













Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: “Quan điểm duy vật lịch sử về vai trò của con người và sự vận dụng quan
điểm đó vào việc phát triển con người và kinh tế ở Việt Nam” Họ và tên: Vũ Tuấn Anh Mã số sinh viên: 9 Lớp TC: LLNL1105(123)_22
GV hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng Hà Nội, 14/12/2023 lOMoAR cPSD| 44985297 A. Lời mở đầu
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn nhân loại. Làn sóng văn
minh thứ ba đang đưa loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra bao khả năng để họ
tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó sự tan rã của hệ
thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm con đường khả
quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam, càng dễ đi đến phủ nhận vai
trò và khả năng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong thực tế, không ít người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó trong
chủ nghĩa tư bản. Nhiều người trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con người trong
các tôn giáo và hệ tư tưởng truyền thống, con người lại “sáng tạo” ra những tư tưởng,
tôn giáo mới cho “phù hợp” hơn với con người Việt Nam hiện nay. Song nhìn nhận
lại một cách thật sự khách quan và khoa học sự tồn tại của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong xã hội ta, có lẽ không ai phủ nhận được vai trò ưu trội và triển vọng của nó
trong sự phát triển con người.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con
người tại hội nghị lần thứ tư của ban chấp hành trung ương khoá VII, Đảng ta đã đề
ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư
cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. Do nhận thức được tầm quan trọng
của vấn đề con người, em đã chọn đề tài: “Quan điểm duy vật lịch sử về vai trò của
con người và sự vận dụng quan điểm đó vào việc phát triển con người và kinh tế ở
Việt Nam”. B. Nội dung.
I. Cơ sở lý luận của triết học Mác – Lênin về con người.
1. Con người và bản chất con người. 1.1.Con người.
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện
chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con
người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên là một trong những phương
diện cơ bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu, khám phá khoa học
về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan
trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình
trong mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.
1.2. Bản chất của con người.
1.2.1. Quan điểm của các nhà triết học trước Mác về con người. lOMoAR cPSD| 44985297
Có thể nói vấn đề con người là một trong những vấn đề quan trọng nhất của
thế giới từ trước tới nay. Đó là vấn đề mà luôn được các nhà khoa học, các nhà nghiên
cứu phân tích một cách sâu sắc nhất. Không những thế trong nhiều đề tài khoa học
của xã hội xưa và nay thì đề tài con người là một trung tâm được các nhà nghiên cứu
cổ đại đặc biệt chú ý. Các lĩnh vực tâm lý học, sinh học, y học, triết học, xã hội
học,…Từ rất sớm trong lịch sử đã quan tâm đến con người và không ngừng nghiên
cứu về nó. Mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó đều có ý nghĩa riêng đối với sự hiểu biết và làm lợi cho con người.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con
người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn
trong chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là một
tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con người là bản
chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể của muôn loài.
Chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn.
Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là do thượng đế sinh ra; quy
định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hồn con người tồn tại mãi mãi. Chủ
nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác quyết định và chi phối phần hồn,
không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình nhận thức đó không ngừng được phát
hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra được bản chất của con người và không
ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người trên
cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy vật máy
móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học chủ nghĩa
duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm giác của cái
tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khác cho rằng cái tôi không có khả
năng vượt quá cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu ớt, phụ thuộc đấng
tối cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng tạo của lý tính người,
mặt khác coi con người, mặt khác coi con người là sản phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan điểm
triết học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen quan
niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do đó đời
sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh thần Song Heghen cũng là người đầu
tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần mà phát hiện ra
quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng thời Heghen cũng đã
nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật cơ bản của quá trình đó. lOMoAR cPSD| 44985297
Tóm lại: Các quan niệm triết học nói trên đã đi đến những cách thức lý luận
xem xét người một cách trừu tượng. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn
thành con người trừu tượng. Tự ý thức còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối
hoá phần xác thành con người trừu tượng. Tuy nhiên họ vẫn còn nhiều hạn chế, các
quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người.
1.2.2. Con người là chủ thể sinh động nhất của xã hội.
Sự “sinh động” ở đây có nghĩa là con người có thể chinh phục tự nhiên, cải
tạo tự nhiên. Tuy rằng con người đã bỏ xa giới động vật trong quá trình tiến hoá
nhưng như thế không có nghĩa là con người đã lột bỏ tất cả những cái tự nhiên để
không còn một sự liên hệ nào với tổ tiên của mình. Con người là sản phẩm tự nhiên,
là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh, đã là con người thì phải
trải qua giai đoạn sinh trưởng, tử vong, mỗi con người đều có nhu cầu ăn, mặc ở,
sinh hoạt... Song con người không phải là động vật thuần tuý như các động vật khác
mà xét trên khía cạnh xã hội thì con người là động vật có tính xã hội, con người là
sản phẩm của xã hội, mang bản tính xã hội. Những yếu tố xã hội là tất cả những quan
hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau,
những quy định về mặt xã hội tạo nên con người. Con người chỉ có thể tồn tại được
khi tiến hành lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu mình và
hình thức lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành con người và ý thức. Lao
động là nguồn gốc duy nhất của vật chất, vật chất quyết định tinh thần theo logic thì
lao động là nguồn gốc của văn hoá vật chất và tinh thần.
Mặt khác trong lao động con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản xuất,
đó là những quan hệ nền tảng để từ đó hình thành các quan hệ xã hội khác trong các
lĩnh vực đời sống và tinh thần.
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn con người
sản xuất và của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con người là
chủ thể cải tạo tự nhiên. Như vậy con người vừa do tự nhiên sinh ra, bị phụ thuộc
vào tự nhiên vừa tác động vào tự nhiên. Tình cảnh thống trị tự nhiên chỉ có con người
mới khắc phục được tự nhiên bằng cách tạo ra những vật chất, hiện tượng không như
tự nhiên vốn có bằng cách đó con người đã biến đổi bộ mặt của tự nhiên, bắt tự nhiên
phải phục vụ con người. Tuy nó là sản phẩm của tự nhiên. Một điều chắc chắn rằng
có con người chỉ có thể thống trị tự nhiên nếu biết tuân theo và nắm bắt các quy luật
của chính bản thân nó. Quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng tạo ra lịch sử cho
mình. Con người không những là sản phẩm của xã hội mà con người còn là chủ thể
cải tạo chúng. Bằng mọi hoạt động lao động sản xuất con người sáng tạo ra toàn bộ
nền văn hoá vật chất, tinh thần. Bằng hoạt động cách mạng. Con người đánh dấu
thêm các trang sử mới cho chính mình mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo lOMoAR cPSD| 44985297
những quy luật khách quan song quá trình vận động của con người luôn xuất phát từ
nhu cầu, động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đó đã tìm
cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật cho phù hợp với nhu cầu
và mục đích của mình. Nếu không có con người với tư cách là chủ thể sinh động
nhất của xã hội thì không thể có xã hội, không thể có sự vận động của xã hội mà
vượt lên tất cả chính là của cải vật chất.
2. Quan điểm chủ nghĩa Mác về con người và vai trò của con người.
2.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác về con người.
Chủ nghĩa xã hội do con người và vì con người. Do vậy, hình thành mới quan
hệ đúng đắn về con người về vai trò của con người trong sự phát triển xã hội nói
chung, trong xã hội chủ nghĩa nói riêng là một vấn đề không thể thiếu được của thế giới quan Mác - Lênin.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin con người là khái niệm chỉ những cá thể người
như một chỉnh thể trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó. Con
người là sản phẩm của sự tiến hoá lâu dài từ giới tự nhiên và giới sinh vật. Do vậy
nhiều quy luật sinh vật học cùng tồn tại và tác động đến con người. Để tồn tại với tư
cách là một con người trước hết con người cũng phải ăn, phải uống... Điều đó giải
thích vì sao Mác cho rằng con người trước hết phải ăn, mặc ở rồi mới làm chính trị.
Mác và Anghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết học
đi trước rằng. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội,
nhưng khác với họ, Mác, Anghen; xem xét mặt tự nhiên của con người, như ăn, ngủ,
đi lại, yêu thích... Không còn hoàn toàn mang tính tự nhiên như ở con vật mà đã
được xã hội hoá. Mác viết: “Bản chất của con người không phải là một cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất của con người
là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội” con người là sự kết hợp giữa mặt tự nhiên
và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người với con vật, so sánh con người
với những con vật có bản năng gần giống với con người... Và để tìm ra sự khác biệt
đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh
hoạt của mình, con người biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là
thước đo của vạn vật, con người sản xuất ra công cụ sản xuất...
Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất được xem là
luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con người.
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã
hội” Mác hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố và đặc điểm sinh học
của con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con người đơn thuần như một phần của lOMoAR cPSD| 44985297
giới tự nhiên còn bỏ qua, không nói gì đến mặt xã hội của con người. Khi xác định
bản chất của con người trước hết Mác nêu bật cái chung, cái không thể thiếu và có
tính chất quyết định làm cho con người trở thành một con người. Sau khi nói đến
“Sự định hướng hợp lý về mặt sinh học” Lênin cũng chỉ bác bỏ các yếu tố xã hội
thường xuyên tác động và ảnh hưởng to lớn đối với bản chất và sự phát triển của con
người. Chính Lênin cũng đã không tán thành quan điểm cho rằng mọi người đều
ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện một sự bình đẳng về sức lực và tài
năng con người thì đó là một điều ngu xuẩn... Nói tới bình đẳng thì đó luôn luôn là
sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị chứ không phải là sự bình đẳng về thể lực
và trí lực của cá nhân”.
Để khẳng định cho tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự thay
thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển
toàn diện của con người làm thước đo chung cho sự phát triển xã hội, Mác cho rằng
xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được quy định bởi sự phát triển của
lực lượng sản xuất xã hội bao gồm con người và những công cụ lao động do con
người tạo ra, sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, tự nó đã nói lên trình độ
phát triển của xã hội qua việc con người đã chiếm lĩnh xã hội và sử dụng ngày càng
nhiều lực lượng tự nhiên với tư cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính
con người và quyết định quan hệ giữa người với người trong sản xuất. Sản xuất ngày
càng phát triển tính chất xã hội hoá ngày càng tăng. Việc tiến hành sản xuất tập thể
bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do nó mang lại
sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới. Những con người có năng lực phát triển
toàn diện và đến lượt nó, nền sản xuất sẽ tạo nên những con người mới, sẽ làm nên
những thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát
triển của mình theo Mác "phát triển sản xuất vì sự phồn vinh của xã hội, vì cuộc sống
tốt đẹp hơn cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội và phát triển con người toàn
diện là một quá trình thống nhất để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội" để sản xuất
ra những con người phát triển toàn diện hơn nữa, Mác coi sự kết hợp chặt chẽ giữa
phát triển sản xuất và phát triển con người là một trong những biện pháp mạnh mẽ để cải biến xã hội.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất là yếu tố hàng
đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà hơn nữa,
con người còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử. Thông qua
hoạt động sản xuất vật chất con người sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử của xã
hội loài ngoài. Từ quan niệm đó Mác khẳng định sự phát triển của lực lượng sản xuất
xã hội có ý nghĩa là sự phát triển phong phú bản chất con người, coi như là một mục
đích tự thân. Bởi vậy theo Mác ý nghĩa lịch sử mục đích cao cả của sự phát triển xã lOMoAR cPSD| 44985297
hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá con người, giải
phóng con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người để con người được sống với
cuộc sống đích thực. Và bước quan trọng nhất trên con đường đó là giải phóng con
người về mặt xã hội.
Điều đó cho thấy trong quan niệm của Mác thực chất của tiến trình phát triển
lịch sử xã hội loài người là vì con người, vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho
con người, phát triển con người toàn diện và giải phóng con người, nói theo Anghen
là đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do, con người
cuối cùng cũng là người tôn tại của xã hội của chính mình, đồng thời cũng trở thành
người chủ của tự nhiên, người chủ bản thân mình. Đó là quá trình mà nhân loại đã
tự tạo ra cho mình những điều kiện, những khả năng cho chính mình nhằm đem lại
sự phát triển toàn diện, tự do và hài hoà cho mỗi con người trong cộng đồng nhân
loại tạo cho con người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính mình.
Quan niệm của Mác về định hướng phát triển xã hội lấy sự phát triển của con
người làm thước đo chung càng được khẳng định trong bối cảnh lịch sử của xã hội
loài người. Ngày nay loài người đang sống trong bối cảnh quốc tế đầy những biến
động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức rõ ràng tính đa dạng trong các hình
thức phát triển của nó xã hội loài người kể từ thời tiền sử cho đến nay bao giờ cũng
là một hệ thống thống nhất tuy nhiên cũng là một hệ thống hết sức phức tạp và chính
vì sự phức tạp đó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế xã hội
ở các nước, các khu vực khác nhau. Đến lượt mình, tính không đồng đều của sự phát
triển này lại hình thành nên một bức tranh nhiều màu sắc về định hướng nào, thì mọi
định hướng phát triển vẫn phải hướng tới giá trị nhân văn của nó - tới sự phát triển con người.
2.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác về vai trò của con người.
2.2.1. Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định đối với mọi tiến trình lịch sử.
Và vai trò đó được thể hiện ở ba mặt: -
Một là quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp
sảnxuất ra của cải vật chất – cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Không có
người trực tiếp sản xuất sẽ không có của cải vật chất, không có đời sống vật chất, và
do đó cũng không có đời sống tinh thần, không có xã hội, không có lịch sử. -
Hai là quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội.Thực tế lịch sử chứng tỏ rằng, không có sự chuyển hoá chế độ và cách mạng xã
hội nào trong lịch sử mà không có hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. lOMoAR cPSD| 44985297
Trong mọi cuộc cách mạng xã hội, vai trò của quần chúng, tính tích cực của quần
chúng được nâng cao rõ rệt. Trong những thời điểm lịch sử đó, tính sáng tạo và sức
mạnh của quần chúng là động lực trực tiếp và mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội. -
Ba là, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá – tinh
thầncủa xã hội. Điều này được thể hiện ở chỗ: Quần chúng nhân dân là người sáng
tác về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức…;
Hoạt động thực tiễn và cuộc sống của quần chúng nhân dân là nguồn cảm hứng vô
tận cho các thiên tài của văn hoá và khoa học; hơn nữa, giá trị của các tác giả lớn,
cũng như thiên tài loài người chỉ được xác định nếu nó được quần chúng chấp nhận
và phổ biến trong cuộc sống của họ.
Tóm lại, xét trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật
chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định
trong lịch sử. Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của các thời đại lịch sử khác
nhau mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân có thể biểu hiện khác nhau. Dưới
chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và
trí tuệ sáng tạo của mình. Nhưng, sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ được phát
huy khi họ được hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo. Nói rõ hơn, vai trò sáng tạo ra lịch
sử của quần chúng nhân dân không tách rời vai trò của lãnh tụ.
2.2.2. Vai trò của lãnh tụ trong lịch sử.
Trong lịch sử thì vai trò của lãnh tụ rất quan trọng, nó được biểu hiện ở chỗ: -
Một là, lãnh tụ có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội. Nếu lãnh tụ
nhậnthức được những quy luật vận động của xã hội, trên cơ sở đó định hướng đúng
đắn phong trào cách mạng thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển; ngược lại, nếu lãnh tụ
không nắm bắt được xu thế vận động của dân tộc, thời đại thì sẽ kìm hãm sự phát
triển đối với xã hội, thậm chí có thể dẫn lịch sử trải qua những bước quanh co, phức tạp. -
Hai là, lãnh tụ thường là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là
linhhồn của tổ chức xã hội. Do đó, lãnh tụ là người sáng lập, quản lý, điều khiển các
tổ chức xã hội và có vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các tổ chức đó. -
Ba là, lãnh tụ còn là tấm gương mẫu mực để quần chúng phấn đấu, học tập
nhằmnâng cao nhân cách của các thành viên trong tổ chức. Sau khi hoàn thành vai
trò của mình, lãnh tụ trở thành biểu tượng tinh thần sống mãi trong tình cảm và niềm
tin (tâm khảm) của quần chúng nhân dân. lOMoAR cPSD| 44985297
II. Vận dụng quan điểm của triết học Mác – Lênin vào công cuộc phát triển con
người và kinh tế ở Việt Nam.
1. Thực trạng của vấn đề đào tạo, sử dụng và phát triển con người ở Việt Nam.
Xét về mặt tổng thể mà nói thì sau 10 năm thực hiện công nghiệp hóa – hiện
đại hóa, chúng ta đã đi những bước vững chắc và quan trọng, tạo tiền đề cho quá
trình phát triển sau này. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được xác định
rõ hơn. Nhưng nhìn lại nguồn lực con người Việt Nam chúng ta không khỏi băn
khoăn lực lượng lao động tuy dồi dào, cần cù, sáng tạo song chất lượng còn hạn chế,
sự bất hợp lý về phân công lao động, khó khăn về phân bố dân cư. Theo thống kê
năm 1989 cho thấy ; nguồn lao động phân bố không đồng đều giữa các ngành các
vùng :80% ở nông thôn ,70% làm trong lĩnh vực nhà nước; 14% sống, làm việc trong
khu vực nhà nhà nước ; 10% lao động tiểu thủ công nghiệp; 90% lao động thủ công.
Theo một số nhận định thì trong những năm đầu của thế kỷ này tình trạng dư
thừa lao động vẫn diễn ra. Lao động ở nước ta chủ yếu là lao động phổ thông, lao
động nhàn rỗi trong nông nghiệp công nhân phần biên chế... Song do nhu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa yêu cầu con người lao động phải có tay nghề, có chuyên
môn thì vấn đề việc làm một nan giải.
Trong một số năm gần đây trí thức Việt Nam phát triển nhanh cả về số lượng
và chất lượng. Hiện nay cả nước có khoảng trên 80 vạn trí thức đã đóng góp rất lớn
trong quá trình xây dựng đất nước. Song so với yêu cầu thực tế của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa thì con số đó quả là khiêm tốn và chất lượng còn hạn chế.
Không những thế, đội ngũ tri thức ở nước ta còn phân bố không đều phần lớn
tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội... và một số trung tâm công nghiệp khác.
Điều đó là do tác động của cơ chế thị trường đối với sự phân công lao động trong cả
nước. Do chính sách đầu tư không đảm bảo cân đối giữa các ngành, giữa các vùng
nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Ở những vùng này rất ít trí thức mà nếu có thì
chất lượng rất hạn chế do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan do yếu tố
tâm lý của người dân tộc nên việc bồi dưỡng, nâng cao việc giáo dục đào tạo lại chưa
được chú ý một cách thoả đáng.
2. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng.
Chưa có một cơ quan tổ chức cụ thể phát triển và đào tạo nguồn nhân lực.
Buông lỏng quản lý cơ cấu đào tạo để phát triển tự phát theo nhu cầu của người dân,
còn nặng tâm lý khoa cử chưa quan tâm đến thực nghiệm. Việc đào tạo chưa bám sát
cơ cấu lao động, một bộ phận xã hội nhận thức chưa đúng với sứ mệnh đào tạo nghề
của giáo dục đại học. lOMoAR cPSD| 44985297
Mặt khách quan: thị trường lao động chủ mới hình thành làm cho đào tạo của
nước ta chưa bám sát vào cơ cấu lao động. Chưa có một chiến lược đào tạo và quản
lý nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của thị trường lao động nói riêng và
toàn bộ nền kinh tế nói chung.
3. Giải pháp phát triển con người trong thời đại mới ở Việt Nam.
3.1. Đào tạo trước sự đòi hỏi của kinh tế tri thức.
Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại với đặc trưng là cách mạng tri
thức, cách mạng thông tin phát triển như vũ bão, đang tạo ra những thay đổi mạnh
mẽ, sâu sắc trong mọi hoạt động của xã hội loài người, từ cách sản xuất kinh doanh,
tổ chức quản lý, đến quan hệ xã hội, văn hóa, lối sống, làm thay đổi cả những khái
niệm và phương pháp tư duy. Xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức đang hình thành
và phát triển, loài người đang bước vào nền văn minh trí tuệ. Con người phải có đủ
năng lực để thích nghi và thúc đẩy xu thế phát triển đó. Nước nào không có nguồn
nhân lực tài năng sẽ bị gạt ra ngoài lề. Trên phạm vi toàn thế giới đang diễn ra một
cuộc cải cách giáo dục sâu rộng để thích ứng với sự phát triển mới.
Nhân tố cơ bản nhất để phát triển nền kinh tế tri thức là nguồn nhân lực chất
lượng cao dựa trên nền giáo dục tiên tiến. Kinh tế tri thức có nhiều khác biệt cơ bản
so với kinh tế công nghiệp, do đó đòi hỏi phải đổi mới, cải cách nền giáo dục. Bởi
vì, thứ nhất, trong nền kinh tế tri thức vốn tri thức trở thành yếu tố quan trọng nhất
của sản xuất, hơn cả lao động và tài nguyên; giáo dục - đào tạo với chức năng tạo ra
và nhân lên vốn tri thức trở thành ngành sản xuất cơ bản nhất. Do đó, vị trí, vai trò
của giáo dục thay đổi cơ bản. Thứ hai, sáng tạo đã trở thành động lực quan trọng
nhất. Nếu như trong nền kinh tế công nghiệp hiện nay, năng lực cạnh tranh và việc
tạo ra giá trị mới chủ yếu là do hoàn thiện, tối ưu hóa cái đã có, thì trong nền kinh tế
tri thức việc nâng cao năng lực cạnh tranh chủ yếu là do sáng tạo ra cái mới. Cái có
giá trị nhất là cái chưa biết, cái đã biết thì dần sẽ mất đi. Con người không có năng
lực thì không có chỗ đứng trong nền kinh tế tri thức. Thứ ba tốc độ đổi mới rất nhanh.
Trong nền kinh tế công nghiệp, sản phẩm có thể tính bằng thập kỷ, con trong nền
kinh tế tri thức, chu kỳ tính bằng năm, thậm chí bằng tháng. Sản phẩm mới tăng lên
không ngừng, vòng đời công nghệ và sản phẩm rút ngắn, tốc độ đổi mới ngày càng
tăng nhanh trong tất cả các ngành, các doanh nghiệp. Tốc độ trở thành cái trên hết,
người ta làm việc theo tốc độ của tư duy. Các doanh nghiệp buộc phải đổi mới, doanh
nghiệp nào không kịp thời đổi mới sẽ bị tiêu vong. Cứ mỗi sáng chế mới ra đời là
xuất hiện một doanh nghiệp mới, đó là những doanh nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp khoa học. lOMoAR cPSD| 44985297
Hoạt động chính trong nền kinh tế tri thức là tạo ra, truyền bá và sử dụng tri
thức. Tạo ra tri thức là mục đích của các hoạt động nghiên cứu sáng tạo do những
người được đào tạo tốt tiến hành. Truyền bá tri thức tức là nhân lên vốn tri thức, làm
cho vốn tri thức xã hội tăng lên nhanh chóng, đó chính là nhiệm vụ chủ yếu của giáo
dục. Giáo dục góp phần vào việc tạo ra tri thức đồng thời góp phần quảng bá tri thức.
Vì vậy, người ta coi giáo dục là ngành sản xuất cơ bản nhất trong nền kinh tế tri thức.
Sử dụng tri thức là quá trình đổi mới, biến tri thức thành giá trị, đưa tri thức vào
trong hoạt động xã hội của con người. Đó cũng là nhiệm vụ của giáo dục đặc biệt là
giáo dục thường xuyên. Trong thời đại cách mạng thông tin, cách mạng tri thức quá
trình tạo ra tri thức, truyền bá tri thức và sử dụng tri thức không còn là quá trình kế
tiếp nhau mà trở thành đan xen nhau, tương tác nhau; và cái quan trọng nhất là sử
dụng tri thức, biến tri thức thành giá trị. Giáo dục phải tạo ra con người có tri thức
và biết sử dụng tri thức trong hoạt động thực tiễn để tạo ra nhiều giá trị mới.
3.2. Cải cách giáo dục để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đảng ta từ rất sớm đã quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo, coi giáo dục
- đào tạo cùng với khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đến nay đã có hơn
20% số người lao động qua đào tạo trong số đó có khoảng 1,5 triệu người tốt nghiệp
đại học và cao đẳng: 14 nghìn tiến sĩ và 16 nghìn thạc sĩ. Tuy nhiên trước yêu cầu
hội nhập nền kinh tế tri thức toàn cầu hóa, yêu cầu “đi tắt đón đầu” thì con số trên là
chưa đủ. So với các nước trong khu vực, nguồn nhân lực của nước ta còn thua kém
về số lượng, cơ cấu cũng như về trình độ, năng lực.
Để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu, trước hết Nhà nước phải có chính
sách trọng dụng nhân tài, thực sự coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, tạo điều kiện
làm việc thuận lợi, phát huy năng lực của những cán bộ giỏi, đầu đàn trong các lĩnh
vực (khoa học – công nghệ, quản lý kinh doanh, văn học – nghệ thuật, các nghệ
nhân…). Thực hiện việc đánh giá đúng và trả thù lao xứng đáng với kết quả lao động
sáng tạo của đội ngũ tri thức, không để lẫn lộn người có tài với kẻ bất tài; có chính
sách tích cực để khuyến khích cán bộ khoa học tiến thân bằng những cống hiến do
năng lực chuyên môn của mình. Xây dựng và thực hiện cơ chế đánh giá, tuyển chọn,
sử dụng, sàng lọc hợp lý; thường xuyên giáo dục chính trị, đạo đức, không ngừng
nâng cao chất lượng toàn diện của đội ngũ trí thức. Có sử dụng tốt thì mới có giáo
dục tốt. Có trọng dụng người tài thì mới có nhiều người tài.
Nền giáo dục nước ta phải thực sự đổi mới để đảm bảo đào tạo được một thế
hệ trẻ có đủ năng lực làm chủ đất nước. Không có nền giáo dục tốt thì không tạo
dựng được nội sinh về khoa học – công nghệ để trụ vững trong xu thế hội nhập và
toàn cầu hóa hiện nay nhằm phát triển nhanh đất nước. Ai đó còn nghĩ rằng nếu có lOMoAR cPSD| 44985297
nhiều vốn thì có thể mua tri thức được tri thức, mua công nghệ của nước ngoài để
phát triển, thì hãy nhìn lại bài học không thành công ở một số nước giàu tài nguyên
mà không có năng lực nội sinh về khoa học – công nghệ. Truy cập vào kho tri thức
toàn cầu, mua công nghệ là việc nhất thiết phải làm đối với những nước đi sau, nhưng
nếu không có đủ năng lực tri thức nội sinh thì chỉ có được tăng trưởng nhất thời, sau
đó là sự tụt hậu và lệ thuộc.
Nền giáo dục phải thực hiện được ba nhiệm vụ cơ bản. Một là, nâng cao mặt
bằng dân trí, mỗi người dân đều có khả năng nắm bắt và vận dụng những tri thức
mới cần thiết cho công việc của mình. Mặt bằng dân trí phải theo kịp mức các nước
tiên tiến trong khu vực. Hai là, phải đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng cao
thích nghi với sự đổi mới và phát triển nhanh, đáp ứng được nhu cầu rút ngắn quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa vào tri thức. Ba là, phải chăm lo bồi dưỡng
và phát triển đội ngũ nhân tài. Nếu đến năm 2010 nước ta không có được ít nhất một
vạn các chuyên giỏi, đầu đàn trong tất cả các lĩnh vực thì khó tạo được bước chuyển
biến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế theo hướng dựa vào tri thức. C. Kết luận.
Trong các kỳ đại hội VI, VII, VIII của Đảng ta đã chủ trương xã hội nước ta
trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt
bởi chủ trương đó xuất phát từ trình độ và hoàn cảnh cụ thể của đất nước ta về các
mặt. Chúng ta, thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế
đất nước đã khơi dậy năng lực sáng tạo, tính chủ động của con người phát triển. Do
đó, mà nền kinh tế của chúng ta đã thực sự được đổi mới và đạt được những thành
tựu to lớn. Từ một nước nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về khoa học kỹ thuật,
đói kém, thì nay ta đã đảm bảo cho dân được ăn no, và còn có sản phẩm dư thừa để xuất khẩu.
Mặc dù vậy, chúng ta vẫn còn rất nhiều khó khăn ở phía trước đòi hỏi nhà
nước phải có chính sách, biện pháp khắc phục để cho sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phát triển kinh tế đất nước đạt được kết quả.
Hơn nữa, chúng ta phải đặt vấn đề nhân lực con người lên hàng đầu phát triển
đồng bộ giữa các ngành, giữa các vùng, đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý đảm bảo công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nhanh. Phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý về
kinh tế có trình độ, năng lực quản lý, có tư cách đạo đức tốt điều đó đòi hỏi ta phải lOMoAR cPSD| 44985297
có sự giáo dục đào tạo thế hệ trẻ ngay từ khi còn là học sinh, sinh viên đó là nguồn
lực quý giá cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. MỤC LỤC
A. Lời mở đầu……………………………………………………………………
B. Nội dung……………………………………………………………………..1
I. Cơ sở lí luận của triết học Mác – Lênin về con người……………………..1
1. Con người và bản chất con người……………………………………….1
2. Quan điểm chủ nghĩa Mác về con người và vai trò của con người ............... 5
II. Vận dụng quan điểm của triết học Mác – Lênin vào công cuộc phát triển
con người và kinh tế ở Việt Nam ............................................................................... 9
1. Thực trạng của vấn đề đào tạo, sử dụng và phát triển con người ở Việt
Nam…………………………………………………………………..8 ................... 9
2. Nguyên nhân dẫn tới thực trạng .................................................................... 9
3. Giải pháp phát triển con người trong thời đại mới ở Việt Nam .................. 10
C. Kết luận………………………………………………………………………12
D. Tài liệu tham khảo……………………………………………………………… lOMoAR cPSD| 44985297
D. Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác - Lênin của NXB chính trị quốc gia (tập I, tập II).
2. Giáo trình kinh tế chính trị học của NXB giáo dục 1996.
3. Tài liệu học tập lý luận chính trị phổ thông (NXB chính trị quốc gia (tập 1). 4. Tạp chí cộng sản.
5. Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới kỷ yếu hội nghị khoa học từ 28 29 /7/1993. Tại TPHCM.
6. Đảng CSVN – Cương lĩnh XH Đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. NXBSự thật, Hà Nội 1991
7. Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII.
8.Kinh tế tri thức- Xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI – NXB Chính trị quốc gia 2000.
9.https://www.studocu.com/vn/document/hoc-vien-ngan-hang/triet-hoc-mac-lenin/
tieu-luan-triet-hoc-quan-diem-cua-chu-nghia-mac-ve-con-nguoi/20476527 10.
https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-cong-nghe-thanh-pho-
hochi-minh/triet-hoc-mac-le-nin/123doc-quan-diem-triet-hoc-ve-con-nguoi-ppt/ 30405732
11.https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-kinh-te-quoc-dan/triet-1/vaitro-
cua-quan-chung-nhan-dan-va-lanh-tu/48240129
12.https://luatminhkhue.vn/khai-niem-quan-chung-nhan-dan-vai-tro-cua-
quanchung-nhan-dan-theo-quan-diem-triet-hoc-mac-lenin.aspx
13.https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-ton-duc-thang/triet-
hoc/tieuluan-triet-hoc-ve-con-nguoi/31725289