Việt Nam lại khả quan hơn do các chính
sách hỗ trợ từ phía Chính phủ. Năm 2021, vốn FDI vượt mốc 31 tỷ USD.
Có thể thấy trong giai đoạn 10 năm kể từ 2011, tình hình kim ngạch xuất nhập
khẩu Việt Nam tăng dần qua các năm. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2021
gấp 3 lần so với 10 năm trước, đạt 668,54 tỷ USD. Con số này cũng tăng 22,6% so
với năm 2020. Nhờ con số này mà Việt Nam cũng lọt vào danh sách 20 nền kinh tế
có quy mô thương mại lớn nhất thế giới. Từ 2012 đến nay, cán cân thương mại xuất
nhập khẩu hàng hóa liên tục thặng dư, với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam.
Chính sách đối với kinh tế tư nhân
Sự tác động của chính sách kinh tế đối với kinh tế tư nhân diễn ra trên nhiều
khía cạnh, phương diện, như địa vị pháp lý, phạm vi hoạt động, sự bình đẳng và
hội phát triển…Về mặt pháp lý, pháp luật Việt Nam không bất cứ sự phân biệt
lOMoARcPSD| 45474828
9
nào về cạnh tranh và cơ hội kinh doanh, phát triển giữa các thành phần kinh tế. Tuy
nhiên, trên thực tế, kinh tế nhân vẫn gặp nhiều khó khăn trong các vấn đề như: th
tục thành lập, hoạt động kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ về tài chínhĐiều 51 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Nền kinh tế Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng
hội chủ nghĩa với nhiều nh thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo”. Quy định này ít nhiều hàm chứa những lợi thế của kinh tế
nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước một bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước và
thành phần kinh tế này nhận được nhiều sự quan tâm, htrợ từ phía Nhà nước hơn
những thành phần kinh tế khác.
Cải cách hành chính, thể chế kinh tế
Trong cải cách nền hành chính, cải cách thể chế nhiệm vụ cần tiến hành đầu
tiên. Thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011
- 2020, tình hình cải cách về thể chế kinh tế Việt Nam đã nhiều thay đổi. Tuy
nhiên, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng u rõ: “Thể chế kinh tế thị trường chưa thật
đồng bộ, thông suốt; chưa thực sự động lực tạo ra đột phá”. Thực tế cho thấy,
những cải cách về thể chế chưa thực sự tạo ra động lực cho khu vực kinh tế tư nhân
phát triển. Nhiều quy định pháp luật còn là trở ngại đối với hoạt động kinh tế của tư
nhân. Những ngành nghề bị cấm kinh doanh, hoặc kinh doanh có điều kiện vẫn còn
tồn tại. Nhiều điều kiện đầu kinh doanh được quy định không đúng thẩm quyền,
biệt, trường hợp vượt quá thẩm quyền. Mức độ i lòng của người dân doanh
nghiệp trong giao dịch hành chính còn thấp. Chất lượng đội ngũ công chức, nguồn
nhân lực và môi trường kinh doanh
Xét trên nhiều phương diện, đội ngũ công chức chính là lực lượng giữ vai trò
quyết định kết quả thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế nhân. Trong
quá trình này, nền kinh tế cần một đội ngũ công chức đủ năng lực, phẩm chất,
trình độ, kỹ năng và đạo đức công vụ. Tuy nhiên, xuất phát từ hạn chế về trình độ
nhận thức, nhiều công chức chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra không ý
thức được trách nhiệm đối với Nnước hội. Khi công chức trong bộ máy công
lOMoARcPSD| 45474828
quyền không có đủ kiến thức về kinh tế, kỹ ng thực thi công vụ, thì hoạt động kinh
tế của khu vực tư nhân còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
So với nhiều quốc gia trong khu vực, lực lượng lao động của Việt Nam còn
hạn chế về trình độ, kỹ năng và năng suất lao động còn thấp. Trình độ quản trị trong
khu vực kinh tế tư nhân hiện cũng đang là một vấn đề. Kinh doanh là một nghề khó,
chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy, những người quản lý, điều hành khu vực kinh tế tư
nhân cần có kiến thức về kinh tế, kỹ năng và trình độ quản trị phù hợp.
Phát triển kinh tế nhân cần có một môi trường phù hợp, mang tính điều kiện.
Nếu thiếu sự bình đẳng về pháp lý, sự tự do cạnh tranh lành mạnh, kinh tế nhân sẽ
không thể phát triển.
2.3. Các thách thức và cơ hội
Thách thức
Cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Sự gia tăng cạnh tranh từ các nước trong
khu vực và trên thế giới đòi hỏi Việt Nam phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng
nặng nề của biến đổi khí hậu, gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế và xã hội. Mặc dù
sự tăng trưởng kinh tế, nhưng bất bình đẳng thu nhập vẫn một vấn đề đáng quan
tâm, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. đã nhiều cải thiện, nhưng s
hạ tầng của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt c vùng nông thôn
miền núi. Năng lực đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, chưa
đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Cơ hội
Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, tạo ra nhiều hội
mới để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với dân
số trẻ tầng lớp trung lưu ngày càng lớn, thị trường nội địa Việt Nam mang lại
nhiều tiềm năng cho các doanh nghiệp. Việt Nam có lực lượng lao động trẻ, năng
động có trình độ ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp hiện
đại. Sự phát triển của công nghệ số mang lại nhiều hội mới cho Việt Nam, như
lOMoARcPSD| 45474828
11
thương mại điện tử, dịch vụ trực tuyến, và sản xuất thông minh. Nhà nước Việt Nam
đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh thuận
lợi.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN GIAI
ĐOẠN 2011-2016
1. Các quan điểm của đảng về phát triển kinh tế tư nhân
Định hướng và mục tiêu chính của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong việc xác định vai trò của kinh tế nhân trong nền kinh tế quốc dân.
Đại hội đã có những định hướng và mục tiêu rất rõ ràng nhằm thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ của thành phần kinh tế này.
Trước hết về định hướng, nền kinh tế nhân được xác định một trong những
động lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần đáng kể vào tăng trưởng GDP, tạo
việc làm và nâng cao đời sống nhân dân. Do vậy, Đại hội nhấn mạnh cần phải nâng
cao vị thế của nền kinh tế nhân. Không những vậy, nền kinh tế nhân được
khuyến khích tham gia vào hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, không còn
bị hạn chế như trước đây. Đồng thời, Đảng định hướng tạo ra i trường kinh doanh
thuận lợi, minh bạch công bằng thông qua việc hoàn thiện thể chế, chính sách.
Trong đó, doanh nghiệp vừa nhỏ được coi là một lực lượng quan trọng của nền
kinh tế và được ưu tiên hỗ trợ phát triển.
Về mục tiêu cụ thể, Đại hội XI khẳng định mục tiêu xây dựng một nền kinh tế
thị trường định hướng hội chủ nghĩa hiện đại, trong đó kinh tế nhân đóng vai
trò quan trọng. Thông qua việc phát triển nền kinh tế tư nhân, VN hướng tới mục tiêu
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trên trường quốc tế. Đồng thời, nền
kinh tế tư nhân được vọng sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần giải quyết vấn
đề việc làm cho xã hội. Nhờ vậy, góp phần tăng thu nhập cho nhân dân, đời sống
nhân dân được cải thiện, nâng cao.
lOMoARcPSD| 45474828
Có thể thấy, Các quyết định của Đại hội XI đã gửi đi một tín hiệu rất tích cực
đến cộng đồng doanh nghiệp, khẳng định sự ủng hộ của Đảng đối với sphát triển
của kinh tế tư nhân. Môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ khuyến khích doanh nghiệp
nhân đổi mới, sáng tạo, tìm kiếm những hội kinh doanh mới scạnh tranh
lành mạnh giữa các thành phần kinh tế sẽ thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả các nguồn
lực. Tóm lại, Đại hội XI đã đặt ra những định hướng rất ràng và đầy tham vọng
đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Những định hướng này đã tạo
ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của thành phần kinh tế này và góp phần
quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2016) tiếp tục khẳng định và
làm hơn nữa vai tquan trọng của kinh tế nhân trong sự phát triển của đất
nước. So với Đại hội XI, Đại hội XII đã đưa ra những định hướng cụ thể hơn, tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tư nhân phát triển.
Bên cạnh các định hướng đã được nêu ra trong Đại hội XI của Đảng Cộng sản
VN (2011) như nền kinh tế nhân vẫn được xác định động lực quan trọng của
nền kinh tế, đồng thời được khuyến khích tham gia vào hầu hết các ngành, lĩnh vực
cũng như được tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
nhân cạnh tranh lành mạnh thì Đại hội XII, Đảng đã có một vài thay đổi về định
hướng. Trước hết, doanh nghiệp vừa nhỏ không còn được xác định một lực
lượng quan trọng mà được coi là lực lượng nòng cốt của nền kinh tế và được ưu tiên
hỗ trợ phát triển. Không những thế, doanh nghiệp vừa nhỏ còn được tạo điều kiện
liên kết, hợp tác, hình thành các cụm ng nghiệp được ưu tiên hỗ trợ về vốn,
công nghệ, thị trường. Không chỉ vậy, Đại hội XII lần đầu tiên còn đề cập đến
việc khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế nhân mạnh để không ngừng
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
Về mục tiêu cụ thể được nêu ra trong đại hội XII, hầu hết đều được khẳng định
lại từ các mục tiêu của Đại hội trước đó. Tuy nhiên, Đại hội XII nhấn mạnh mục tiêu
thông qua việc phát triển kinh tế nhân, Việt Nam hướng đến trở thành một quốc
lOMoARcPSD| 45474828
13
gia nền kinh tế năng động, sáng tạo, vừa góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
cho nhân dân, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế.
Tóm lại, Đại hội XII đã xác định rõ vai trò quan trọng của kinh tế nhân
đưa ra những định hướng cụ thể để thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế này.
Những chính sách này đã tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của doanh
nghiệp nhân góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - hội của đất
nước.
Các chủ trương, chính sách cụ thể và các nghị quyết liên quan.
Tại Đại hội XI, Đảng ta xác định phải: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát
triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”.
Đặc biệt tại Đại hội XII, Đảng đã khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhân một động lực
quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác cạnh tranh theo pháp luật”. Việc Đảng ta xác nhận “kinh tế nhân một
động lực quan trọng” trong phát triển đất nước (Đại hội X mới ghi nhận: “Kinh tế
nhân vai tquan trọng, một trong những động lực của nền kinh tế”), không chỉ
xác nhận vai trò mới của kinh tế nhân mà còn mở ra những hội mới để thành
phần kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn. Với chủ trương của Đảng không phân
biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, xóa bỏ hẳn cơ chế bao cấp, chuyển
sang chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa. Đại hội XII của Đảng
chính là Đại hội có nhiều nhận thức mới đối với các thành phần kinh tế, đó là khẳng
định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vai trò động lực quan trọng của nền kinh
tế đối với kinh tế tư nhân; quan điểm lựa chọn tiếp nhận kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài; và quan tâm hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp…
Tại Đại hội XII cũng lần đầu tiên Đảng ta khẳng định chủ trương: “Khuyến
khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các
lOMoARcPSD| 45474828
tập đoàn kinh tế nhà nước”. Điều này cho thấy, Đảng ta đã nhận thấy trong phát
triển kinh tế, sphát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân là một xu thế tất yếu,
một kênh quan trọng giúp Nhà nước thực thi nhiệm vụ kinh tế đã đề ra.
2. Quá trình tổ chức và chỉ đạo thực hiện
Các hoạt động của cơ quan, doanh nghiệp
Khu vực kinh tế tư nhân là nhân tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam trong những năm gần đây.
Số lượng doanh nghiệp đăng ký gia tăng mạnh mẽ, phản ánh cả quá trình chính
thức hoá hộ kinh doanh cũng nsự thành lập các doanh nghiệp mới. Các doanh
nghiệp nhân đầu tiên được thành lập vào năm 1991 sau khi Luật Doanh nghiệp
nhân và Luật Công ty được ban hành vào năm 1990. Nhưng vào thời điểm đó, việc
thành lập một công ty tư nhân vẫn còn rất phức tạp và tốn kém. vậy, trong vòng 9
năm kể từ khi luật được ban hành cho đến năm 1999, chỉ có 14.500 doanh nghiệp tư
nhân được thành lập. Luật Doanh nghiệp được thông qua vào năm 2000 đã tạo ra sự
tăng trưởng đột phá về số lượng cũng như quy của các doanh nghiệp nhân.
Những hạn chế và điều kiện về gia nhập thị trường đã được nới lỏng và giảm thiểu.
Kể tđó tới nay, số lượng các doanh nghiệp đăng liên tục tăng với tốc độ đáng
kinh ngạc. Riêng trong năm 2016, 110.000 doanh nghiệp đã được đăng ký.
Khu vực nhân trong nước chiếm 38,6% GDP năm 2016 (trong tỷ lệ này,
doanh nghiệp đăng chính thức chiếm 8,2%, khu vực hộ kinh doanh chiếm
30,43%). Khu vực nhân nước ngoài (FDI) đóng góp 18,95% vào GDP. Khu vực
tư nhân đóng góp chính cho tạo việc làm, giảm nghèo, cải thiện điều kiện sống, tăng
trưởng bền vững toàn diện ở Việt Nam. Nếu không tính khu vực hộ kinh doanh,
các doanh nghiệp nhân trong nước các doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài tạo
ra 3,35 triệu việc làm mới trong giai đoạn 2010-2015, tứctrung bình 557.000 việc
làm mới mỗi năm. Các doanh nghiệp nhân đã vượt qua khu vực DNNN về phương
diện tạo thu nhập cho người lao động khoảng cách này ngày một nới rộng hơn.
Việc làm do các doanh nghiệp khu vực nhân tạo ra đã giúp hàng triệu người lao
lOMoARcPSD| 45474828
15
động dịch chuyển từ các công việc có thu nhập thấp hơn trong lĩnh vực nông nghiệp
sang làm việc ở những ngành có năng suất cao hơn với mức lương cao hơn.
Các doanh nghiệp nhân đóng góp đáng kể vào sự mở rộng của phạm vi che
phủ của các chương trình an sinh hội, bảo hiểm hội. Các doanh nghiệp đóng
góp khoảng 39 tỷ USD vào Ngân sách Nhà nước vào năm 2016, chiếm 79,8% tổng
thu ngân sách. Tỷ trọng đóng góp của các doanh nghiệp nhân trong nước trong
tổng thu Ngân sách Nhà nước đã tăng từ 11,9% năm 2010 lên 14,3% năm 2016, tức
là từ khoảng 3 tỷ USD đến 7 tỷ USD mỗi năm tính theo giá trị tuyệt đối.
Phát triển khu vực kinh tế nhân đã góp phần đáng kể vào việc trao quyền
kinh tế cho phụ nữ, đặc biệt thông qua cơ hội việc làm nguồn thu nhập. Trong
năm 2015, phnữ chiếm 46% số việc làm trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp chính
thức. Một số nghiên cứu đánh giá rằng 25% doanh nghiệp ở Việt Nam là do phụ nữ
làm chủ hoặc được lãnh đạo bởi phụ nữ, cao hơn so với mức trung bình ở Nam Á là
8%. Khoảng 5% trong số các tổng giám đốc, giám đốc điều hành của c công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam là phụ nữ. Xu thế lãnh đạo phụ nữ
trong khu vực kinh tế nhân đã thúc đẩy sự hình thành hoạt động của các hiệp
hội doanh nghiệp, doanh nhân nữ. Các biện pháp hỗ trkhuyến khích của Nhà
Nước
Kể từ năm 1999, khuôn khổ pháp cho khu vực nhân ở Việt Nam đã liên
tục được cải thiện. Luật Doanh nghiệp Luật Đầu được sửa đổi vào năm 2004
thông qua thống nhất các luật khác nhau áp dụng chung cho các nhà đầu tư và doanh
nghiệp trong nước, DNNN doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài (doanh nghiệp
FDI). Ý tưởng về một khuôn khổ pháp chung áp dụng cho tất cả các nhà đầu tư,
không phân biệt hình thức sở hữu, đã trở thành hiện thực vào năm 2005. Đây là một
phần trong quá trình chuẩn bị của Việt Nam cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) vào năm 2007. Năm 2014, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu được
tiếp tục sửa đổi với với một số nội dung cải cách mới.
lOMoARcPSD| 45474828
Bên cạnh sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực doanh nghiệp nhân trong
nước, Việt Nam ngày càng trở nên dễ tiếp cận hơn đối với các khoản đầu nước
ngoài. Sau khi gia nhập WTO, Hiệp định Thương mại Song phương Việt-Mỹ được
kết, Việt Nam cũng đã Hiệp định Thương mại Tự do với Liên minh Châu u
(EVFTA) vào năm 2016. Việt Nam tiếp tục đa dạng hóa các đối tác kinh tế thông qua
nhiều phương thức như tăng cường hội nhập ASEAN, Hiệp định Đối tác Kinh tế
Toàn diện Khu vực (RCEP) nhằm bao quát một thị trường bao gồm 3,4 tỷ người.
Dòng vốn FDI vào Việt Nam đã đang phát triển ổn định mạnh mẽ. Tổng vốn
FDI vào Việt Nam đạt 24,4 USD trong năm 2016. Nhờ vậy, số vốn đầu của các
đầu nhân nước ngoài tăng mạnh mẽ trong giai đoạn 2010-2015. Bên cạnh đó,
phần lớn các nhà đầu gần đây đã tận dụng những ưu đãi về tiền thuê đất đất, nguồn
lao động giá rẻ các ưu đãi hào phóng của Chính phủ để thực hiện các hoạt động
sản xuất chế biến sử dụng nguyên liệu nhập khẩu để xuất khẩu phục vụ thị trường
trong nước. Do vậy, dịch vụ và sản xuất những khu vực hấp dẫn nhất đối với nguồn
vốn FDI vào Việt Nam.
Đồ thị 2: Tốc độ tăng trưởng của số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017.
lOMoARcPSD| 45474828
17
3. Kết quả và ý nghĩa
3.1. Thành tựu
Sự gia tăng số lượng doanh nghiệp nhân đã dẫn đến sự tăng trưởng mạnh
mẽ về tổng vốn của các doanh nghiệp tư nhân. Đóng góp của khu vực doanh nghiệp
nhân trong nước vào tổng vốn của khu vực doanh nghiệp tăng t9,25% năm 2000
lên 49,77% năm 2015. Nếu tính cả khu vực tư nhân nước ngoài là các doanh nghiệp
FDI, con số này sẽ lần lượt 32,9% vào năm 2000 và 68,6% vào năm 2015. Tổng
vốn của các doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng từ 98,3 nghìn tỷ đồng năm 2000
lên 11.020,9 nghìn tỷ năm 2015. Nói cách khác, khoảng 546 tỷ đô la đã được các
doanh nghiệp Việt Nam huy động đưa vào nền kinh tế chỉ trong vòng 15 năm,
trung bình 36,4 tỷ USD mỗi năm. Con số này vượt xa số vốn FDI hàng năm đăng
và thực hiện nguồn vốn ODA được giải ngân tại Việt Nam trong cùng giai đoạn.
Các doanh nghiệp nhân đã đang đóng góp lớn cho những nlực chung của việc
huy động vốn nguồn lực đang được người n tích trữ, bao gồm cả dưới nh thức
vàng và ngoại tệ, vào các mục đích sử dụng hiệu quả hơn và cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Mặc xét về giá trị tuyệt đối, tổng vốn của DNNN vẫn tăng song tỷ
trọng tổng vốn của các DNNN trong tổng số vốn của khu vực doanh nghiệp đã giảm
từ 67,1% xuống còn 31,4% vào năm 2015. Điều này chủ yếu là nhờ stăng trưởng
ấn tượng về tỷ trọng của khu vực tư nhân.
Khu vực kinh tế nhân đã đóng góp lớn vào việc hình thành tài sản cố định
và đầu tư dài hạn của khu vực doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói
chung. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn là những chỉ số quan trọng để đánh giá bao
nhiêu đơn vgiá trị gia tăng mới trong nền kinh tế sẽ được dùng để đầu tư thay hơn
tiêu dùng. Những chỉ snày cũng được dùng để theo dõi giá trị mua sắm tài sản
cố định mới hoặc hiện giá trị của c khoản đầu dài hạn trong khu vực doanh
nghiệp. Tài sản cố định đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp tư nhân trong nước
tăng tới 114 lần trong giai đoạn 2000 – 2015 - một tốc độ tăng trưởng nhanh hơn rất
nhiều so với khu vực DNNN doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài. Tỷ trọng
lOMoARcPSD| 45474828
nắm giữ bởi khu vực nhân trong nước đối với tổng tài sản cố định đầu dài
hạn của khu vực doanh nghiệp tăng mạnh từ 8,24% năm 2000 lên 36,9% vào năm
2015.
Khu vực kinh tế tư nhân là nhân tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam. Trong những năm gần đây, tốc độ được duy trì ở mức tăng dần, và
xoay quanh con số 7%. Quy của nền kinh tế đã tăng gấp ba trong vòng ba thập
kỷ, giúp Việt Nam chuyển mình từ một trong những nước nghèo nhất châu Á trở
thành một nền kinh tế thu nhập trung bình vào năm 2010. Tỷ lệ nghèo đói giảm
nhanh từ trên 50% vào đầu những năm 1990 xuống còn 8,4% vào năm 2016 (IMF
2004, ADB 2016). Trong năm 2016, khu vực kinh tế nhân đã trở thành nhân tố
quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Khu vực tư nhân trong nước
chiếm 38,6% GDP năm 2016 (trong tỷ lệ này, doanh nghiệp đăng chính thức
chiếm 8,2%, khu vực hộ kinh doanh chiếm 30,43%). Khu vực nhân nước ngoài
(FDI) đóng góp 18,95% GDP. vậy, khu vực tư nhân đang dần khẳng định vị thế
động lực chính cho những kết quả tăng trưởng kinh tế đáng khích lệ của của Việt
Nam.
Khu vực tư nhân đóng góp chính cho tạo việc làm, giảm nghèo, cải thiện điều
kiện sống, tăng trưởng bền vững và toàn diện ở Việt Nam. Việt Nam đã gặt hái được
nhiều thành công trong công tác xóa đói giảm nghèo với hàng triệu người thoát nghèo
trong vòng một, hai thập kỷ. Chính vì vậy, tỷ lệ đói nghèo được giảm xuống còn xấp
xỉ 7%, tỷ lệ thất nghiệp được duy trì ở mức thấp là 2,28% vào năm 2017 (MOLISA
và GSO, 2017). Điều này là một phần là nhờ hàng triệu việc làm đã được tạo ra bởi
khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân trong nước đã tạo
ra 5,98 triệu việc làm trong năm 2010, con số này đã tăng lên tới 7,7 triệu người
vào năm 2015. Với một xu thế tương tự, sviệc làm được tạo ra bởi các doanh nghiệp
FDI tăng từ 2,1 triệu vào năm 2010 lên đến 3,77 triệu vào năm 2015. Việc làm tạo ra
bởi các hộ kinh doanh cũng tăng từ 7,4 triệu lên 7,89 triệu vào năm 2015. Tổng cộng,
19,47 triệu người lao động đang làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân trong năm
lOMoARcPSD| 45474828
19
2015. Qua số liệu thống trên lại càng chứng tỏ vai trò quan trọng, không thể thiếu
của KTTN, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Việc làm do các doanh nghiệp khu vực nhân tạo ra đã giúp hàng triệu người
lao động dịch chuyển từ các công việc có lương thấp n trong lĩnh vực nông nghiệp
sang làm việc những ngành năng suất cao hơn với mức lương cao hơn. Trung
bình trong năm 2015, một công nhân trong doanh nghiệp nhân trong nướcmức
thu nhập 6,2 triệu đồng (276 đô la Mỹ) mỗi tháng người lao động trong khu vực
doanh nghiệp FDI thu nhập 7,5 triệu đồng (333,4 đô la Mỹ). Điều thú vị mức
thu nhập trung bình hàng tháng của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước có tốc
độ tăng trưởng cao hơn so với tốc độ tăng tại khu vực doanh nghiệp FDI và DNNN
trong những năm gần đây, nhờ đó góp phần thu hẹp khoảng cách về thu nhập trung
bình hàng tháng giữa các khu vực doanh nghiệp này. Quan trọng hơn, thu nhập trung
bình hàng tháng tại các doanh nghiệp nhân cao hơn nhiều so với thu nhập trung
bình của người nông dân - một ng việc thể các công nhân hiện đang m
việc trong doanh nghiệp tư nhân đã phải làm nếu doanh nghiệp tư nhân không tạo ra
hội việc làm đó. Trong năm 2015, một công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân
trong nước có thu nhập cao gấp 2,6 lần so với một nông dân bình thường. Tỷ lệ này
3,1 trong đối với trường hợp của những công nhân làm việc trong các doanh nghiệp
FDI. Trong giai đoạn 20102015, các doanh nghiệp nhân đã giúp tăng gấp ba lần
tổng thu nhập của 3,35 triệu lao động – những người có thể đã phải làm việc vất vả
trong các ngành thu nhập thấp hơn hoặc chịu tình trạng thiếu việc làm hoặc thất
nghiệp nếu như các công việc này không được các doanh nghiệp nhân trong nước
tạo ra.
3.2. Hạn chế
Năng lực hạn chế trong xây dựng kế hoạch kinh doanh, kỹ năng quản lý cũng
như các tiêu chuẩn quản trị công ty thấp hạn chế sự tăng trưởng của các doanh nghiệp
nhân trong nước. Nhiều chủ doanh nghiệp nhân còn lúng túng về các khái niệm,
vấn đề về quản trị công ty, quản trị doanh nghiệp, quản lý hoạt động. Các phương

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45474828
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI BÀI THẢO LUẬN ĐỀ TÀI SỐ 1
TÌM HIỂU VỀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TƯ NHÂN GIAI ĐOẠN 2011-2021. RÚT RA NHẬN XÉT Tên học phần
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã lớp học phần
241 _HCMI0131_ 19 Giảng viên Lê Văn Nguyên Nhóm 0 3
Hà Nội, tháng 10 năm 2024 lOMoAR cPSD| 45474828 1 lOMoAR cPSD| 45474828
CHƯƠNG I: MỞ ĐẦU Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là một chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm khai thác mọi tiềm năng thế mạnh của kinh tế tư
nhân, đưa kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tại Việt Nam, kể từ khi đổi mới, kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển
vượt bậc, đóng góp ngày càng lớn vào cơ cấu GDP và giải quyết việc làm. Tuy nhiên,
trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, kinh
tế tư nhân Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức mới, đòi hỏi phải có những
giải pháp phù hợp để phát triển bền vững. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước
ta đã khái quát cụ thể những quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế
tư nhân; đồng thời cũng từng bước hoàn thiện và bổ sung nhiều Văn kiện Đại hội
Đảng nhằm chỉ rõ vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Giai đoạn 2011-2021 là một giai đoạn quan
trọng trong quá trình đổi mới và hội nhập của Việt Nam. Những năm qua, Việt Nam
đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội, trong đó có sự
đóng góp không nhỏ của kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, vẫn
còn tồn tại những hạn chế và bất cập cần được giải quyết.
Để làm rõ hơn về phát triển kinh tế tư nhân, nhóm chúng em đã chọn đề tài:
“Tìm hiểu về quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn 20112021”.
Qua đề tài này, góp phần làm rõ hơn quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư
nhân, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây dựng và
hoàn thiện chính sách, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của khu vực kinh
tế tư nhân trong thời gian tới.
1. Khái niệm kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân, hiểu cách khái quát chung, là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc
doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp trong và ngoài lOMoAR cPSD| 45474828
nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Kinh tế tư nhân là tất cả các cơ sở
sản xuất kinh doanh không dựa trên sở hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản
xuất. Hiểu ở cấp độ hẹp, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở
hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân tồn tại dưới các hình thức như: doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể.
2. Vai trò của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế thị trường
Một là, vai trò của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế ngày càng quan trọng.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư nhân
là nhân tố không chỉ đảm bảo cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao, tạo nguồn
thu cho ngân sách nhà nước mà còn tham gia vào giải quyết hàng loạt những vấn đề
xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực,… Kinh tế
tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 40 43% GDP; thu hút
khoảng 85% lực lượng lao động, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực
xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân,
bảo đảm an sinh xã hội.
Hai là, đóng góp vào nền kinh tế và hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế
tư nhân cao, nhiều sáng kiến, đổi mới và sự đột phá được xuất phát từ những doanh
nghiệp tư nhân. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cao hơn
1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước.
Vai trò của kinh tế tư nhân càng trở nên quan trọng hơn khi mà khoa học và công
nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Ba là, kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc thay thế nguồn vốn
đầu tư công trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư công được tiết giảm. Trong giai đoạn
2010 - 2021, tỷ lệ đầu tư công trong tổng đầu tư năm cao nhất là 36,1% (năm 2012), 3 lOMoAR cPSD| 45474828
năm thấp nhất là 24,1% (năm 2019). Tuy nhiên, sự tăng cao của đầu tư tư nhân và
tăng cường đầu tư nước ngoài đã góp phần ổn định kinh tế.
CHƯƠNG II: NỘI DUNG
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ 1. Tình hình thế giới
Lạm phát trong hai cuộc suy thoái toàn cầu gần nhất
Trong năm 2020, lạm phát đã giảm 0,9 điểm % trên toàn cầu và 1,2 điểm %
tại các EMDE kể từ tháng 1/2020 cho đến khi chạm đáy vào tháng 5/2020. Lạm phát
bắt đầu tăng trở lại ở phần lớn các quốc gia trên thế giới vào tháng 5/2020- chỉ 5
tháng sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát. Việc lạm phát toàn cầu giảm trong thời
gian từ tháng 1 đến tháng 5/2020 đa phần là do sự sụp đổ trong nhu cầu thế giới và
một phần khác có nguyên nhân từ sự lao dốc của giá dầu mỏ, tuy có một số áp lực
lạm phát từ sự gián đoạn nguồn cung. Theo WB, vai trò lớn hơn của cầu thế giới đối
với suy giảm lạm phát năm 2020 so với các cuộc suy thoái trước đó có thể phản ánh
mức độ nghiêm trọng của cuộc suy thoái năm 2020. Trong năm 2020, kỳ vọng lạm
phát ngắn hạn (một năm tới) đã giảm 0,3 điểm % trên toàn cầu từ tháng 3 đến tháng
5, trước khi ổn định trở lại ở mức 2,0% cho phần còn lại của năm 2020. Chúng chỉ
tăng thêm 0,2 % vào tháng 3/2021 khi quá trình phục hồi rõ ràng đã diễn ra nhanh
hơn dự kiến và các biện pháp hỗ trợ chính sách mới đã được phê duyệt.
Sự phục hồi từ khủng hoảng tài chính toàn cầu
Kinh tế thế giới năm 2021 khép lại với xu hướng phục hồi kể từ khi chịu tác
động nghiêm trọng và nặng nề của đại dịch Covid-19. Tuy vậy, đà phục hồi có sự
phân hóa rõ ràng giữa các nền kinh tế. Sau khi tăng trưởng GDP sụt giảm mạnh 3,1%
trong năm 2020 do tác động của đại dịch Covid-19, đà phục hồi của kinh tế toàn cầu
diễn ra khá nhanh ngay sau đó khiến chu kỳ suy thoái kinh tế có dấu hiệu được rút
ngắn hơn so với các khủng hoảng trước đây. Ngay từ quý III/2020, kinh tế thế giới
đã bước đầu dần phục hồi. Bước sang năm 2021, đà phục hồi tiếp tục được củng cố
và dẫn dắt trong 6 tháng đầu năm bởi các nền kinh tế phát triển. Tốc độ tăng trưởng lOMoAR cPSD| 45474828
kinh tế theo quý của Mỹ, châu Âu, Trung Quốc đều cho thấy mức độ tăng trưởng cao
trong quý II/2021, trong đó Trung Quốc là quốc gia phục hồi nhanh nhất so với các
nước khác do kinh nghiệm kiểm soát dịch bệnh (Đồ thị 1). Trái lại, các nền kinh tế
mới nổi có mức độ phục hồi chậm hơn do chịu sự tác động của biến thể Delta cũng
như việc tiếp cận các nguồn vắc-xin còn hạn chế.
Đồ thị 1: Tốc độ tăng trưởng GDP một số nước lớn (%y/y)
Nguồn: Tradingeconomics.com
Ảnh hưởng của các cuộc chiến thương mại.
Chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ (còn được gọi tắt là Cuộc
chiến thương mại Trung - Mỹ) khởi đầu vào ngày 22/3/2018 khi Tổng thống Mỹ
Donald Trump tuyên bố đánh thuế 50 tỷ USD đối với hàng hóa Trung Quốc xuất
khẩu vào Mỹ, để ngăn chặn những gì họ cho là hành vi thương mại không công bằng
và hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ. Các mức thuế áp lên Trung Quốc, vốn được mệnh
danh là công xưởng toàn cầu, sẽ ảnh hưởng đến nhiều công ty vốn dựa vào chuỗi
cung ứng toàn cầu và nhiều khả năng sẽ gây tổn thương cho các công ty Mỹ nhiều
hơn là các công ty Trung Quốc mà chính quyền ông Trump đang nhắm vào. Cuộc
chiến thương mại của ông Trump sẽ gia tăng chi phí cho các ngành công nghiệp Mỹ,
nhiều khả năng đe dọa các công việc trong lĩnh vực sản xuất mà ông Trump từ lâu
nói rằng ông muốn bảo vệ. Và những chi phí cao thêm này cuối cùng cũng đổ dồn 5 lOMoAR cPSD| 45474828
lên vai của người tiêu dùng Mỹ. Không chỉ có ảnh hưởng lên hai nền kinh tế hàng
đầu thế giới, hàng loạt quốc gia châu Á khác cũng sẽ chịu tác động từ các động thái
này. Báo cáo phân tích của DBS cho thấy Hàn Quốc, Malaysia, Đài Loan và
Singapore sẽ là các nền kinh tế gặp rủi ro cao nhất tại châu Á vì chiến tranh thương
mại Mỹ - Trung. Do các nước này có độ mở thương mại cao và tham gia nhiều vào
chuỗi cung ứng. Tăng trưởng GDP của Hàn Quốc có thể mất 0,4% năm nay. Con số
này của Malaysia và Đài Loan đều được dự báo là 0,6%. Còn Singapore là 0,8%. Tác
động này có thể lên gấp đôi năm 2019.
Sự gia tăng của các nền kinh tế mới nổi
Nhóm các nền kinh tế mới nổi (BRICS) có vai trò quan trọng trong việc giải
quyết các thách thức toàn cầu, như ứng phó với đại dịch COVID-19 và phục hồi nền
kinh tế thế giới. Năm 2021, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của khối BRICS đạt hơn
23,5 nghìn tỷ USD, cao hơn GDP của Mỹ (22,68 nghìn tỷ USD). Trong đó, Trung
Quốc có GDP lớn nhất trong khối BRICS, đạt 16,86 nghìn tỷ USD và bốn quốc gia
còn lại (Nga, Ấn Độ…) đều dưới 3 nghìn tỷ USD.
Cụ thể là: đối với Nga, năm 2021, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này đạt
4,6% nhờ có sự huy động và chuẩn bị tốt trước cú sốc kinh tế do tác động của đại
dịch COVID-19. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5%. Dòng vốn đầu tư nước ngoài
tăng khoảng 11 tỷ USD (tháng 6-2021). Tỷ lệ thất nghiệp thấp (ở mức 4,3%) và lạm
phát ở mức 8%. Là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới, GDP
của Ấn Độ tăng 8,4% (quý II-2021). Hoạt động dịch vụ hành chính công và quốc
phòng tăng trưởng mạnh nhất ở mức 17,4%. Chi tiêu chính phủ tăng 8,7% so với
cùng kỳ năm 2020. Lãi suất thấp đã thúc đẩy tiêu dùng tăng cao. Trong quý IV-2021,
tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt 4,0%; sụt giảm so với quý I, II và III
năm 2021 lần lượt là 18,3%, 7,9% và 4,9%. Sự giảm tốc này là do tác động của một
số yếu tố, như Thị trường bất động sản, khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng nhân
khẩu học. Sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc đang gây thêm rủi ro cho kinh tế toàn cầu. lOMoAR cPSD| 45474828
Biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu là một trong các thách thức lớn nhất hiện nay, đe dọa an ninh
khu vực, toàn cầu và làm suy giảm những thành quả phát triển quan trọng của con
người ở hiện tại và tương lai. Theo Báo cáo, 10 sự kiện thời tiết khắc nghiệt ảnh
hưởng bởi biến đổi khí hậu năm 2021 là: Bão tuyết ở Texas; Lũ lụt Australia; Băng
giá tại Pháp; Bão xoáy Tauktae; Bão xoáy Yaas; Lũ lụt châu u; Lũ lụt Hà Nam; Bão
nhiệt đới Infa; Bão Ida; Lũ lụt bang British Columbia. Mười trong số các sự kiện đó
gây thiệt hại 1,5 tỷ USD trở lên. Hầu hết, các ước tính này chỉ dựa trên tổn thất được
bảo hiểm, có nghĩa là thiệt hại tài chính thực sự có thể còn cao hơn. Trong số đó có
cơn bão Ida đổ bộ vào Mỹ hồi tháng 8, gây thiệt hại 65 tỷ USD và khiến 95 người
thiệt mạng. Lũ lụt xảy ra vào tháng 7 ở châu u gây thiệt hại 43 tỷ USD và làm 240
người thiệt mạng, trong khi lũ lụt ở tỉnh Hà Nam của Trung Quốc gây thiệt hại 17,5
tỷ USD, làm 320 người thiệt mạng và khiến hơn một triệu người phải di dời.Có thể
nói, những cái giá phải trả của biến đổi khí hậu trong năm 2021 là rất lớn, cả thiệt
hại tài chính lẫn thiệt hại về nhân mạng và sự di dời của người dân trên khắp thế giới.
Cách mạng công nghiệp 4.0
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi nền tảng, thúc đẩy các
nền kinh tế truyền thống chuyển đổi sang kinh tế tri thức và đổi mới sáng tạo. Bên
cạnh đó, đổi mới công nghệ cũng làm gia tăng các yếu tố sản xuất - kinh doanh, kéo
theo tăng thu nhập và dẫn đến sự gia tăng tiêu dùng dân cư, tăng đầu tư cho cả nền
kinh tế và tăng năng suất lao động. Cùng với đó, nhờ ứng dụng công nghệ, chi phí
giao thông vận tải và thông tin liên lạc sẽ giảm xuống, chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ
trở nên hiệu quả hơn, các chi phí thương mại được giảm bớt. Tất cả những yếu tố
trên góp phần mở rộng thị trường, thúc đẩy hoạt động thương mại và đầu tư toàn cầu.
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng làm gia tăng khoảng cách
phát triển giữa các quốc gia và định hình lại bản đồ kinh tế thế giới. Trong đó, các
nền kinh tế phát triển dựa trên nền tảng công nghệ sẽ chiếm ưu thế, trong khi các nền 7 lOMoAR cPSD| 45474828
kinh tế “thâm dụng” tài nguyên khoáng sản hay “thâm dụng” lao động thì dần trở nên mất lợi thế.
2. Tình hình trong nước
2.1. Tình hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2011-2021
Nhìn chung GDP trong giai đoạn 2011-2021 tăng dần theo thời gian. Năm
2011, tổng sản phẩm trong nước đạt 2,5 triệu tỷ đồng nhưng đến năm 2021, con số
này đã tăng gấp 3 lần. Tuy có sự xuất hiện của dịch Covid-19 từ năm 2020 nhưng
nhờ các chính sách phòng chống dịch tốt kinh tế Việt Nam có vẫn có dấu hiệu tăng
trưởng dương. GDP năm 2021 tăng 2,58% so với năm 2020 và đạt gần 8,4 triệu tỷ đồng.
Năm 2012, vốn đăng ký cấp mới vào Việt Nam sụt giảm đáng kể nhưng giai
đoạn từ 2013 – 2019 là giai đoạn phục hồi của dòng vốn FDI. Năm 2020, do tác động
của Covid-19, nền kinh tế thế giới chịu nhiều thiệt hại nặng nề khiến các dòng vốn
đầu tư ra nước ngoài giảm mạnh. Cụ thể, vốn FDI vào Việt Nam năm 2020 giảm
6,7% so với năm 2019. Tuy diễn biến tình hình dịch bệnh vẫn diễn ra khá phức tạp
vào năm 2021, tín hiệu đầu tư nước ngoài Việt Nam lại khả quan hơn do các chính
sách hỗ trợ từ phía Chính phủ. Năm 2021, vốn FDI vượt mốc 31 tỷ USD.
Có thể thấy trong giai đoạn 10 năm kể từ 2011, tình hình kim ngạch xuất nhập
khẩu Việt Nam tăng dần qua các năm. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2021
gấp 3 lần so với 10 năm trước, đạt 668,54 tỷ USD. Con số này cũng tăng 22,6% so
với năm 2020. Nhờ con số này mà Việt Nam cũng lọt vào danh sách 20 nền kinh tế
có quy mô thương mại lớn nhất thế giới. Từ 2012 đến nay, cán cân thương mại xuất
nhập khẩu hàng hóa liên tục thặng dư, với mức xuất siêu năm sau cao hơn năm trước.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế tư nhân Việt Nam.
Chính sách đối với kinh tế tư nhân
Sự tác động của chính sách kinh tế đối với kinh tế tư nhân diễn ra trên nhiều
khía cạnh, phương diện, như địa vị pháp lý, phạm vi hoạt động, sự bình đẳng và cơ
hội phát triển…Về mặt pháp lý, pháp luật Việt Nam không có bất cứ sự phân biệt lOMoAR cPSD| 45474828
nào về cạnh tranh và cơ hội kinh doanh, phát triển giữa các thành phần kinh tế. Tuy
nhiên, trên thực tế, kinh tế tư nhân vẫn gặp nhiều khó khăn trong các vấn đề như: thủ
tục thành lập, hoạt động kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ về tài chính… Điều 51 Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo”. Quy định này ít nhiều hàm chứa những lợi thế của kinh tế
nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận cấu thành của kinh tế nhà nước và
thành phần kinh tế này nhận được nhiều sự quan tâm, hỗ trợ từ phía Nhà nước hơn
những thành phần kinh tế khác.
Cải cách hành chính, thể chế kinh tế
Trong cải cách nền hành chính, cải cách thể chế là nhiệm vụ cần tiến hành đầu
tiên. Thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011
- 2020, tình hình cải cách về thể chế kinh tế ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Tuy
nhiên, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Thể chế kinh tế thị trường chưa thật
đồng bộ, thông suốt; chưa thực sự là động lực tạo ra đột phá”. Thực tế cho thấy,
những cải cách về thể chế chưa thực sự tạo ra động lực cho khu vực kinh tế tư nhân
phát triển. Nhiều quy định pháp luật còn là trở ngại đối với hoạt động kinh tế của tư
nhân. Những ngành nghề bị cấm kinh doanh, hoặc kinh doanh có điều kiện vẫn còn
tồn tại. Nhiều điều kiện đầu tư kinh doanh được quy định không đúng thẩm quyền,
cá biệt, có trường hợp vượt quá thẩm quyền. Mức độ hài lòng của người dân và doanh
nghiệp trong giao dịch hành chính còn thấp. Chất lượng đội ngũ công chức, nguồn
nhân lực và môi trường kinh doanh
Xét trên nhiều phương diện, đội ngũ công chức chính là lực lượng giữ vai trò
quyết định kết quả thực hiện chủ trương, chính sách phát triển kinh tế tư nhân. Trong
quá trình này, nền kinh tế cần một đội ngũ công chức có đủ năng lực, phẩm chất,
trình độ, kỹ năng và đạo đức công vụ. Tuy nhiên, xuất phát từ hạn chế về trình độ và
nhận thức, nhiều công chức chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra và không ý
thức được trách nhiệm đối với Nhà nước và xã hội. Khi công chức trong bộ máy công 9 lOMoAR cPSD| 45474828
quyền không có đủ kiến thức về kinh tế, kỹ năng thực thi công vụ, thì hoạt động kinh
tế của khu vực tư nhân còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
So với nhiều quốc gia trong khu vực, lực lượng lao động của Việt Nam còn
hạn chế về trình độ, kỹ năng và năng suất lao động còn thấp. Trình độ quản trị trong
khu vực kinh tế tư nhân hiện cũng đang là một vấn đề. Kinh doanh là một nghề khó,
chứa đựng nhiều rủi ro. Vì vậy, những người quản lý, điều hành khu vực kinh tế tư
nhân cần có kiến thức về kinh tế, kỹ năng và trình độ quản trị phù hợp.
Phát triển kinh tế tư nhân cần có một môi trường phù hợp, mang tính điều kiện.
Nếu thiếu sự bình đẳng về pháp lý, sự tự do cạnh tranh lành mạnh, kinh tế tư nhân sẽ không thể phát triển.
2.3. Các thách thức và cơ hội Thách thức
Cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Sự gia tăng cạnh tranh từ các nước trong
khu vực và trên thế giới đòi hỏi Việt Nam phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng
nặng nề của biến đổi khí hậu, gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế và xã hội. Mặc dù có
sự tăng trưởng kinh tế, nhưng bất bình đẳng thu nhập vẫn là một vấn đề đáng quan
tâm, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Dù đã có nhiều cải thiện, nhưng cơ sở
hạ tầng của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và
miền núi. Năng lực đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, chưa
đáp ứng được yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Cơ hội
Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, tạo ra nhiều cơ hội
mới để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Với dân
số trẻ và tầng lớp trung lưu ngày càng lớn, thị trường nội địa Việt Nam mang lại
nhiều tiềm năng cho các doanh nghiệp. Việt Nam có lực lượng lao động trẻ, năng
động và có trình độ ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu của các ngành công nghiệp hiện
đại. Sự phát triển của công nghệ số mang lại nhiều cơ hội mới cho Việt Nam, như lOMoAR cPSD| 45474828
thương mại điện tử, dịch vụ trực tuyến, và sản xuất thông minh. Nhà nước Việt Nam
đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi.
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN GIAI
ĐOẠN 2011-2016
1. Các quan điểm của đảng về phát triển kinh tế tư nhân
Định hướng và mục tiêu chính của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (2011) đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong việc xác định vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân.
Đại hội đã có những định hướng và mục tiêu rất rõ ràng nhằm thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ của thành phần kinh tế này.
Trước hết về định hướng, nền kinh tế tư nhân được xác định là một trong những
động lực quan trọng của nền kinh tế, góp phần đáng kể vào tăng trưởng GDP, tạo
việc làm và nâng cao đời sống nhân dân. Do vậy, Đại hội nhấn mạnh cần phải nâng
cao vị thế của nền kinh tế tư nhân. Không những vậy, nền kinh tế tư nhân được
khuyến khích tham gia vào hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, không còn
bị hạn chế như trước đây. Đồng thời, Đảng định hướng tạo ra môi trường kinh doanh
thuận lợi, minh bạch và công bằng thông qua việc hoàn thiện thể chế, chính sách.
Trong đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ được coi là một lực lượng quan trọng của nền
kinh tế và được ưu tiên hỗ trợ phát triển.
Về mục tiêu cụ thể, Đại hội XI khẳng định mục tiêu xây dựng một nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, trong đó kinh tế tư nhân đóng vai
trò quan trọng. Thông qua việc phát triển nền kinh tế tư nhân, VN hướng tới mục tiêu
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trên trường quốc tế. Đồng thời, nền
kinh tế tư nhân được kì vọng sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, góp phần giải quyết vấn
đề việc làm cho xã hội. Nhờ vậy, góp phần tăng thu nhập cho nhân dân, đời sống
nhân dân được cải thiện, nâng cao. 11 lOMoAR cPSD| 45474828
Có thể thấy, Các quyết định của Đại hội XI đã gửi đi một tín hiệu rất tích cực
đến cộng đồng doanh nghiệp, khẳng định sự ủng hộ của Đảng đối với sự phát triển
của kinh tế tư nhân. Môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ khuyến khích doanh nghiệp
tư nhân đổi mới, sáng tạo, tìm kiếm những cơ hội kinh doanh mới và sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các thành phần kinh tế sẽ thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả các nguồn
lực. Tóm lại, Đại hội XI đã đặt ra những định hướng rất rõ ràng và đầy tham vọng
đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam. Những định hướng này đã tạo
ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của thành phần kinh tế này và góp phần
quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2016) tiếp tục khẳng định và
làm rõ hơn nữa vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân trong sự phát triển của đất
nước. So với Đại hội XI, Đại hội XII đã đưa ra những định hướng cụ thể hơn, tạo
điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tư nhân phát triển.
Bên cạnh các định hướng đã được nêu ra trong Đại hội XI của Đảng Cộng sản
VN (2011) như nền kinh tế tư nhân vẫn được xác định là động lực quan trọng của
nền kinh tế, đồng thời được khuyến khích tham gia vào hầu hết các ngành, lĩnh vực
cũng như được tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
tư nhân cạnh tranh lành mạnh thì ở Đại hội XII, Đảng đã có một vài thay đổi về định
hướng. Trước hết, doanh nghiệp vừa và nhỏ không còn được xác định là một lực
lượng quan trọng mà được coi là lực lượng nòng cốt của nền kinh tế và được ưu tiên
hỗ trợ phát triển. Không những thế, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn được tạo điều kiện
liên kết, hợp tác, hình thành các cụm công nghiệp và được ưu tiên hỗ trợ về vốn,
công nghệ, thị trường. Không chỉ có vậy, Đại hội XII lần đầu tiên còn đề cập đến
việc khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh để không ngừng
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam.
Về mục tiêu cụ thể được nêu ra trong đại hội XII, hầu hết đều được khẳng định
lại từ các mục tiêu của Đại hội trước đó. Tuy nhiên, Đại hội XII nhấn mạnh mục tiêu
thông qua việc phát triển kinh tế tư nhân, Việt Nam hướng đến trở thành một quốc lOMoAR cPSD| 45474828
gia có nền kinh tế năng động, sáng tạo, vừa góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống
cho nhân dân, vừa nâng cao năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế.
Tóm lại, Đại hội XII đã xác định rõ vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân và
đưa ra những định hướng cụ thể để thúc đẩy sự phát triển của thành phần kinh tế này.
Những chính sách này đã tạo ra một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của doanh
nghiệp tư nhân và góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Các chủ trương, chính sách cụ thể và các nghị quyết liên quan.
Tại Đại hội XI, Đảng ta xác định phải: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát
triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế”.
Đặc biệt tại Đại hội XII, Đảng đã khẳng định: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực
quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật”. Việc Đảng ta xác nhận “kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng” trong phát triển đất nước (Đại hội X mới ghi nhận: “Kinh tế tư
nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”), không chỉ
xác nhận vai trò mới của kinh tế tư nhân mà còn mở ra những cơ hội mới để thành
phần kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn. Với chủ trương của Đảng không phân
biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế
bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, xóa bỏ hẳn cơ chế bao cấp, chuyển
sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII của Đảng
chính là Đại hội có nhiều nhận thức mới đối với các thành phần kinh tế, đó là khẳng
định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vai trò động lực quan trọng của nền kinh
tế đối với kinh tế tư nhân; quan điểm lựa chọn tiếp nhận kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài; và quan tâm hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp…
Tại Đại hội XII cũng lần đầu tiên Đảng ta khẳng định chủ trương: “Khuyến
khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các 13 lOMoAR cPSD| 45474828
tập đoàn kinh tế nhà nước”. Điều này cho thấy, Đảng ta đã nhận thấy rõ trong phát
triển kinh tế, sự phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân là một xu thế tất yếu, là
một kênh quan trọng giúp Nhà nước thực thi nhiệm vụ kinh tế đã đề ra.
2. Quá trình tổ chức và chỉ đạo thực hiện
Các hoạt động của cơ quan, doanh nghiệp
Khu vực kinh tế tư nhân là nhân tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam trong những năm gần đây.
Số lượng doanh nghiệp đăng ký gia tăng mạnh mẽ, phản ánh cả quá trình chính
thức hoá hộ kinh doanh cũng như sự thành lập các doanh nghiệp mới. Các doanh
nghiệp tư nhân đầu tiên được thành lập vào năm 1991 sau khi Luật Doanh nghiệp Tư
nhân và Luật Công ty được ban hành vào năm 1990. Nhưng vào thời điểm đó, việc
thành lập một công ty tư nhân vẫn còn rất phức tạp và tốn kém. Vì vậy, trong vòng 9
năm kể từ khi luật được ban hành cho đến năm 1999, chỉ có 14.500 doanh nghiệp tư
nhân được thành lập. Luật Doanh nghiệp được thông qua vào năm 2000 đã tạo ra sự
tăng trưởng đột phá về số lượng cũng như quy mô của các doanh nghiệp tư nhân.
Những hạn chế và điều kiện về gia nhập thị trường đã được nới lỏng và giảm thiểu.
Kể từ đó tới nay, số lượng các doanh nghiệp đăng ký liên tục tăng với tốc độ đáng
kinh ngạc. Riêng trong năm 2016, 110.000 doanh nghiệp đã được đăng ký.
Khu vực tư nhân trong nước chiếm 38,6% GDP năm 2016 (trong tỷ lệ này,
doanh nghiệp đăng ký chính thức chiếm 8,2%, khu vực hộ kinh doanh chiếm
30,43%). Khu vực tư nhân nước ngoài (FDI) đóng góp 18,95% vào GDP. Khu vực
tư nhân đóng góp chính cho tạo việc làm, giảm nghèo, cải thiện điều kiện sống, tăng
trưởng bền vững và toàn diện ở Việt Nam. Nếu không tính khu vực hộ kinh doanh,
các doanh nghiệp tư nhân trong nước và các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài tạo
ra 3,35 triệu việc làm mới trong giai đoạn 2010-2015, tức là trung bình 557.000 việc
làm mới mỗi năm. Các doanh nghiệp tư nhân đã vượt qua khu vực DNNN về phương
diện tạo thu nhập cho người lao động và khoảng cách này ngày một nới rộng hơn.
Việc làm do các doanh nghiệp khu vực tư nhân tạo ra đã giúp hàng triệu người lao lOMoAR cPSD| 45474828
động dịch chuyển từ các công việc có thu nhập thấp hơn trong lĩnh vực nông nghiệp
sang làm việc ở những ngành có năng suất cao hơn với mức lương cao hơn.
Các doanh nghiệp tư nhân đóng góp đáng kể vào sự mở rộng của phạm vi che
phủ của các chương trình an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội. Các doanh nghiệp đóng
góp khoảng 39 tỷ USD vào Ngân sách Nhà nước vào năm 2016, chiếm 79,8% tổng
thu ngân sách. Tỷ trọng đóng góp của các doanh nghiệp tư nhân trong nước trong
tổng thu Ngân sách Nhà nước đã tăng từ 11,9% năm 2010 lên 14,3% năm 2016, tức
là từ khoảng 3 tỷ USD đến 7 tỷ USD mỗi năm tính theo giá trị tuyệt đối.
Phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần đáng kể vào việc trao quyền
kinh tế cho phụ nữ, đặc biệt là thông qua cơ hội việc làm và nguồn thu nhập. Trong
năm 2015, phụ nữ chiếm 46% số việc làm trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp chính
thức. Một số nghiên cứu đánh giá rằng 25% doanh nghiệp ở Việt Nam là do phụ nữ
làm chủ hoặc được lãnh đạo bởi phụ nữ, cao hơn so với mức trung bình ở Nam Á là
8%. Khoảng 5% trong số các tổng giám đốc, giám đốc điều hành của các công ty
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam là phụ nữ. Xu thế lãnh đạo là phụ nữ
trong khu vực kinh tế tư nhân đã thúc đẩy sự hình thành và hoạt động của các hiệp
hội doanh nghiệp, doanh nhân nữ. Các biện pháp hỗ trợ và khuyến khích của Nhà Nước
Kể từ năm 1999, khuôn khổ pháp lý cho khu vực tư nhân ở Việt Nam đã liên
tục được cải thiện. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư được sửa đổi vào năm 2004
thông qua thống nhất các luật khác nhau áp dụng chung cho các nhà đầu tư và doanh
nghiệp trong nước, DNNN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp
FDI). Ý tưởng về một khuôn khổ pháp lý chung áp dụng cho tất cả các nhà đầu tư,
không phân biệt hình thức sở hữu, đã trở thành hiện thực vào năm 2005. Đây là một
phần trong quá trình chuẩn bị của Việt Nam cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) vào năm 2007. Năm 2014, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư được
tiếp tục sửa đổi với với một số nội dung cải cách mới. 15 lOMoAR cPSD| 45474828
Bên cạnh sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong
nước, Việt Nam ngày càng trở nên dễ tiếp cận hơn đối với các khoản đầu tư nước
ngoài. Sau khi gia nhập WTO, Hiệp định Thương mại Song phương Việt-Mỹ được
ký kết, Việt Nam cũng đã ký Hiệp định Thương mại Tự do với Liên minh Châu u
(EVFTA) vào năm 2016. Việt Nam tiếp tục đa dạng hóa các đối tác kinh tế thông qua
nhiều phương thức như tăng cường hội nhập ASEAN, Hiệp định Đối tác Kinh tế
Toàn diện Khu vực (RCEP) nhằm bao quát một thị trường bao gồm 3,4 tỷ người.
Dòng vốn FDI vào Việt Nam đã và đang phát triển ổn định và mạnh mẽ. Tổng vốn
FDI vào Việt Nam đạt 24,4 USD trong năm 2016. Nhờ vậy, số vốn đầu tư của các
đầu tư tư nhân nước ngoài tăng mạnh mẽ trong giai đoạn 2010-2015. Bên cạnh đó,
phần lớn các nhà đầu tư gần đây đã tận dụng những ưu đãi về tiền thuê đất đất, nguồn
lao động giá rẻ và các ưu đãi hào phóng của Chính phủ để thực hiện các hoạt động
sản xuất chế biến sử dụng nguyên liệu nhập khẩu để xuất khẩu và phục vụ thị trường
trong nước. Do vậy, dịch vụ và sản xuất là những khu vực hấp dẫn nhất đối với nguồn vốn FDI vào Việt Nam.
Đồ thị 2: Tốc độ tăng trưởng của số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017. lOMoAR cPSD| 45474828
3. Kết quả và ý nghĩa 3.1. Thành tựu
Sự gia tăng số lượng doanh nghiệp tư nhân đã dẫn đến sự tăng trưởng mạnh
mẽ về tổng vốn của các doanh nghiệp tư nhân. Đóng góp của khu vực doanh nghiệp
tư nhân trong nước vào tổng vốn của khu vực doanh nghiệp tăng từ 9,25% năm 2000
lên 49,77% năm 2015. Nếu tính cả khu vực tư nhân nước ngoài là các doanh nghiệp
FDI, con số này sẽ lần lượt là 32,9% vào năm 2000 và 68,6% vào năm 2015. Tổng
vốn của các doanh nghiệp tư nhân trong nước tăng từ 98,3 nghìn tỷ đồng năm 2000
lên 11.020,9 nghìn tỷ năm 2015. Nói cách khác, khoảng 546 tỷ đô la đã được các
doanh nghiệp Việt Nam huy động và đưa vào nền kinh tế chỉ trong vòng 15 năm,
trung bình 36,4 tỷ USD mỗi năm. Con số này vượt xa số vốn FDI hàng năm đăng ký
và thực hiện và nguồn vốn ODA được giải ngân tại Việt Nam trong cùng giai đoạn.
Các doanh nghiệp tư nhân đã và đang đóng góp lớn cho những nỗ lực chung của việc
huy động vốn và nguồn lực đang được người dân tích trữ, bao gồm cả dưới hình thức
vàng và ngoại tệ, vào các mục đích sử dụng hiệu quả hơn và cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh. Mặc dù xét về giá trị tuyệt đối, tổng vốn của DNNN vẫn tăng song tỷ
trọng tổng vốn của các DNNN trong tổng số vốn của khu vực doanh nghiệp đã giảm
từ 67,1% xuống còn 31,4% vào năm 2015. Điều này chủ yếu là nhờ sự tăng trưởng
ấn tượng về tỷ trọng của khu vực tư nhân.
Khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp lớn vào việc hình thành tài sản cố định
và đầu tư dài hạn của khu vực doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói
chung. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn là những chỉ số quan trọng để đánh giá bao
nhiêu đơn vị giá trị gia tăng mới trong nền kinh tế sẽ được dùng để đầu tư thay hơn
là tiêu dùng. Những chỉ số này cũng được dùng để theo dõi giá trị mua sắm tài sản
cố định mới hoặc hiện có và giá trị của các khoản đầu tư dài hạn trong khu vực doanh
nghiệp. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn của các doanh nghiệp tư nhân trong nước
tăng tới 114 lần trong giai đoạn 2000 – 2015 - một tốc độ tăng trưởng nhanh hơn rất
nhiều so với khu vực DNNN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ trọng 17 lOMoAR cPSD| 45474828
nắm giữ bởi khu vực tư nhân trong nước đối với tổng tài sản cố định và đầu tư dài
hạn của khu vực doanh nghiệp tăng mạnh từ 8,24% năm 2000 lên 36,9% vào năm 2015.
Khu vực kinh tế tư nhân là nhân tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam. Trong những năm gần đây, tốc độ được duy trì ở mức tăng dần, và
xoay quanh con số 7%. Quy mô của nền kinh tế đã tăng gấp ba trong vòng ba thập
kỷ, giúp Việt Nam chuyển mình từ một trong những nước nghèo nhất châu Á trở
thành một nền kinh tế có thu nhập trung bình vào năm 2010. Tỷ lệ nghèo đói giảm
nhanh từ trên 50% vào đầu những năm 1990 xuống còn 8,4% vào năm 2016 (IMF
2004, ADB 2016). Trong năm 2016, khu vực kinh tế tư nhân đã trở thành nhân tố
quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Khu vực tư nhân trong nước
chiếm 38,6% GDP năm 2016 (trong tỷ lệ này, doanh nghiệp đăng ký chính thức
chiếm 8,2%, khu vực hộ kinh doanh chiếm 30,43%). Khu vực tư nhân nước ngoài
(FDI) đóng góp 18,95% GDP. Vì vậy, khu vực tư nhân đang dần khẳng định vị thế là
động lực chính cho những kết quả tăng trưởng kinh tế đáng khích lệ của của Việt Nam.
Khu vực tư nhân đóng góp chính cho tạo việc làm, giảm nghèo, cải thiện điều
kiện sống, tăng trưởng bền vững và toàn diện ở Việt Nam. Việt Nam đã gặt hái được
nhiều thành công trong công tác xóa đói giảm nghèo với hàng triệu người thoát nghèo
trong vòng một, hai thập kỷ. Chính vì vậy, tỷ lệ đói nghèo được giảm xuống còn xấp
xỉ 7%, tỷ lệ thất nghiệp được duy trì ở mức thấp là 2,28% vào năm 2017 (MOLISA
và GSO, 2017). Điều này là một phần là nhờ hàng triệu việc làm đã được tạo ra bởi
khu vực kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân trong nước đã tạo
ra 5,98 triệu việc làm trong năm 2010, và con số này đã tăng lên tới 7,7 triệu người
vào năm 2015. Với một xu thế tương tự, số việc làm được tạo ra bởi các doanh nghiệp
FDI tăng từ 2,1 triệu vào năm 2010 lên đến 3,77 triệu vào năm 2015. Việc làm tạo ra
bởi các hộ kinh doanh cũng tăng từ 7,4 triệu lên 7,89 triệu vào năm 2015. Tổng cộng,
19,47 triệu người lao động đang làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân trong năm lOMoAR cPSD| 45474828
2015. Qua số liệu thống kê trên lại càng chứng tỏ vai trò quan trọng, không thể thiếu
của KTTN, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Việc làm do các doanh nghiệp khu vực tư nhân tạo ra đã giúp hàng triệu người
lao động dịch chuyển từ các công việc có lương thấp hơn trong lĩnh vực nông nghiệp
sang làm việc ở những ngành có năng suất cao hơn với mức lương cao hơn. Trung
bình trong năm 2015, một công nhân trong doanh nghiệp tư nhân trong nước có mức
thu nhập là 6,2 triệu đồng (276 đô la Mỹ) mỗi tháng và người lao động trong khu vực
doanh nghiệp FDI có thu nhập là 7,5 triệu đồng (333,4 đô la Mỹ). Điều thú vị là mức
thu nhập trung bình hàng tháng của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước có tốc
độ tăng trưởng cao hơn so với tốc độ tăng tại khu vực doanh nghiệp FDI và DNNN
trong những năm gần đây, nhờ đó góp phần thu hẹp khoảng cách về thu nhập trung
bình hàng tháng giữa các khu vực doanh nghiệp này. Quan trọng hơn, thu nhập trung
bình hàng tháng tại các doanh nghiệp tư nhân cao hơn nhiều so với thu nhập trung
bình của người nông dân - một công việc mà có thể các công nhân hiện đang làm
việc trong doanh nghiệp tư nhân đã phải làm nếu doanh nghiệp tư nhân không tạo ra
cơ hội việc làm đó. Trong năm 2015, một công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân
trong nước có thu nhập cao gấp 2,6 lần so với một nông dân bình thường. Tỷ lệ này
là 3,1 trong đối với trường hợp của những công nhân làm việc trong các doanh nghiệp
FDI. Trong giai đoạn 20102015, các doanh nghiệp tư nhân đã giúp tăng gấp ba lần
tổng thu nhập của 3,35 triệu lao động – những người có thể đã phải làm việc vất vả
trong các ngành có thu nhập thấp hơn hoặc chịu tình trạng thiếu việc làm hoặc thất
nghiệp nếu như các công việc này không được các doanh nghiệp tư nhân trong nước tạo ra. 3.2. Hạn chế
Năng lực hạn chế trong xây dựng kế hoạch kinh doanh, kỹ năng quản lý cũng
như các tiêu chuẩn quản trị công ty thấp hạn chế sự tăng trưởng của các doanh nghiệp
tư nhân trong nước. Nhiều chủ doanh nghiệp tư nhân còn lúng túng về các khái niệm,
vấn đề về quản trị công ty, quản trị doanh nghiệp, và quản lý hoạt động. Các phương 19