













Preview text:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và ý nghĩa của việc nghiên
cứu đó trong nghiên cứu, học tập của sinh viên
HỌ TÊN SINH VIÊN: Bùi Bích Lan
MÃ SINH VIÊN: 2 7
LỚP TÍN CHỈ: Triết học Mác – Lênin
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Lê Thị Hồng
HÒA BÌNH – 12/2021 1
MỤC LỤC
MỤC LỤC ....................................................................................................................... 2
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 3
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................................... 3
PHẦN MỘT: Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn
tại xã hội và ý thức xã hội. ......................................................................................... 3
1. Khái niệm về tồn tại xã hội và ý thức xã hội. ................................................. 3
1.1. Tồn tại xã hội. ............................................................................................. 3
1.1.1. Duy vật lịch sử và duy vật biện chứng. ............................................. 3
1.1.2. Khái niệm tồn tại xã hội. .................................................................... 3
1.2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội. ............................................. 4
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội. ..................................................................... 4
1.2.2. Kết cấu của ý thức xã hội. .................................................................. 4
1.2.3. Tính giai cấp của ý thức xã hội. ......................................................... 4
2. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.............................. 5
2.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. .................................................. 5
2.2. Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối. .................................................. 5
3. Các hình thái ý thức xã hội. ............................................................................. 7
3.1. Ý thức chính trị. ......................................................................................... 7
3.2. Ý thức pháp quyền. .................................................................................... 7
3.3. Ý thức đạo đức. .......................................................................................... 8
3.4. Ý thức khoa học ........................................................................................ .8
3.5. Ý thức thẩm mỹ. ......................................................................................... 9
3.6. Ý thức tôn giáo. ........................................................................................ 10
4. Ý nghĩa phương pháp luận. ........................................................................... 10
PHẦN HAI: Vận dụng ý nghĩa việc nghiên cứu quan điểm duy vật lịch sử về
quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong nghiên cứu, học
tập của sinh viên. ....................................................................................................... 11
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................................... 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 14 2
PHẦN MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một thể thống nhất thế giới
quan, phương pháp và luật hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động
trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Triết học Mác – Lênin là phương pháp luận
khoa học và cách mạng cho con người trong nhận thức và thực tiễn. Đặc biệt, một
trong những quan điểm được chú ý nhiều nhất đó là quan điểm về quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đây được coi là vấn đề cơ bản của triết học về xã
hội, quan điểm này luôn được Đảng ta và nhà nước vận dụng vào điều kiện cụ thể của
cách mạng Việt Nam, nhờ vậy mà đất n ớc
ư đạt được nhiều thành tự to lớn cả về vật
chất và tinh thần trong xã hội.
Trong xã hội hiện tại, khi thế giới ngày càng phát triển, đất nước bước vào thực
hiện nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới càng đòi hỏi cao về yêu cầu làm sáng tỏ
và phát triển lí luận, từ đó vận dụng sáng tạo vào từng điều kiện cụ thể. Đối với sinh
viên cũng vậy, việc nghiên cứu và hiểu rõ quan điểm này sẽ mang lại thuận lợi trong
việc nghiên cứu, học tập của sinh viên.
Kết cấu của bài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài gồm có hai phần
- Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội .
- Vận dụng trong nghiên cứu, học tập của sinh viên.
PHẦN NỘI DUNG
PHẦN MỘT: Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội .
1. Khái niệm về tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
1.1. Tồn tại xã hội .
1.1.1. Duy vật lịch sử và duy vật biện chứng .
Duy vật lịch sử là trong đời sống xã hội, xét đến cùng lực lượng sản xuất
là yếu tố quan trọng quyết định.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, yếu tố vật chất trong thế giới của
chúng ta đóng vai trò quyết định, mọi thứ vận động không ngừng nên việc
nghiên cứ đời sống xã hội bắt đầu từ vật chất, đây là điều khác với các nhà tư
tưởng trước Mác, chống lại n ữ
h ng quan điểm duy tâm về đời sống xã hội.
1.1.2. Khái niệm tồn tại xã hội .
Tồn tại xã hội là khái niệm triết học dùng để chỉ sinh hoạt vật chất và
những điều kiện sinh hoạt ậ v t chất của xã hội. 3
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố, trong đó các yếu tố chính là phương
thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân cư,
trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
1.2. Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội.
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội.
Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tình cảm ,
phong tục tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận,… nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác
nhau. Nói cách khác, ý thức xã hội là những quan hệ tinh thần giữa con người
với nhau, là mặt tinh thần trong quá trình lịch sử.
Ý thức xã hội có cấu trúc bên trong xác định, bao gồm những mức độ
khác nhau (ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận (khoa học); tâm lý xã
hội và hệ tư tưởng) và các hình thái của ý thức xã hội (ý thức chính trị, pháp
luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, khoa học,…)
Cần thấy rõ sự khác nhau tương đối giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân.
Các ý thức cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với mức độ khác nhau. Do đó,
nó không thể không mang tính xã hội. Song ý thức cá nhân không phải lúc nào
cúng thể hiện quan điểm tư tưởng, tình cảm phổ biến của cộng đồng, của một
thời đại xã hội nhất ị
đ nh. Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liện
hệ hữu cơ, biện chứng với nhau ,thâm nhập vào nhau và làm phong phú nhau.
1.2.2. Kết cấu của ý thức xã hội.
Kết cấu của ý thức xã hội gồm:
- Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, thói quen, tập
quán,… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội
được hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp cuộc sống hàng ngày và phản
ánh đời sống đó. Quá trình phản ánh này thường mang tính tự phát, chỉ
ghi lại những biểu hiện bề mặt bên ngoài của xã hội .
- Hệ tư tưởng xã hội (hệ tư tưởng) là trình độ cao của ý thức xã hội
được hình thành khi con người đã có được nhận thức sâu sắc hơn các
điều kiện sinh hoạt vật chất của mình; là nhận thức lý luận về tồn tại xã
hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức,
nghệ thuật, tôn giáo,…) kết quả sự khái quát hoá những kinh nghiệm xã
hội. Trong đó lại có hai loại hệ tư tưởng là Hệ tư tưởng khoa học - phản
ánh chính xác, khách quan tồn tại xã hội và Hệ tư tưởng không khoa học
- phản ánh sai lầm, hư ảo hoặc xuyên tạc tồn tại xã hội .
1.2.3. Tính giai cấp của ý thức xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, do các giai cấp có những điều kiện sinh hoạt vật
chất khác nhau, những lợi ích khác nhau do địa vị xã hội mỗi giai cấp quy định, 4
nên ý thức xã hội của các giai cấp có nội dung và hình thức phát triển khác nhau hoặc đối lập nhau.
Tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện ở tâm lý xã hội, cũng như ở hệ
tư tưởng xã hội. Mỗi giai cấp đều có tình cảm, tâm trạng, thói quen riêng, có
thiện cảm hay ác cảm với tập đoàn xã hội này hoặc tập đoàn xã hội khác. ở trình độ hệ tư t ở
ư ng thì tính giai cấp của ý thức xã hội biểu hiện sâu sắc hơn nhiều.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp bao giờ cũng có những quan điểm tư tưởng
hoặc những hệ tư tưởng đối lập nhau: tư tưởng của giai cấp bóc lột và giai cấp
bị bóc lột, của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những tư tưởng thống trị của
một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị ở thời đại đó.
2. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
2.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội là cái thứ nhất, ý thức xã hội là cái thứ hai. Tồn tại xã hội quy
định nội dung, bản chất, xu hướng vận động của ý thức xã hội; ý thức xã hội phản
ánh cái logic khách quan của tồn tại ã x hội.
Tồn tại xã hội thay đổi là điều kiện quyết định để ý thức xã hội thay đổi. Mỗi
khi tồn tại xã hội, đặc biệt là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và
lý luận xã hội cũng dần biến đổi theo.
Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội không giản đơn, trực tiếp mà thường
thông qua các khâu trung gian. Không phải bất kỳ tư tưởng, quan niệm, lý luận,
hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh
tế của thời đại, mà chỉ khi xét cho đến cùng mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế
được phản ánh, bằng cách này hay cách khác, trong các tư tưởng ấy. Như vậy, sự
phản ánh tồn tại xã hội của ý thức xã hội phải được xem xét một cách biện chứng.
2.2. Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Lịch sử xã hội cho thấy,
nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu, nhưng ý thức xã hội do xã
hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện rất rõ
trong lĩnh vực tâm lý xã hội (trong truyền thống, tập quán, thói quen,…). Khuynh
hướng lạc hậu của ý thức xã hội biểu hiện ở chỗ: nó xuất hiện muộn hơn và mất đi cũng muộn hơn.
Ý thức xã hội có vượt trước hoặc tiến bộ hơn tồn tại xã hội. Khi khẳng định
tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học macxit
đồng thời thừa nhận rằng, trong những điệu kiện nhất định, tư tưởng của con người,
đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước được tồn tại xã hội,
bộ phận này trong ý thức xã hội có khả năng nắm bắt các quy luật vận động khách
quan, từ đó đưa ra dự báo tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực 5
tiễn của con người. Nói tư tưởng tiên tiến có thể đi trước tồn tại xã hội thì không
đồng nghĩa là ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng
khoa học tiên tiến phản ánh chính xác, sâu sắc tồn tại xã hội và không thoát ly tồn
tại xã hội. Nguyên nhân ý thức xã hội có vượt trước hoặc tiến bộ hơn tồn tại xã hội
là bởi vì ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và có khả năng phát huy tính sáng
tạo trong quá trình phản ánh tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó. Lịch sử phát triển
đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời
đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa
những tài liệu lý luận của các thời đại trước. Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát
triển, nên không thể giải thích được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những
quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó.
Lịch sử phát triển của tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn
của triết học, văn học, nghệ thuật… nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những
giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế. Tính chất ế
k thừa trong sự phát triển
của tư tưởng là một trong những nguyên nhân nói rõ vì sao một nước có trình độ
phát triển của tư tưởng là một trong những nguyên nhân nói rõ vì sao một nước có
trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát triển cao.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát tiển của
chúng. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình thái
ý thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp
bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất. Lịch sử phát triển của ý thức xã
hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể
có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác.
Ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội. Mức độ ảnh hưởng
của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ
thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trò
lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ mở rộng của tư tưởng
quần chúng. Cũng do đó phải phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức
tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội. Nếu ý thức xã hội phản ánh
đúng đắn các quy luật khách quan của tồn tại xã hội thì nó có thể thúc đẩy sự phát
triển của tồn tại xã hội. Vai trò này thuộc về ý thức của những giai cấp tiến bộ và
cách mạng. Nếu ý thức xã hội phản ánh sai lệch, xuyên tác các quy luật khách quan
của tồn tại xã hội thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội. Tác động này
thuộc về ý thức của những giai cấp cũ, lạc hậu, phản động. 6
3. Các hình thái ý thức xã hội.
Ý thức xã hội tồn tại trong những hình thái khác nhau. Những hình thái chủ yếu
của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức
khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và triết học. Tính phong phú, đa dạng của
các hình thái ý thức xã hội phản ánh tính phong phú đa dạng của bản thân đời sống xã
hội. Trong những hình thái ý thức xã hội, có những hình thái gần với cơ sở kinh tế, với
tồn tại xã hội hơn. Có những hình thái ý thức xã hội xa cơ sở kinh tế hơn. So với các
hình thái ý thức xã hội khác thì ý thức chính trị và ý thức pháp quyền gần gũi với cơ sở kinh tế hơn cả.
3.1. Ý thức chính trị.
Phản ánh các mối quan hệ chính trị, kinh tế xã hội giữa các dân tộc, quốc gia;
thái độ của các giai cấp với quyền lực nhà nước. Ý thức chính trị gồm hai cấp độ là Ý
thức chính trị thực – thông thường và Ý thức chính trị tư tưởng, lí luận.
Ý thức chính trị thực tiễn – thông thường hình thành trực tiếp từ hoạt động thực
tiễn trong môi trường chính trị của xã hội. Ở trạng thái tâm lý xã hội, những cảm xúc
và tâm trạng về chính trị của quần chúng thường thiếu bền vững và không ổn định.
Song, những trạng thái tâm lý xã hội như vậy lại có vai trò to lớn và trực tiếp đối với
hành vi chính trị của quần chúng đông đảo; thông qua đó hệ tư tưởng chính trị tác động
vào đời sống chính trị của xã hội.
Hệ tư tưởng chính trị của một giai cấp nhất định phản ánh trực tiếp tập trung lợi
ích giai cấp của giai cấp ấy. Hệ tư tưởng chính trị được thể hiện trong đường lối, cương
lĩnh chính trị của các chính đảng của các giai cấp khác nhau cũng như trong luật pháp,
chính sách nhà nước, công cụ của giai cấp thống trị. Hệ tư tưởng chính trị được hình
thành một cách tự giác. Nó được các nhà tư tưởng của giai cấp xây dựng và truyền bá.
3.2. Ý thức pháp quyền.
Ý thức pháp quyền được ra đời cùng Nhà nước tương tự Ý thức chính trị nên có
sự gần nhau về mặt hình thức và nội dung. Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng,
quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ
của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của
hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm ủ c a con người trong
việc thực thi luật pháp của Nhà nước.
Mỗi một nhà nước có một hệ thống pháp luật, đó là ý chí của gia cấp nắm chính
quyền thể hiện qua luật lệ. Tuy nhiên các giai cấp khác nhau sẽ có những ý thức khác
nhau về pháp luật thể hiện lợi ích cho giai cấp đó. Do đó, hiệu lực của pháp luật không
những phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước mà còn phụ thuộc vào trình
độ hiểu biết và tâm lý pháp luật của xã hội. 7
3.3. Ý thức đạo đức.
Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm
tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm,
hạnh phúc, công bằng… và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa
cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Hình thái ý thức đạo đức là
một trong những hình thái ý thức ra đời từ rất sớm trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên thuỷ.
Ý thức đạo đức xuất hiện rất sớm từ thời kì nguyên thủy do nhu cầu phối hợp
các hoạt động trong quan hệ xã hội, gắn liền với quan điểm tôn giáo và nghệ thuật ngày
càng được hoàn thiện và phát triển.
Sự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng… phản ánh khả năng tự chủ
của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản quy định gương mặt đạo
đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con người. Với ý nghĩa đó, sự
phát triển ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội.
Nếu pháp quyền điều chỉnh xã hội thông qua sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước
thì đạo đức lại sử dụng sức mạnh dư luận, xã hội, tập quán, giáo dục nên ảnh hưởng
thậm chí lớn hơn pháp quyền.
Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một
nền đạo đức tiến bộ, còn các giai cấp phản động thì đại diện cho một nền đạo đức suy
thoái. Ph.Ăngghen viết: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước
đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho tới nay
xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp, cho nên đạo đức cũng luôn luôn là
đạo đức của giai cấp: hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống
trị, hoặc là, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy
chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị áp bức”.
3.4. Ý thức khoa học
Ý thức khoa học vừa là một hình thái ý thức xã hội, vừa là một hiện tượng xã
hội đặc biệt. Xem xét khoa học như một hình thái ý thức xã hội không thể tách rời xem
xét nó như một hiện tượng xã hội. Ý thức khoa học – với tính cách là một hình thái ý
thức xã hội – là hệ thống tri thức phản ánh chân thực dưới dạng logic trừu tượng về thế
giới đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn.
Nhờ tri thức khoa học, con người không ngừng vươn tới cái mới “sáng tạo ra
một thế giới mới” và ngày càng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình.
Xét về đối tượng, các khoa học chia thành những khoa học tự nhiên – kỹ thuật,
nghiên cứu các quy luật của tự nhiên, các phương thức chinh phục và cải tạo tự nhiên; 8
và những khoa học xã hội nghiên cứu những hiện tượng xã hội khác nhau, các quy luật
vận động, phát triển của chúng và cả bản thân con người như là một thực thể xã hội.
Trong mỗi khoa học người ta phân thành các cấp độ kinh nghiệm, tức là những
tư liệu hiện thực đã tích luỹ được – sự tổng kết các quan sát và thí nghiệm; lý luận là sự
khái quát kinh nghiệm thể hiện trong những lý thuyết về quy luật và nguyên lý tương
ứng, cấp độ lý luận của các khoa học cụ thể hợp lực với nhau trong sự giải thích các
nguyên lý và quy luật đã phát hiện trên bình diện lý luận chung – bình diện triết học,
hình thành mặt thế giới quan và phương pháp luận của toàn bộ nhận thức khoa học.
Khoa học trở thành một ngành hoạt động sản xuất với quy mô ngày càng lớn,
bao hàm hàng loạt các viện, phòng thí nghiệm, trạm, trại, xí nghiệp với số cán bộ khoa
học ngày càng tăng, vốn đầu tư ngày càng lớn, hiệu quả đầu tư ngày càng cao. Do
những biến đổi căn bản về vai trò của khoa học đối với sản xuất mà khoa học trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp.
3.5. Ý thức thẩm mỹ.
Ý thức thẩm mỹ là sự phản ánh hiện thực vào ý thức con người trong quan hệ
với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo Cái Đẹp. Trong các hình thức hoạt động thưởng
thức và sáng tạo Cái Đẹp thì nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm
mỹ. Nghệ thuật ra đời từ rất sớm ngay từ khi xã hội chưa phân chia thành giai cấp. Quá
trình hình thành nghệ thuật gắn liền với lao động của con người, với thực tiễn xã hội.
Những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật đều thuộc về thời kỳ con người đã biết sản xuất
ra những công cụ bằng đá, bằng xương, bằng sừng…
Khác với khoa học và triết học, phản ánh thế giới hiện thực bằng khái niệm,
phạm trù, quy luật, nghệ thuật phản ánh thế giới một cách sinh động, cụ thể bằng hình
tượng nghệ thuật. Ý thức thẩm mỹ thường xuyên biến đổi trong lịch sử, phụ thuộc vào
tồn tại xã hội, tuy nhiên quan điểm thẩm mỹ đúng đắn thường tiếp nhận và sáng tạo
những giá trị trường tồn của nhân loại là chân – thiện – mỹ.
Sự phát triển của nghệ thuật, cả nội dung và hình thức, không thể tách khỏi sự
phát triển của tồn tại xã hội. Nhưng nghệ thuật có tính độc lập tương đối rất rõ nét
trong sự phát triển của mình. Nó không phải bao giờ cũng phản ánh tồn tại xã hội một
cách trực tiếp, dễ thấy. Mác viết: “Đối với nghệ thuật, người ta biết rằng những thời kỳ hưng thịnh nhất ủ
c a nó hoàn toàn không tương ứng với sự phát triển chung của xã hội,
do đó cũng không tương ứng với sự phát triển của cơ sở vật chất của xã hội, cơ sở này
dường như cấu thành cái xương sống của tổ chức xã hội”.
Khi nhấn mạnh tính giai cấp của nghệ thuật trong xã hội có giai cấp, quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin không phủ nhận tính nhân loại chung của nó. Không ít tác
phẩm nghệ thuật mà giá trị của chúng được lưu truyền khắp thế giới qua các thời đại,
mặc dù tác giả là đại biểu của một giai cấp nhất định. Có những nền nghệ thuật của
một dân tộc nhất định nhưng đã trở thành những giá trị văn hóa tiêu biểu của cả nhân 9
loại. Tính giai cấp của nghệ thuật cách mạng và tiến bộ không những không mâu thuẫn
với tính nhân loại, mà ngược lại còn làm sâu sắc những giá trị toàn nhân loại.
3.6. Ý thức tôn giáo.
Nói về bản chất của tôn giáo, Ph. Ăngghen viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người, của những lực lượng ở bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực
lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Nguồn gốc của tôn giáo phải tìm trong tồn tại xã hội, trong quan hệ giữa người
với tự nhiên và trong các quan hệ xã hội, trong các mối quan hệ xã hội trong điều kiện
xã hội có áp bức giai cấp và tính tự phát còn là đặc trưng của sự phát triển xã hội.
Những quy luật xã hội biểu hiện như là những lực lượng mù quáng, trói buộc con
người và thường xuyên quyết định đến số phận của họ, khiến con người sợ hãi. Đó là
một trong những nguồn gốc xã hội của tôn giáo.
Kết cấu của ý thức tôn giáo gồm có hai phần chính là Tâm lí tôn giáo và Tư
tưởng tôn giáo. Tâm lí tôn giáo là những biểu tượng tâm trạng, thói quen của quần
chúng về các tín ngưỡng tôn giáo, đem lại cho hệ tư tưởng tôn giáo một tính chất đặc
chưng, một sắc thái tình cảm riêng. Tư tưởng tôn giáo là các quan niệm, quan điểm tôn
giáo do các giáo sĩ, nhà thần học tạo ra và truyền bá, là một hình thái ý thức xã hội thực
hiện chức năng chủ yếu của mình là chức năng đền bù – hư ảo trong một xã hội cần
đến sự đền bù – hư ảo.
4. Ý nghĩa phương pháp luận.
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời
sống xã hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến
hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã
hội; mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất
yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội và ngược lại,
những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với n ữ
h ng điều kiện xác định cũng có
thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai
trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế
và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ
quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng
chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội x
ã hội chủ nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt ể
đ phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập,
phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 10
PHẦN HAI: Vận dụng ý nghĩa việc nghiên cứu quan điểm duy vật lịch sử về quan
hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội t
rong nghiên cứu, học tập của sinh viên.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: tồn tại xã hội quyết định nội dung, bản
chất, xu hướng vận động, phát triển của ý thức xã hội. Tồn tại xã hội thay đổi thì sớm
muộn gì ý thức xã hội cũng thay đổi th o
e với những mức độ và nhịp điệu khác nhau.
Tồn tại xã hội còn phân chia giai cấp thì ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp. Bên
cạnh việc xác định những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, việc giáo dục đạo đức mới cho mọi ng ờ
ư i, làm lành mạnh đời sống tinh thần là một trong những nhiệm
vụ quan trọng của cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Nắm vững và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin về phương pháp luận đó Đảng và Nhà nước ta đã đề ra được
những đường lối đúng đắn trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước với rất
nhiều những thành tựu to lớn.
Đối với mỗi sinh viên cũng vậy, việc vận dụng tốt ý nghĩa của việc nghiên cứu
quan điểm duy vật lịch sử về quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
trong nghiên cứu, học tập sẽ trở thành một thế mạnh to lớn trong sự nghiệp học tập
suốt đời. Trước hết điều đó giúp định hướng nguyên tác nghiên cứu học tập của sinh viên: Giú
p hiểu rõ những vấn đề cơ bản và khái quát nhất sẽ tạo cho chúng ta một nền
móng kiến thức vững chắc để tiếp tục nghiên cứu và phát triển.
Ví dụ ta có thể thấy trong môn lịch sử, nghiên cứu về lịch sử văn hóa của loài
người, bên cạnh đó ta cũng thấy được quá trình tiến hóa và phát triển về mặt nhận
thức của họ. hời tiền sử là thời đại Việt Nam được tính từ tính từ khi con người bắt đầu
có mặt trên lành thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỉ I trước công nguyên. Thời tiền sử
là các bộ lạc săn bắt (bán), hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ. Công cụ còn
rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỉ th ậ
u t chế tác, đã có nhiều hình loại
ổn định nhằm phục vụ đời sống. Thời kì này con người nhận biết, tận dụng và sử dụng
nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ… Bên cạnh đó điều kiện
khí hậu thuận lợi cho đời sống con người cộng với sự đa dạng phong phú của các loài
quán động thực vật phương Nam nên nguồn tài nguyên rất phong phú.Về ý thức xã hội
điển hình có sự nổi bật trong truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa của dân tộc
và nhân dân Việt Nam thì rất cần cù chăm chỉ với truyền thống hiếu học được truyền
từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt Nam có hệ thống tư tưởng lớn và chi phối dân
tộc Việt trong nhiều thế kỉ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo.
Ngoài ra, quá trình nghiên cứu quan điểm duy vật lịch sử về quan hệ biện chứng
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội sẽ là một quá trình khó khăn và tốn nhiều thời gian,
phải nghiên cứu một cách tổng quát với lượng thông tin rất lớn. Từ đó sinh viên rút ra
được bài học về việc bao quát lượng thông tin và thu hẹp phạm vi nghiên cứu. Có thể
việc nghiên cứu chưa thể đem lại được những kết quả cuối cùng nhưng bằng những kết 11
luận có thể rút ra được sẽ góp phần vào việc tìm hiểu những kiến thức mới với cấp độ cao hơn.
Ví dụ, khi nghiên cứu về dự án cải thiện giấc ngủ, Hội Y học Việt Nam cần có
nhiều người khác nhau tham gia ngủ dưới những điều kiện, tác động khác nhau. Tuy
nhiên, khảo sát hết toàn bộ mọi người là bất khả thi. Vì vậy, họ tuyển 200 tình nguyện
viên: những người có giấc ngủ khoẻ mạnh, hoặc người gặp vấn đề trong việc đi vào
giấc ngủ để tham gia vào dự án. Mặc dù 200 chỉ là con số nhỏ so với toàn bộ người ở
Việt Nam nhưng nó đã phản ánh một lượng lớn thông tin để cung cấp cho ngành y tế,
từ đó tiếp tục phân tích, tổng hợp để nhận diện được các rối loạn thường gặp, có thể
định hướng điều trị các chứng bệnh liên quan đến thần kinh, giấc ngủ cho bệnh nhân trong tương lai.
Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, xét đến cùng lực lượng sản xuất là yếu tố quan trọng quyết định, đời sống xã hội bắt ầ
đ u từ vật chất. Bên cạnh các môn văn hóa xã hội, các môn khoa học tự
nhiên cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong xã hội hiện đại ngày nay khi kĩ thuật,
công nghệ đã và đang trở thành một phật trong đời sống xã hội của chúng ta, từ đó xuất
hiện việc kế thừa và phát triển những tri thức khoa học trước đó để phát triển.
Ví dụ, khi nghiên cứu về một nguyên tố hoá học, các nhà khoa học đã cùng nhau
khám phá ra bản chất của nguyên tử là sự tương tác của điện tử và hạt nhân. Mặc dù
ban đầu nguyên tử có nguồn gốc chỉ những hạt không thể phân chia nhỏ hơn nữa,
nhưng như ngày nay đã biết nguyên tử là thuật ngữ khoa học tổ hợp của nhiều hạt ạ h
nguyên tử. Các hạt thành phần của nguyên tử là electron, proton và neutron. Đó là
bản chất cấp I. Sau một thời gian dài, các nhà khoa học lại khám phá ra lượng tử.
Những nguyên lý của cơ học lượng tử đã mô tả thành công các tính chất quan sát thấy
của nguyên tử và là nền tảng cho lý thuyết nguyên tử và hạt hạ nguyên tử. Đây là bản
chất cấp II của nguyên tử. Có thể nói, quá trình tìm hiểu, nghiên cứu là kéo dài vô tận,
không bao giờ kết thúc. Có thể trong tương lai, bản chất cấp III cũng sẽ sớm được phát hiện.
Cuối cùng, tất cả những sự tồn tại xung quanh ta đều được tính là một phần của tồn tại x
ã hội, chính những điều đó sẽ quyết định ý thức xã hội tương ứng với nó. Khi
xã hội không ngừng thay đổi và phát triển, các phương pháp đã áp dụng vào hoạt động
nghiên cứu cũ trước đây cũng cần sinh viên đổi mới, sáng tạo bằng các phương pháp
mới, phù hợp với bản chất đã thay đổi của đối tượng nghiên cứu, góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh trong học tập và công việc. 12
PHẦN KẾT LUẬN
Quan điểm duy vật lịch sử về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội đã định hướng và đề ra các nguyên tắc tương ứng trong quá trình nhận thức
và áp dụng thực tiễn. Và nó là hình thức tư duy hiệu quả quan trọng nhất trong khoa
học, bởi vì chỉ nó mới có thể cung cấp một phương pháp giải thích cho những gì đang
diễn ra trên thế giới, giải thích các mối quan hệ phổ biến, sự quá độ từ lĩnh vực nghiên
cứu này sang lĩnh vực nghiên cứu khác.
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay đặc biện là giai đoạn hội
nhập quốc tế này, nền kinh tế, xã hội đang đòi hỏi những lao động mới có chất lượng
cao hơn, thích ứng nhanh hơn, nhạy bén với cuộc sống. Là một sinh viên năm nhất của
trường đại học kinh tế Quốc dân, qua việc nghiên cứu cặp phạm trù bản chất và hiện
tượng, bản thân em đã củng cố, xây dựng thêm cho mình được một nền tảng thế giới
quan vững chắc hơn để giúp em định hướng nguyên tắc và vận dụng tư duy, chuẩn bị
hành trang tương lai để áp dụng vào trong nghiên cứu và trong cuộc sống. 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Hội Đồng biên soạn giáo trình môn Triết học Mác
– Lênin, Hà Nội – 2019
2. Giáo trình Triết học Mác – Lênin, Bộ giáo dục và đào tạo
3. V.I.Lênin: "Toàn tập", Nxb Tiến bộ, Matxcova, 1981 4. Wikipedia: - https://vi.wikipe-
dia.org/wiki/T%E1%BB%93n_t%E1%BA%A1i_x%C3%A3_h%E1%BB%99i - https://vi.wikipe-
dia.org/wiki/%C3%9D_th%E1%BB%A9c_x%C3%A3_h%E1%BB%99i 14