















Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297 lOMoAR cPSD| 44985297 MỤC LỤC Nội dung Trang
Phần A: LỜI MỞ ĐẦU 1 Phần B: NỘI DUNG 1
I. Quan điểm duy vật lịch sử về lực lượng sản xuất 1 1.
Định nghĩa và kết cấu của lực lượng sản xuất 1 2.
Mối quan hệ giữa người lao động & công cụ lao động 3 3.
Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất 4 a. Mối
quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 4 b. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật 4
II. Vai trò của LLSX trong đời sống xã hội 5 1.
Lực lượng sản xuất quyết định lượng và chất trong đời sống xã hội 5 2.
Lực lượng sản xuất là phương tiện tiến hành sản xuất vật chất cho xã hội 6 a.
Vai trò của yếu tố con người đối với sự phát triển xã hội 6
b. Vai trò của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ đối với xã hội Error! Bookmark not defined.
c. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuấtlàm cho xã hội
chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế xãhội cao hơn 8
III. Sự vận dụng quan điểm đó trong cuộc Duy tân Minh trị (Nhật Bản) 9 1. Bối cảnh xã hội 9
2. Các cải cách được thực thi 10
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 11 Phần C: TỔNG KẾT 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần A: LỜI MỞ ĐẦU
Trong quan niệm triết học Mác-Lênin, quá trình phát triển của loài người bị ảnh
hưởng bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong
sự phát triển đi lên của xã hội, lực lượng sản xuất, hay còn là một mặt của phương lOMoAR cPSD| 44985297
thức sản xuất, thể hiện năng lực thực tiễn cơ bản nhất - năng lực hoạt động sản xuất
vật chất của con người.
C.Mác đã từng viết rằng: “Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực
tiếp và chính mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất định của một dân tộc hay một
thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan
điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của con người
ta”. Hiểu được tầm quan trọng của lực lượng sản xuất trong đời sống, em lựa chọn đề
tài “Quan điểm duy vật lịch sử về lực lượng sản xuất, vai trò của lực lượng sản xuất
trong đời sống xã hội và sự vận dụng quan điểm đó trong cuộc Duy tân Minh trị tại
Nhật Bản” để có cái nhìn khách quan hơn trong lý thuyết và thực tiễn. Phần B: NỘI DUNG
I. Quan điểm duy vật lịch sử về lực lượng sản xuất
1. Định nghĩa và kết cấu của lực lượng sản xuất
Theo quan điểm của C.Mác, lực lượng sản xuất dùng để chỉ sự kết hợp của tư
liệu sản xuất và người lao động nhằm tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định và
năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo nhu cầu
nhất định của con người. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của hình
thái kinh tế xã hội, biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, phản ánh
khả năng con người chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình, sức
mạnh đó được khái quát thành lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất
biểu hiện cho trình độ chinh phục tự nhiên của con người, lực lượng sản xuất nói lên
năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã
hội, đảm bảo nhu cầu của con người.
Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất bao gồm: Người lao động và Tư liệu
sản xuất. Người lao động là chủ thể của quy trình lao động sản xuất, là người tạo ra 1 lOMoAR cPSD| 44985297
và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng người tiêu dùng lao động để tạo ra sản
phẩm, bao gồm ba yếu tố: thể lực, trí lực và kỹ năng lao động. Tư liệu sản xuất là
những tư liệu để triển khai sản xuất, bao gồm tư liệu lao động (là yếu tố vật chất sản
xuất mà con người dựa vào đó tác động lên đối tượng lao động) và đối tượng lao động
(là yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động của con người cùng với tư liệu lao động
tác động lên làm biến đổi hình dáng, tính chất vật lí,...). Đối tượng lao động là những
yếu tố nguyên nhiên vật tư có sẵn trong tự nhiên (gỗ, than, đá,...) hoặc tự tạo (polime,...).
Theo cách phân chia này, C.Mác cho rằng, khi xem xét quá trình lao động một
cách trừu tượng, không phụ thuộc vào các hình thức lịch sử của nó, như là một quá
trình giữa người và tự nhiên, thì “Nếu đứng về mặt kết quả của nó, tức là đứng về mặt
sản phẩm mà xét toàn bộ quá trình, thì cả tư liệu lao động lẫn đối tượng lao động đều
biểu hiện ra là tư liệu sản xuất, còn bản thân lao động thì biểu hiện ra là lao động sản
xuất…. Định nghĩa này về lao động sản xuất, xét trên quan điểm của một quá trình
lao động giản đơn”. Lực lượng sản xuất tồn tại một cách khách quan, con người không
được phép tự lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình: “Vì mọi lực lượng sản xuất là
lực lượng đã đạt được, tức là một sản phẩm của một hoạt động đã qua… không phải
do họ tạo ra, mà do thế hệ trước tạo ra… Mỗi thế hệ sau đã có sẵn những lực lượng
sản xuất do những thế hệ trước đây dựng lên và được thế hệ mới dùng làm nguyên
liệu cho sự sản xuất mới”. Do vậy, lực lượng sản xuất có tính kế thừa và phát triển.
Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình
cải biến giới tự nhiên. Khi tiến hành sản xuất vật chất, con người dùng những công
cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất, phục vụ những
nhu cầu thiết yếu của mình, Cũng trong quá trình đó, con người nắm bắt được những
quy luật của tự nhiên, biến giới tự nhiên từ chỗ hoang sơ, thuần phác trở thành “thế
giới thứ hai” với sự tham gia của bàn tay và khối óc con người. Sản xuất vật chất luôn 2 lOMoAR cPSD| 44985297
thay đổi nên lực lượng sản xuất là một yếu tố động và là một quá trình luôn được đổi
mới, phát triển không ngừng.
Lực lượng sản xuất tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của loài
người. Nó cũng là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội trong mỗi giai đoạn
lịch sử nhất định. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác khẳng định rằng: “Lịch
sử chẳng qua chỉ là sự tiếp nối của những thế hệ riêng rẽ, trong đó mỗi thế hệ đều
khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những thế
hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục cái hoạt động được truyền lại, trong
những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh
cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi.”.
2. Mối quan hệ giữa người lao động và công cụ lao động
Có thể coi người lao động là nhân tố hàng đầu, giữ vai trò quyết định vì chủ thể
sáng tạo và sử dụng công cụ lao động, là nguồn gốc của mọi sáng tạo trong sản xuất
vật chất. Theo C.Mác, nếu không có con người biết chế tạo, sử dụng công cụ lao động,
tác động vào giới tự nhiên thì sẽ không có quá trình sản xuất vật chất. Ngay khoa học
- kỹ thuật là yếu tố cốt lõi của sản xuất, nhưng tự bản thân khoa học không thể gây ra
bất kì sự tác động tích cực hay tiêu kịch nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự
vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng. Còn
công cụ lao động là yếu tố cơ bản, không thể thiếu và trình độ phát triển của công cụ
lao động là một nhân tố quyết định năng suất lao động xã hội. Vậy nên lực lượng sản
xuất là kết quả năng lực thực tiễn của con người, nhưng năng lực thực tiễn bị quy
định bởi những điều kiện khách quan mà trong đó con người sống và hoạt động.
Tuy nhiên, để xác định trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, ta cần căn cứ
vào trình độ phát triển của công cụ sản xuất, chứ không căn cứ vào trình độ phát triển
của người lao động. Bởi vì, năng lực của người lao động nằm ở trong đầu óc của họ;
không thể đo lường được trực tiếp trình độ phát triển của người lao động bằng những 3 lOMoAR cPSD| 44985297
dụng cụ nào đó, mà chỉ có thể xác định được trình độ phát triển của người lao động
thông qua công cụ sản xuất mà họ chế tạo và thông qua việc họ sử dụng công cụ sản
xuất. Vì thế có thể căn cứ vào trình độ phát triển của công cụ sản xuất để xác định
trình độ phát triển của người lao động, qua đó xác định được trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và xa hơn xác định trình độ phát triển của xã hội về kinh tế, chính
trị và văn hóa - xã hội.
3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất
a) Mối quan hệ biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là khái niệm dùng để chỉ quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất và trao đổi vật chất, thể hiện tập trung ở quan hệ về sở hữu
đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ trao đổi hoạt
động cho nhau và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là quan hệ mâu thuẫn biện chứng, tức là mối quan
hệ thống nhất của hai mặt đối lập; là một trong những nguyên lý cơ bản, cốt lõi của
chủ nghĩa duy vật lịch sử, là quan hệ cơ bản của toàn xã hội, quyết định sự vận động
phát triển của lịch sử loài người. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, ngược lại, nếu không
phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt
cơ bản, tất yếu; lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất; quan
hệ sản xuất là hình thức kinh tế của quá trình đó. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, thống nhất với nhau. Khi quan hệ sản xuất
phù hợp với lực lượng sản xuất thì nền sản xuất phát triển đúng hướng, quy mô sản
xuất được mở rộng, những thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng nhanh chóng,
người lao động nhiệt tình, hăng hái sản xuất, lợi ích của người lao động được đảm
bảo và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. 4 lOMoAR cPSD| 44985297
b) Sự phát triển của khoa học kỹ thuật
Không chỉ nhắc tới hai yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, C.Mác cũng
coi trọng vai trò quan trọng của khoa học kỹ thuật đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất. Ông từng đưa ra phán đoán rằng: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số
cho thấy tri thức xã hội phổ biến (wissen knowledge) đã chuyển hóa đến mức độ nào
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện
của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến một mức độ nào sự kiểm soát
của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy;...”.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chúng
ta đang sống trong những điều kiện có nhiều cái mới, khác xa so với thời kỳ của
C.Mác. Những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra những
bước phát triển nhảy vọt trong lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống xã hội nói chung.
Những thứ đó đã tác động trực tiếp đến sự phát triển của lực lượng sản xuất ở tất cả
những yếu tố cấu thành của nó: trình độ của tư liệu sản xuất và trình độ của người lao
động. Sự phát triển đó, một mặt, cung cấp những bằng chứng thuyết phục để chúng
ta tiếp tục khẳng định những giá trị đúng đắn, bền vững của chủ nghĩa Mác; mặt khác,
cũng đặt ra yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa
Mác nói chung và quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất nói riêng.
II. Vai trò của LLSX trong đời sống xã hội
1. Lực lượng sản xuất quyết định lượng và chất trong đời sống xã hội
Lực lượng sản xuất tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu của con người.
Trong quá trình lao động, con người không ngừng sáng tạo, sản xuất một lượng lớn
sản phẩm, từ tư liệu lao động cho đến phương tiện lao động hay công cụ lao động, từ
những thứ đơn sơ nhất như công cụ lao động bằng đồ đá cho đến những thiết bị, chi
tiết tinh vi, hiện đại, có trí tuệ và có khả năng thay thế con người. Đây là những minh 5 lOMoAR cPSD| 44985297
chứng rõ ràng nhất về vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đến lượng của đời sống xã hội.
Khi bàn về chất, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: “Tới một giai đoạn phát
triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất
vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những
quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất… Khi đó bắt đầu
thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Đầu tiên, ở xã hội nguyên thủy, đã phần những
sản phẩm lao động mang tính tự phát, bản năng, sau đó con người mới bắt đầu biết
đến săn bắt, hái lượm rồi tiến đến săn bắn, trồng trọt. “Cuộc cách mạng” đầu tiên ra
đời khi đồ đá trở thành công cụ lao động, rồi đến đồ đồng, đồ sắt. Và ngày nay, con
người đã và đang sử dụng những thiết bị thông minh, tân tiến nhất để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
2. Lực lượng sản xuất là phương tiện tiến hành sản xuất vật chất cho xã hội
a) Vai trò của yếu tố con người đối với sự phát triển xã hội
Không thể phủ nhận vai trò là yếu tố hàng đầu của người lao động trong
việc quyết định lực lượng sản xuất, mà đây lại là thứ đóng vai trò trực tiếp trong sự
phát triển xã hội. Con người là yếu tố làm nên tất thảy những biến động trong mọi
lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, chính trị,.. làm cho xã hội loài người không ngừng tiến
lên. Từ khi con người xuất hiện, lao động là thứ không thể thiếu trong sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Con người đã biết tạo ra và tận dụng các nguồn lực,
từ thô sơ nhất như đá, đồng,.. cho đến những loại nguyên liệu yêu cầu kỹ thuật cầu
kỳ, tỉ mỉ, để tác động đến tự nhiên, làm ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của bản thân và xã hội.
Chính nhờ có lao động và ngôn ngữ, con người đã tự biến mình thành động
vật cao cấp nhất trong giới tự nhiên, biết dùng ý chỉ của mình để biến đổi thế giới. Dù 6 lOMoAR cPSD| 44985297
cho khoa học kĩ thuật có đạt đến trình độ tiên tiến nào, công cụ lao động có thông
minh đến đâu, thì vai trò của con người trong việc điều khiển, quản lí và tạo ra những
cuộc cách mạng là không thể thay đổi. Con người khẳng định vị thế của bản thân, là
chủ thể của sản xuất và xã hội.
b) Vai trò của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ đối với xã hội
Một trong những yếu tố quan trọng tác động đến lực lượng sản xuất là
khoa học công nghệ. Dựa vào cơ sở phân tích sự vận động và phát triển xã hội tư bản,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra đặc điểm nổi bật trong cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ nhất là “do có sự phát minh ra máy hơi nước, các thứ máy kéo sợi, máy dệt
và hàng loạt những thiết bị máy móc khác thay thế công cụ thủ công trước đó, biến
nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất quy mô lớn, được thể hiện rõ trong ngành dệt
may, luyện kim, cơ khí”. Kể từ khi có sự xuất hiện của máy móc, năng suất lao động
của con người đã vượt trội gấp chục, thậm chí là trăm lần so với thời kỳ lao động thủ
công, bởi máy móc đã làm thay đổi toàn bộ phương thức sản xuất từ trước tới nay.
“Kinh tế tri thức” là một khái niệm khá “non trẻ”, đã và đang là chủ đề bàn
luận của nhiều quốc gia và tổ chức. Dẫu cho còn nhiều ý kiến trái chiều về cách định
nghĩa, tuy nhiên đều thống nhất được rằng: kinh tế tri thức lấy yếu tố tri thức hiện đại
của khoa học, công nghệ và quản lí làm nền móng. Từ đó khoa học công nghệ thực
sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp làm ra sản phẩm ở hầu hết các ngành, lĩnh
vực trong đời sống xã hội. Sự ra đời và phát triển của “kinh tế tri thức” gắn với những
bước tiến lớn trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay, mà cốt lõi là công
nghệ cao. Hiện nay những máy móc, thiết bị tân tiến đang dần thay thế con người, tiết
kiệm một lượng lớn thời gian, vật chất, từ đó giúp con người có thêm thời gian tập
trung và phát triển bản thân. 7 lOMoAR cPSD| 44985297
c) Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất làm
cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội này lên hình thái kinh tế xã hội cao hơn
Hình thái kinh tế - xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng thời kỳ lịch sử nhất
định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất và với kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây
dựng trên những quan hệ sản xuất ấy. Có ba yếu tố cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế - xã hội:
Một là, các lực lượng sản xuất của xã hội ở một trình độ phát triển
nhất định, đóng vai trò quyết định quan hệ sản xuất.
Hai là, hệ thống quan hệ sản xuất được hình thành trên cơ sở thực
trạng phát triển của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định kiến trúc thượng tầng
và các quan hệ xã hội khác.
Ba là, hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ
tầng kinh tế, đóng vai trò là các hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hóa,... của
các quan hệ sản xuất của xã hội.
Từ thời điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời, với hạt nhân là lý luận hình
thái kinh tế - xã hội, đã hình thành nên một phương pháp luận thực sự khoa học trong
nghiên cứu về lĩnh vực xã hội. Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sản xuất vật
chất chính là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ
phát triển của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của
đời sống xã hội và lịch sử nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng
hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã
hội, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc
biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất xã hội với cốt lõi là trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực. 8 lOMoAR cPSD| 44985297
Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp
một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các
phương tiện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt
chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ
bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt
các chế độ xã hội khác nhau.
Theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội
là một quá trình lịch sử – tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách
quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải quyết
đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu
các quy luật vận động, phát triển của xã hội.
III. Sự vận dụng quan điểm đó trong cuộc Duy tân Minh trị (Nhật Bản)
1. Bối cảnh xã hội
Đến những năm 1850, sau hơn hai thế kỷ thống trị, chế độ Mạc phủ Tokugawa
lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về mọi mặt từ kinh tế, xã hội cho đến
chính trị. Đến giữa thế kỉ XIX, người lao động, đặc biệt là nông dân, ở Nhật có tay
nghề kĩ năng chưa cao, phải chịu tô thuế nặng cộng với nạn mất mùa, đẩy họ vào cảnh
đói kém, bần cùng; đồng thời phải chịu áp lực từ cả hai phía là giới quý tộc và thương
nhân. Tỉ lệ người dân biết chữ chưa cao, chỉ khoảng 50% nam giới và khoảng 15%
nữ giới biết chữ. Nhóm người lao động phân bố chủ yếu ở vùng thành thị, trong đó
Edo là thành thị đông dân nhất thế giới lúc bấy giờ, khoảng 1 triệu người. Một thành
phần khác của người lao động là giới tri thức, đã không thể kết tụ thành một khối
thuần nhất do điều kiện chính trị và hệ tư tưởng đặc thù của xã hội, ảnh hưởng chính
bởi hệ tư tưởng Nho giáo. Ngoài ra tầng lớp tư sản công - thương nghiệp ngày càng
giàu lên nhưng không có quyền lực về chính trị, lại bị đánh thuế nặng nên tạo ra mối
xung khắc giữa tầng lớp thương nhân và thống trị ngày càng lớn. 9 lOMoAR cPSD| 44985297
Bên cạnh đó, các tư liệu sản xuất, đặc biệt là trong nông nghiệp, vẫn duy trì sự
lạc hậu dựa trên nền tảng phong kiến. Công nghiệp có những tiến triển đáng kể, bùng
phát với những hải cảng lớn, thế nhưng Mạc phủ Tokugawa lại theo đuổi chính sách
“Tỏa Quốc”, tuyệt đối không chấp nhận cho người phương Tây đặt chân đến Nhật
bởi vào thời kì này, các nước phương Tây tích cực thiết lập giao thương ở châu Á,
khai thác, buôn bán hương liệu, tơ lụa, gốm sứ,... Không dừng lại ở đó, các nước
phương Tây còn dùng nhiều hình thức để chinh phục, chia rẽ và đặt ách thống trị tại
đây. Kết quả là, Nhật Bản bị chia rẽ. Đứng trước hai lựa chọn, một là giữ nguyên lề
lối cổ truyền phong kiến và địa vị của Mạc phủ, nhưng có nguy cơ mất nước vì bị
ngoại bang đô hộ; hai là mở cuộc canh tân toàn diện, học hỏi và tiếp thu kiến thức
phương Tây mà chuyển mình thành một đất nước hùng mạnh. Và như lịch sử đã ghi
nhận, năm 1867, chế độ Mạc phủ Tokugawa chấm dứt, Nhật Bản chính thức tiến hành
cuộc Duy tân Minh Trị từ năm 1866.
2. Các cải cách được thực thi
Triều đình Minh Trị đưa ra khẩu hiệu “Phú quốc cường binh” nhằm khai thác
tâm lý lo sợ Nhật Bản sẽ trở thành thuộc địa phương Tây nếu không chịu canh tân.
Trên cơ sở đó, họ đã thuyết phục được Thiên hoàng tuyên bố từ bỏ những tập tục có
hại và sẵn sàng học hỏi phương Tây.
Với kim chỉ nam coi người lao động là nhân tố hàng đầu, giữ vai trò quyết định,
nhà nước thành lập Bộ giáo dục và ngay sau đó, “Học chế” (学制), chế độ giáo dục
thống nhất toàn quốc được ban hành. Luật này quy định từ bỏ hệ thống cũ, xây dựng
một hệ thống giáo dục mới bình đẳng, bắt buộc, đề cao vai trò giáo dục nhà trường,
nâng cao kiến thức khoa học thực tiễn cần thiết. Đây là một chủ trương tiến bộ nhằm
xây dựng một đất nước mà “trong mỗi làng không còn gia đình nào mù chữ và không
còn người nào mù chữ trong mỗi gia đình”. Đến năm 1907, cấp độ tiểu học đã đón
nhận được 97% trong số 7 triệu trẻ em trong độ tuổi đến trường, cấp trung học cơ sở
đón 150000 học sinh. Nhiều chính sách ưu tiên cho những người học ngành sư phạm, 10 lOMoAR cPSD| 44985297
mỗi tỉnh ở Nhật Bản ít nhất có một trường sư phạm, tiêu chuẩn giáo viên ngày càng
chặt chẽ, đòi hỏi trình độ cao. Nhiều phái đoàn, sinh viên được cử sang phương Tây
học hỏi về cách thức quản lý hành chính và kỹ thuật. Tòa án mới kiểu phương Tây
được thành lập. Nước Nhật đã từ chỗ coi trọng thân phận con người theo nguồn gốc
dòng dõi đã chuyển sang cất nhắc cán bộ theo trình độ giáo dục (tân học) và năng lực
thực tế. Người nông dân cũng được tự do buôn bán kể cả ruộng đất, được cung cấp
hàng loạt những cơ sở hạ tầng, nhất là đường sắt đến tận vùng nông thôn để tiếp tục
lao động và phát triển.
Đặc biệt, nhà nước tận dụng triệt để các nguồn vốn để công nghiệp hóa đất nước.
Chính quyền chủ trương phải sớm du nhập những ngành sản xuất, kinh tế mới như
công nghệ dệt, chế tạo vũ khí, đóng tàu. Chính phủ đi tiên phong trong việc nhập khẩu
kỹ thuật, thiết bị nguyên liệu và chịu trách nhiệm huy động nguồn nhân lực như kỹ
sư, chuyên gia ngoại quốc trong những ngành mũi nhọn như phát triển giao thông,
quân sự, công nghiệp, giáo dục, kỹ thuật và ngoại giao. Quá trình công nghiệp hoá
dưới thời Minh Trị ở Nhật Bản đã có vai trò quan trọng đưa đất nước này thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, nhanh chóng trở thành một cường quốc kinh tế phát triển nhất
châu Á đi theo mô hình các nước tư bản chủ nghĩa ở phương Tây. Công cuộc Minh
Trị duy tân nói chung và công nghiệp hóa nói riêng của Nhật Bản là tấm gương sáng
cho các nước khu vực học tập để phát triển kinh tế, ảnh hưởng đối với Trung Quốc, Việt Nam.
3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Thứ nhất, sự công nghiệp hóa Minh trị của Nhật Bản đã để lại nhiều bài học về
huy động và sử dụng vốn, đầu tư khoa học kĩ thuật, đặc biệt là giáo dục. Trong đó,
Việt Nam cần học hỏi và tham khảo kinh nghiệm Nhật Bản trong việc huy động và
phân bổ các nguồn lực trong nước để phát triển kinh tế. 11 lOMoAR cPSD| 44985297
Thứ hai, để công cuộc công nghiệp hóa phát triển mạnh cần phải tận dụng thị
trường to lớn bên ngoài, nhưng trước hết phải phát huy nội lực bên trong. Kinh
nghiệm phát triển kinh tế của Nhật Bản trong quá trình công nghiệp hoá có ý nghĩa
to lớn đối với Việt Nam, bởi vì người Việt cũng thông minh và cần cù chịu khó như
người Nhật. Nhật Bản đã thành công trong việc sử dụng nguồn nhân lực con người
trong phát triển. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định nhất đối với sự tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, yếu tố quan trọng khác góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh của Nhật
Bản là khả năng tiếp thu, cải tiến truyền thống văn hóa, tạo nên bản sắc văn hóa có
lợi cho quá trình hiện đại hóa. Sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại cũng
là một bài học cho Việt Nam. Qua kinh nghiệm của Nhật Bản, chúng ta có thể thấy
rằng không phải mọi truyền thống đều có ích cho quá trình hiện đại hóa đất nước,
những truyền thống nào phát huy tính tích cực hiện đại mới nên giữ lại, nếu không
thì cần loại bỏ để khỏi cản trở sự phát triển kinh tế.
Thứ tư, yếu tố quyết định thay đổi cơ cấu kinh tế có lợi cho tăng trưởng là khoa
học kỹ thuật. Thành công của Nhật Bản một phần chủ yếu là do có chiến lược đúng
đắn, nhờ đó sớm bắt kịp trình độ khoa học kỹ thuật thế giới và áp dụng nhanh
chóng vào sản xuất. Trong điều kiện thế giới ngày nay đang tiến nhanh vào giai đoạn
mới của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, những kinh nghiệm trên của Nhật
Bản như là một động lực to lớn đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Phần C: TỔNG KẾT
Từ những lý luận và thực tiễn ở xã hội, ta không thể phủ nhận vai trò quyết định
của lực lượng sản xuất trong sự phát triển của nền kinh tế, xã hội của một quốc gia.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa các thành phần của lực lượng sản xuất đóng góp phần quan
trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Không chỉ áp dụng những giá trị 12 lOMoAR cPSD| 44985297
đúng đắn trong quan điểm của Mác-Lênin về sự phát triển của xã hội loài người, ta
cũng cần xây dựng, bổ sung, áp dụng linh hoạt những nội dung phù hợp với hoàn
cảnh, điều kiện của đất nước nói riêng và sự biến đổi của thế giới nói chung.
Sự thành công của công cuộc duy tân Nhật Bản đã có ảnh hưởng lớn ở châu Á,
trong đó có Việt Nam. Việt Nam và Nhật Bản gần gũi nhau về mặt địa lý, có nhiều
nét tương đồng về văn hóa lịch sử, truyền thống lao động cần cù, thông minh và sáng
tạo. Hơn 150 năm trôi qua, những bài học kinh nghiệm từ Minh Trị duy tân vẫn còn
nguyên giá trị, nhất là đối với Việt Nam đang trong thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa
và hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình xây dựng đất nước nói chung và công cuộc
công nghiệp hóa dưới thời Minh Trị vào nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX nói
riêng, Nhật Bản đã để lại nhiều gợi ý bổ ích về vấn đề huy động vốn, đầu tư khoa học
kỹ thuật, giáo dục, phát triển nguồn nhân lực ... có thể giúp Việt Nam suy nghĩ để rút
ra bài học kinh nghiệm cho quá trình đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đại hóa hiện nay. 13 lOMoAR cPSD| 44985297
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
2. Thư C.Mác gửi P.V.Annencốp 28/1/1846
3. Luatminhkhue,https://luatminhkhue.vn/luc-luong-san-xuat-la-gi.aspx, 14/10/2022, 08/01/2023
4. Hdll,https://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/gia-tri-cot-loi-cua-chu-nghia-ma
c-lenin-ve-moi-quan-he-giua-luc-luong-san-xuat-va-quan-he-san-xuat--
phan1.html, 15/11/2019, 08/01/2023
5. Tapchicongsan,https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-cu/-/201
8/821033/view_content, 14/01/2021, 08/01/2023
6. Tapchikhxh,http://tapchikhxh.vass.gov.vn/quan-he-giua-nguoi-san-xuat-voi-c
ong-cu-san-xuat-n50386.html#:~:text=Nếu%20công%20cụ%20sản%20xuất,
độ%20phát%20triển%20cao%20hơn., 23/05/2022, 08/01/2023
7. Nguyễn Thu Hằng, Ảnh hưởng của phương Tây đối với văn hóa Nhật Bản thời
Minh Trị - Kinh nghiệm cho Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017
8. Edwin O.Reischauer, Nhật Bản: Câu chuyện về một quốc gia, Nguyễn Bình
Giang và đồng nghiệp biên dịch, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1998
9. Trần Xuân Hiệp, Trần Tuấn Bình, Quá trình công nghiệp hóa ở Nhật Bản dưới
thời Minh Trị (1868 - 1912) và một số gợi mở cho công cuộc đổi mới của Việt
Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Đại học Duy Tân, 2020 Downloaded by Ho Thi
Thu Trang (23a4010661@hvnh.edu.vn)