Quan điểm sáng tạo về cách mạng giảiphóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Bách Khoa Hà Nội

Quan điểm sáng tạo về cách mạng giảiphóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh | Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh | Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----- ----- 
Bài tiểu luận
Quan điểm sáng tạo về cách mạng giải
phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Giảng viên hướng dẫn: TS. Hà Thị Dáng Hương
Bộ môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (SSH1151)
Nhóm sinh viên:
STT Họ và Tên MSSV Mã lớp BT
Hà Nội, 06/2021
1 Đặng Hữu Hiếu 20203416 123833
2 Phạm Bá Minh Hiếu 20203707 123833
3 Đậu Minh Hoàng 20203429 123833
4 Trần Sỹ Hoàng 20203435 123833
Mục lục
A.Phần mở đầu………………………………………………………………1
B.Phần nội dung……………………………………………………………..2
I.Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh………………………………….……..……2
II.Cơ sở hình thành quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc……………………………………………………….………...3
1. Cơ sở lý luận………………………………………………….………..3
2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………….…..….....3
III.Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc……………………………………………………………….………..4
1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc…………………………...4
2. Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô
sản mới giành được thắng lợi hoàn toàn……………………………….……..5
3. Cách mạng giải phóng dân tộc thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo…………………………………………………………………..…...7
4. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên
cơ sở liên minh công nông………………………………………………..…..8
5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc…...…..9
6. Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương pháp cách
mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang………..….10
7. Cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải gắn bó chặt chẽ với
cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của thế giới trên cơ sở tự lực
cánh sinh………………………………………………………………..…….11
IV. Phân tích sự thay đổi giữa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và những người cách mạng đi trước………..
…………………………..……………….12
C.Phần kết thúc………………….
…………………………………………..14
Tài liệu tham
khảo…………………………………………………………..15
0
A.Phần mở đầu
I. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, dưới ngọn cờ cách mạng do Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo, đất nước ta đã tiến hành một loạt bước tiến vĩ đại, mở đầu là
cuộc Cách mạng Tháng Tám và sự thành lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa vào năm 1945. Việc này đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc
Việt Nam-kỷ nguyên của sự tự do. Nó là minh chứng cho tài năng và sự sáng
suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc dẫn dắt nhân dân Việt Nam, cách kết
vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Marx-Lenin về cách mạng giải phóng dân
tộc vào hoàn cảnh cách mạng thực tiễn ở Việt Nam. Đây là một điều mà những
Nhà cách mạng đi trước đã không thể thực hiện được, hoặc thực hiện một cách
triệt để. Vậy đâu là những điểm khác biệt, những đổi mới trong cách tư duy,
cách nghĩ của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
II. Mục đích của đề tài
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là để tìm hiểu về những tư
tưởng tiến bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc lãnh đạo nhân dân ta
đi đến chiến thắng để dành độc lập, để đánh đuổi thù trong, giặc ngoài, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, đề tài cũng giúp chúng ta hiểu
hơn về con người của Bác, con người một lòng vì đại cục cho dân tộc
III. Cách thức nghiên cứu
Phương pháp luận biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử, phương
pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh.
1
B. NỘI DUNG
I. Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là
Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc), sinh ngày 19/5/1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên (nay là
xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; mất ngày 02/9/1969 tại Hà Nội.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa
phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh
đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên
của mình, Hồ Chí Minh đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những
phong trào đấu tranh chống thực dân, Hồ Chí Minh sớm có chí đuổi thực dân,
giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
Với ý chí và quyết tâm đó, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để
tìm con đường giải phóng dân tộc.
Ngày 03/6/1911, Nguyễn Tất Thành nhận thẻ nhân viên lên con tàu Admiral
Latouche-Treville với cái tên là Văn Ba. Hai ngày sau, 05/6/1911 con tàu rời
cảng Nhà Rồng đến Pháp.
Từ năm 1912 - 1917, dưới cái tên Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh đến nhiều
nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao
động. Qua thực tiễn, Hồ Chí Minh cảm thông sâu sắc cuộc sống khổ cực của
nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng
của họ. Hồ Chí Minh sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới và tích cực hoạt động nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc trong cuộc đấu
tranh giành độc lập, tự do.
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp, hoạt động trong phong trào
Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.
Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, thay mặt những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản yêu
sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân
dân các nước thuộc địa.
Từ năm 1919 đến 1941, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục hoạt động trong những
phong trào Cộng Sản ở nhiều nước trên thế giới.
Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước sau hơn 30 năm xa Tổ quốc
2
II. Cơ sở hình thành quan điểm sáng
tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc
1.Cơ sở lý luận.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được “Luận cương về
những vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lê Nin. Từ đây, người
sáng tỏ được nhiều điều và đã tìm ra con đường để giải phóng
dân tộc mình. Người đã rút ra kết luận: Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường
cách mạng vô sản. Đó là con đường cách mạng dân chủ kiểu
mới do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm
đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, dành độc lập dân tộc,
thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng
chủ nghĩa xã hội, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản ở Việt Nam. Đó là đường lối dâng cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạng thời đại nhằm đi tới mục tiêu cao cả là giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chủ
nghĩa Mác-Lê Nin đã trở thành cơ sở lý luận cho hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và cách mạng giải phóng dân tộc
nói riêng.
2.Cơ sở thực tiễn.
Năm 1958, thực dân Pháp xâm lược nước ta, bắt đầu đặt chế
độ hà khắc lên nhân dân ta, bóc lột, cướp bóc trắng trợn của cải
của nhân dân. Từ đó đất nước lầm than, nhân dân đói khổ. Đã
có nhiều phong trào cách mạng nổ ra, nhằm đánh đuổi thực dân
Pháp, đánh đổ triều đình phong kiến của nhà Nguyễn bất tài
nhưng tất cả đều đi vào bế tắc. Trước tình cảnh đó, năm 1911,
Nguyễn Ái Quốc đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Trong
suốt hơn 30 năm bôn ba nước ngoài, Người đã xây dựng được
con đường cứu nước cho nhân dân, đưa nhân dân thoát khỏi tối
tăm, cùng khổ. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa có sức bật thuận lợi vì:
Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa hết sức tàn bạo và
dã man của chủ nghĩa đế quốc ở nhiều nơi đã đẩy nhan dân
thuộc địa vào khó khưn, túng quẫn; Điều đó đã làm cho lòng
căm thù, tức giận chủ nghĩa đế quốc tư bản trong nhân dân
thuộc địa vô cùng sâu sắc.
3
Tinh thần yêu nước chân chính của các dân tộc là một sức
mạnh to lớn, một vũ khí tiềm ẩn của cách mạng giải phóng dân
tộc. Sức mạnh đó nếu được giác ngộ và soi đường sẽ tạo thành
một sức mạnh to lớn thật sự, có thể đánh đổ được chủ nghĩa tư
bản.
Hồ Chí Minh nhận thấy, thuộc địa là một khâu yếu nhất
trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước
ở thời hiện đại đã thực sự trở thành động lực giải phóng dân tộc.
Không chỉ vậy, Hồ Chí Minh đã phải rút ra những bài học,
đường lối từ các cuộc cách mạng của công nhân Pháp, và cách
mạng tháng 10 Nga 1917, bên cạnh đó là phong trào giải phóng
dân tôc của các nước thuộc địa trên thế giới. Người đã phân tích
đường lối, nguyên nhân thắng lợi và thất bại để nâng lên thành
quan điểm giải phóng dân tộc của mình. Đồng thời dựa trên
quan điểm thực tiễn cách mạng Việt Nam với sự phát triển của
phong trào yêu nước và phong trào công nhân ở nước ta III.
Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc.
III. Những quan điểm sáng tạo của
Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc.
1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
1.1. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa:
Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp thuộc địa khác với các nước
phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung
một số phận mất nước nên có chung số phận là người nô lệ mất nước.
Mâu thuẫn cơ bản ở các nước phương Tây là giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản, mâu thuẫn chủ yếu ở xã hội thuộc địa phương Đông là dân tộc bị áp bức với
chủ nghĩa thực dân. Do vậy “cuộc dấu tranh giai cấp không diễn ra giống như
các nước phương Tây”.
Đối tượng cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng
không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai
phản động.
Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã hội
mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa
đế quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột nói
chung.
4
Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ thực dân xâm lược với nhân dân các nước tư
bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước đế quốc phản đối chiến tranh
xâm lược, ủng hộ nhân dân các nươc thuộc địa đấu tranh giành độc lập.
Yêu cầu bức thiết của nhân dân thuộc địa là độc lập dân tộc.
Ở các nước thuộc địa, nông dân là nạn nhân chính bị boc lột bởi chủ nghĩa đế
quốc. Nông dân có hai yêu cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng luôn dặt
yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất. Hay nói cách khác
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng thuộc địa là: “Đấu tranh chống lại thực dân
xâm lược, giành lại độc lập dân tộc”.
Tính chất của cách mạng thuộc địa là thực hiện cách mạng tư sản kiểu mới
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng (5-1951) do Hồ Chí Minh
chủ trì, kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó là
“nhiệm vụ bức thiết nhất”.
Trong nhiều bài nói, bài viết Người khẳng định: “Trường kì kháng chiến nhất
định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định thành công”, “Tổ quốc ta nhất định
sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ xum họp một nhà”.
1.2. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc:
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.
Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi
riêng biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là những
mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập,
tự do của quần chúng nhân dân.
5-1941 Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành trung
ương Đảng, chủ trương “thay đổi chiến lược”, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp
sang đẫu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng định dứt khoát: “cuộc cách
mang Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà
là cuộc cách mạng phải giải quyết một vấn đề cần thiết “dân tộc giải phóng”, vì
vậy cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc”, đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và kinh tế.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi trong
30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 trước hết là thắng lợi của
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của
Hồ Chí Minh.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đưng cách mạng vô sản
mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Yêu nước và kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và nền
độc lập là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Mang trong mình khát
vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc
đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn -
5
con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), bởi theo Người: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là
dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”. Con đường giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là cuộc cách mạng toàn
diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng giai cấp, mà
gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Hồ Chí Minh nhận thấy phong trào yêu nước đấu tranh giành độc lập dân
tộc ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đều bị thất bại do các phong trào
này chưa tìm được đường lối đấu tranh đúng đắn do còn ảnh hưởng bởi hệ tư
tưởng phong kiến hay hệ tư tưởng tư sản. Cũng chính vì thế mà những phong
trào này không xác định rõ được nhiệm vụ của cuộc đấu tranh là giải quyết
những mâu thuẫn cơ bản nào, không có khả năng tập hợp được lực lượng toàn
dân tộc. Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng
vô sản ở chính quốc có chung 1 kẻ thù đó là chủ nghĩa đế quốc thực dân. Người
nhận định rằng: “Chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào
chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa, chúng bóc lột người lao động cả hai nơi.
Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi,
tức là phải thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.” Từ đó Hồ Chí Minh khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn
mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu
những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc
theo khuynh hướng vô sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo
quần chúng nhân dân. Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm
xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sau khi giành
độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH. Bên cạnh đó, Người dành nhiều tâm trí
vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở Việt Nam, hình thành
nên những quan điểm hết sức cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH từ
một nước thuộc địa, với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc
trưng bản chất của CNXH, mục tiêu và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một quá
trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác
nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con người, làm cho con người phát triển
toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là
độc lập dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề
6
đi tới CNXH. Không giành được độc lập dân tộc sẽ không có gì hết. Độc lập dân
tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề
đi lên CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do. Vì vậy, phải
xây dựng CNXH như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, để bảo vệ độc
lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao hơn của toàn bộ
tiến trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm của V.I.
Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng
XHCN, giữa hai giai đoạn đó không có một bức tường thành nào ngăn cách cả.
Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
đi theo con đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về
mặt lý luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vô sản, nhân
dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long trời lở đất”,
dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945). Trong
Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-9-1945, Hồ Chí
Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí
Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong
đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là
điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con
người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo
đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH. Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm trường kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng
tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần
lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực dân, đế quốc, giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ này, tất cả người dân
Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân.
Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam được
cộng đồng quốc tế đón nhận như là một trong những tư tưởng lớn của thời đại.
Hồ Chí Minh xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có chung 1 kẻ thù đó là chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Người nhận định rằng: “Chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa hai vòi, một vòi
bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa, chúng bóc lột người lao động
cả hai nơi. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt cả hai vòi
của nó đi, tức là phải thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở chính
quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.” Từ đó Hồ Chí Minh khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
7
đường cách mạng vô sản”. Như vậy cách mạng giải phóng dân tộc được dẫn dắt
bởi hệ tư tưởng Mác Lênin, là một cánh của cách mạng vô sản.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh
đạo.
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân
tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh...
Đảng có vững cách mệnh mới thành công...”. Đảng đó phải được xây dựng theo
nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I. Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác -
Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách
mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh,
tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc
thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc,
đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên được
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng
định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Điều đáng chú ý là, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của
toàn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Hồ Chí Minh
phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng của dân tộc
Việt Nam”. Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai
cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác -
Lênin; có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất
đạo đức trong sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề xuất phát
từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại. Đảng đó phải xây dựng
được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu dài, chân thành,
đoàn kết; trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc, mọi con dân nước Việt,
con Lạc cháu Hồng. Đảng đó còn biết tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến
bộ trên thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, vì mục tiêu
chung của nhân loại tiến bộ là: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh
nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng,
xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý, “ở Việt
Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt
Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước
8
vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh
quang, hạnh phúc”.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết
toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông.
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc là việc
chung của dân chúng, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông,
công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền, nhưng trong
sự tập hợp đó, luôn phải nhớ: “Công nông là người chủ cách
mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”.
Để đoàn kết toàn dân tộc, Người đã chủ trương xây dựng
Mặt trận thống nhất rộng rãi để liên kết sức mạnh toàn dân tộc
đấu tranh giành độc lập tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta là đánh
đổ đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai, vừa thực hiện
nhiệm vụ giai cấp, vừa thực hiện nhiệm vụ dân tộc. Do vậy,
Đảng cần phải hết sức liên lạc với tất cả các tầng lớp như : tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên…để giác ngộ cách mạng
cho họ. Còn với bọn trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam thì giữ
thái độ trung lập, lợi dụng. Đây chính là điểm sáng tạo của Hồ
Chí Minh. Trong khi, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
lực lượng của cách mạng chỉ là liên minh công nông, bó hẹp
trong giai cấp công nhân và nông dân thì theo quan điểm của
Người, lực lượng cách mạng được mở rộng hơn ra nhiều tầng
lớp, và đặc biệt là biết lợi dụng tầng lớp tiểu địa chủ, tư bản đã
giác ngộ. Ngoài ra, những bộ phận nào đã ra mặt phản động
cách mạng thì phải tiêu diệt hoàn toàn.
Như vậy, tổ chức chính trị có thể thực hiện việc quy tụ, tập
hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân là “Mặt trận dân tộc thống
nhất” dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tạo ra sức mạnh của cả
dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do; đấu tranh
chống lại kẻ thù là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến, tay
sai.
Đã có ý kiến cho rằng Hồ Chí Minh đã quá chú trọng đến
vấn đề dân tộc mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh. Thực
chất, trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp lực lượng, Hồ Chí
Minh luôn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: Công
nông là gốc cách mệnh, còn các tầng lớp khác chỉ là bầu bạn.
Liên lạc với các tầng lớp, giai cấp khác nhưng không được phép
nhượng bộ.
9
5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ
động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ
động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng
vô sản ở chính quốc. Đây là một luận điểm mới và sáng tạo của
Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ đã
từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa
phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính
quốc. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ
thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc
Mác – Ănghen chưa có điều kiện bàn nhiều về cách mạng
giải phóng dân tộc, các ông mới tập trung bàn về thắng lợi của
cách mạng vô sản. Năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời đã chú ý
tới cách mạng giải phóng dân tộc, nhưng còn đánh giá thấp vai
trò của nó và cho rằng thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ
thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Ngay
Tuyên ngôn ngày thành lập Quốc tế cộng sản có viết: “Công
nhân và nông dân không những ở An Nam, Angieri, Bengan mà
cả ở Ba Tư hay Acmenia chỉ có thể giành được độc lập khi mà
công nhân ở các nước Anh và Pháp lật đổ được Lôiit và
Clêmăngxô, giành chính quyền nhà nước vào tay mình”.
Cho đến tháng 9-1928, Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản vẫn
cho rằng: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng
thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư
bản tiên tiến”.
Vận dụng quan điểm của Lênin về mối quan hệ giữa cách
mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng ở thuộc
địa, vài tháng 6-1924, tại đại hội V của Quốc tế Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “vận mệnh của giai cấp vô sản thế
giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước di
xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp
bức ở các nước thuộc địa…nọc độc và sức sống của con rắn độc
tư bản chủ nghĩa đang tập trung vào các thuộc địa”. Vì vậy, nếu
khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết
rắn đằng đuôi”.
Trong Điều lệ của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế, Mác viết:
“Việc giải phóng giai cấp công nhân phải do chính giai cấp công
nhân giành lấy”. Vào năm 1925, khi nói với các dân tộc thuộc
địa, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: “Vận dụng công thức
Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải
10
phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản
thân anh em.”
Từ việc nhận thức được rằng, thuộc địa là khâu yếu nhất
trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước
chân chính ở thời hiện đại đã trở thành động lực của cách mạng
giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cách mạng giải
phóng ở thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc, rồi sau đó giúp đỡ cho những người
anh em của mình ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn.
Luận điểm sáng tạo này của Người đã được thực tiễn cách
mạng ở một số nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam chứng
minh là hoàn toàn đúng đắn và đã đóng góp vào sự phát triển
của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
6. Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng
phương pháp cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang.
Theo Mác, bạo lực là bà đỡ của mọi chính quyền ách mạng
vì giai cấp thống trị bóc lột không bao giờ tự giao chính quyền
cho lực lượng cách mạng. Thấm nhuần quan điểm đó của Mác,
Hồ Chí Minh đã khẳng định cách mạng bạo lực là sử dụng bạo
lực cách mạng của quần chúng nhân dân để chống lại bạo lực
phản cách mạng của bọn xâm lược cấu kết với những kẻ phản
động. Quán triệt quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân, Người cho rằng việc thực hiện phương pháp
cách mạng bạo lực ở Việt Nam nghĩa là kết hợp những hình thức
đấy tranh chính trị của quần chúng nhân dân với những hình
thức đấu tranh vũ trang phù hợp.
Nhưng Hồ Chí Minh đã sáng tạo và phát triển nguyên lý chủ
nghĩa Mác – Lênin về con đường bạo lực cách mạng.
Theo Người, khởi nghĩa vũ trang đương nhiên là phải dùng
vũ khí, chiến đấu bằng lực lượng vũ trang, nhưng không phải chỉ
là một cuộc đấu tranh quân sự, mà là nhân dân vùng dậy, dùng
vũ khí đuổi quân cướp nước . Đó là một cuộc đấu tranh to tát về
chính trị và quân sự, là việc quan trọng, làm đúng thì thành
công, làm sai thì thất bại.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực là sử dụng bạo lực
cách mạng của quần chúng nhân dân để chống lại bạo lực phản
cách mạng của bọn xâm lược cấu kết với những kẻ phản động.
Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của
giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại
11
bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền.
Tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung Ương VIII, Người cũng đã
đưa ra nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu
bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”.
Bởi vậy con đường cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh là
phải xây dựng lưc lượng chính trị và vũ trang, trước hết là lực
lượng chính trị. Thực hành con đường bạo lực của Hồ Chí Minh là
tiến hành đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, khi điều kiện
cho phép thì thực hành đấu tranh ngoại giao, đồng thời phải
biết kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và đấu
tranh ngoại giao để giành và giữ chính quyền.
Bên cạnh việc khẳng định cách mạng chỉ có thể thành công
bằng con đường bạo lực, Hồ Chí Minh cũng đề cao hòa bình.
Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng
con người, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ
chính quyền ít đổ máu. Người luôn tìm mọi cách để ngăn chặn
xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột
bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng,
chấp nhận nhượng bộ có nguyên tắc. Những hiệp định được kí
trong năm 1946 đã thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo và hòa bình
đồng thời thể hiện rõ sự sáng tạo trong đường lối cách mạng
của Người.Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo
hòa bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Người chủ trương yêu nước, thương dân, yêu thương con
người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả
năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể
tránh khỏi chuêns tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến
tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để giành, giữ và bảo
vệ hòa bình vì lý tưởng độc lập dự do.
7. Cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải gắn bó
chặt chẽ với cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của
thế giới trên cơ sở tự lực cánh sinh.
Quốc tế cộng sản đã khẳng đinh cách mạng Việt Nam nói
riêng và cách mạng Đông Dương nói chung là một bộ phận của
cách mạng vô sản trên toàn thế giới, gắn liền với cách mạng vô
sản của các nước Pháp, Nga…. Muốn giành được thắng lợi cuối
cùng, giai cấp vô sản các nước phải liên minh với nhau để tạo
thành một lực lượng thống nhất. Thấm nhuần tư tưởng đó, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
phải gắn bó chặt chẽ với phong trào giải phóng thuộc địa của
các nước khác trên thế giới.Cách mạng Việt Nam cần học hỏi
12
kinh nghiệm, con đường đúng đắn ở những nơi cách mạng đã nổ
ra và thành công (như cách mạng tháng 10 Nga), đồng thời phải
tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước khác.
Người đã kêu gọi các nước thuộc địa anh em thành lập Hội
liên hiệp các nước thuộc địa nhằm để tổng hợp sức mạnh chống
lại đế quốc. Tuy nhiên không vì thế là đâm ra ý lại, phụ thuộc
mà vẫn phải tự lực cánh sinh, tự lực tự cường. Tự lực cánh sinh
là một phương châm chiến lược hết sức quan trọng, nhằm phát
huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan của dân tộc. Như vậy,
cách mạng nước ta phải có sự kết hợp giữa sức mạnh quốc tế và
sức mạnh dân tộc để tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng
kẻ thù.
Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân
lao động,giải phóng giai cấp công nhân “ Chỉ có giải phóng giai
cấp vô sản thì mới phóng được dân tộc,cả hai cuộc giải phóng
này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách
mạng thế giới .Vì vậy phải tiến hành cách mạng một cách triệt
để”.Người luôn cho rằng Cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan
hệ khăng khít với nhau như hai cái cánh của thời đại,luôn phải
thực hiện khẩu hiệu của Lê nin: Vô sản toàn thế giới liên hiệp
lại.Điều đặc biệt quan trọng là Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ cách
mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc mà có tính chủ động độc lập.Cách mạng thuộc địa có thể
thành công trước cách mạng ở chính quốc và góp phần thúc đẩy
cách mạng ở chính quốc tiến lên.Đây là 1 quan điểm cách mạng
độc lập sáng tạo của người
IV. Phân tích sự thay đổi giữa quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
những người cách mạng đi trước.
Quan điểm cách mạng tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí
Minh có nhiều thay đổi và tiến bộ so với những nhà cách mạng
đi trước.
Với những nhà cách mạng đi trước:
Cụ Phan Bội Châu chọn con đường đi sang phương Đông
(Nhật Bản, Trung Quốc), đối tượng mà ông gặp gỡ là những
chính khách Nhật Bản để xin họ giúp Việt Nam đánh Pháp, chủ
trương đấu tranh bạo động.
13
Cụ Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước bằng biện pháp
cải cách, dựa vào Pháp để đánh đổ ngôi vua và bọn phong kiến
hủ bại, giành độc lập dân tộc.
Và kết quả là các con đường trên đều không thành công.
Còn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Từ những thực tế từ các nhà cách mạng đi trước, Người xác
định rõ quan điểm muốn dành được độc lập thì hoàn toàn dựa
vào sức của chính mình, sức của chính dân tộc ta, không thể
trông chờ vào sự giúp đỡ ở bên người như những tiền bối đi
trước.
Không chỉ vậy, thay vì sang các nước phương Đông, Người
lựa chọn sang các nước phương Tây vì Hồ Chí Minh biết đó là nơi
có tư tưởng bác ái, bình đẳng và tự do, là nơi có khoa học kĩ
thuật và nền văn minh phát triển. Hơn nữa, đó còn là nơi có
chính quyền thực dân đang đô hộ nhiều dân tộc trên thế giới,
một nơi xứng đáng để nghiên cứu và học hỏi
Quan điểm cách mạng của Người xuất pháp từ chủ nghĩa
Mác_Lê Nin, xác định con đường cứu nước là đi theo con đường
của Cách mạng Tháng Mười Nga. Con đường cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc là con đường đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với
chủ nghĩa cộng sản.
Và kết quả cho ta thấy rằng đó là một quan điểm và con đường
đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải phóng dân tộc, giành lại
độc lập vẻ vang cho nhân dân Việt Nam.
14
C. Phần Kết thúc
Trên đây là những điều cơ bản mà chúng em có thể tìm hiểu được về sự độc
đáo và sáng tạo trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng và
giải phóng dân tộc. Đây chỉ là sự tổng hợp những luận điểm của những người đi
trước. Chủ tịch Hồ Chí Minh không những thấm nhuần tư tưởng và kế thừa Chủ
nghĩa Marx-Lenin, Người còn phát triển và sáng tạo dựa trên tình hình thực tế ở
Việt Nam. Những quan điểm của Người luôn theo sát từng chặng đường Cách
mạng của Đảng, luôn là hệ tư tưởng vững chắc soi đường cho nước ta đi đến
thắng lợi cuối cùng. Thông qua việc tìm hiểu những quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về Cách mạng và giải phóng dân tộc, bản thân chúng em cũng đã nhận
thức rõ hơn được vai trò của Người trong sự nghiệp Cách mạng của thế giới nói
chung, và Cách mạng Việt Nam nói riêng, từ đó xây dựng cho bản thân một hệ
tư tưởng vững chắc, có một thái độ đúng đắn đối với những đường lối của Đảng
và Nhà nước.
15
Tài liệu tham khảo
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh Một số nhận thức cơ bản. NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội năm 2009
2.Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính trị quốc gia.
3.Hỏi đáp tư tưởng Hồ Chí Minh.
4.http//www.chungta.com
5.http//www.chinhphu.vn
6.https://luatduonggia.vn
7. https://thuvienmienphi.com
16
| 1/18

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ---------- Bài tiểu luận
Quan điểm sáng tạo về cách mạng giải
phóng dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Giảng viên hướng dẫn: TS. Hà Thị Dáng Hương
Bộ môn: Tư tưởng Hồ Chí Minh (SSH1151) Nhóm sinh viên:
STT Họ và Tên MSSV Mã lớp BT 1 Đặng Hữu Hiếu 20203416 123833 2 Phạm Bá Minh Hiếu 20203707 123833 3 Đậu Minh Hoàng 20203429 123833 4 Trần Sỹ Hoàng 20203435 123833 Hà Nội, 06/2021 Mục lục
A.Phần mở đầu………………………………………………………………1
B.Phần nội dung……………………………………………………………..2
I.Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh………………………………….……..……2
II.Cơ sở hình thành quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc……………………………………………………….………...3
1. Cơ sở lý luận………………………………………………….………..3
2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………….…..….....3
III.Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc……………………………………………………………….………..4
1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc…………………………...4
2. Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô
sản mới giành được thắng lợi hoàn toàn……………………………….……..5
3. Cách mạng giải phóng dân tộc thời đại mới phải do Đảng Cộng sản
lãnh đạo…………………………………………………………………..…...7
4. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết toàn dân, trên
cơ sở liên minh công nông………………………………………………..…..8
5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc…...…..9
6. Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương pháp cách
mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang………..….10
7. Cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải gắn bó chặt chẽ với
cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của thế giới trên cơ sở tự lực
cánh sinh………………………………………………………………..…….11
IV. Phân tích sự thay đổi giữa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và những người cách mạng đi trước………..
…………………………..……………….12
C.Phần kết thúc………………….
…………………………………………..14 Tài liệu tham
khảo…………………………………………………………..15 0 A.Phần mở đầu I. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử của dân tộc Việt Nam, dưới ngọn cờ cách mạng do Chủ tịch Hồ
Chí Minh lãnh đạo, đất nước ta đã tiến hành một loạt bước tiến vĩ đại, mở đầu là
cuộc Cách mạng Tháng Tám và sự thành lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa vào năm 1945. Việc này đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc
Việt Nam-kỷ nguyên của sự tự do. Nó là minh chứng cho tài năng và sự sáng
suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc dẫn dắt nhân dân Việt Nam, cách kết
vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Marx-Lenin về cách mạng giải phóng dân
tộc vào hoàn cảnh cách mạng thực tiễn ở Việt Nam. Đây là một điều mà những
Nhà cách mạng đi trước đã không thể thực hiện được, hoặc thực hiện một cách
triệt để. Vậy đâu là những điểm khác biệt, những đổi mới trong cách tư duy,
cách nghĩ của Chủ tịch Hồ Chí Minh?
II. Mục đích của đề tài
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là để tìm hiểu về những tư
tưởng tiến bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc lãnh đạo nhân dân ta
đi đến chiến thắng để dành độc lập, để đánh đuổi thù trong, giặc ngoài, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh đó, đề tài cũng giúp chúng ta hiểu
hơn về con người của Bác, con người một lòng vì đại cục cho dân tộc
III. Cách thức nghiên cứu
Phương pháp luận biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử, phương
pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh. 1 B. NỘI DUNG
I. Tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là
Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc), sinh ngày 19/5/1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên (nay là
xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; mất ngày 02/9/1969 tại Hà Nội.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên ở một địa
phương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh
đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên
của mình, Hồ Chí Minh đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những
phong trào đấu tranh chống thực dân, Hồ Chí Minh sớm có chí đuổi thực dân,
giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.
Với ý chí và quyết tâm đó, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để
tìm con đường giải phóng dân tộc.
Ngày 03/6/1911, Nguyễn Tất Thành nhận thẻ nhân viên lên con tàu Admiral
Latouche-Treville với cái tên là Văn Ba. Hai ngày sau, 05/6/1911 con tàu rời
cảng Nhà Rồng đến Pháp.
Từ năm 1912 - 1917, dưới cái tên Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh đến nhiều
nước ở châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, sống hoà mình với nhân dân lao
động. Qua thực tiễn, Hồ Chí Minh cảm thông sâu sắc cuộc sống khổ cực của
nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa cũng như nguyện vọng thiêng liêng
của họ. Hồ Chí Minh sớm nhận thức được cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới và tích cực hoạt động nhằm đoàn kết nhân dân các dân tộc trong cuộc đấu
tranh giành độc lập, tự do.
Cuối năm 1917, Hồ Chí Minh từ Anh trở lại Pháp, hoạt động trong phong trào
Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.
Năm 1919, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, thay mặt những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản yêu
sách đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân
dân các nước thuộc địa.
Từ năm 1919 đến 1941, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục hoạt động trong những
phong trào Cộng Sản ở nhiều nước trên thế giới.
Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước sau hơn 30 năm xa Tổ quốc 2
II. Cơ sở hình thành quan điểm sáng
tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc 1.Cơ sở lý luận.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được “Luận cương về
những vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lê Nin. Từ đây, người
sáng tỏ được nhiều điều và đã tìm ra con đường để giải phóng
dân tộc mình. Người đã rút ra kết luận: Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường
cách mạng vô sản. Đó là con đường cách mạng dân chủ kiểu
mới do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo nhằm
đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, dành độc lập dân tộc,
thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng
chủ nghĩa xã hội, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản ở Việt Nam. Đó là đường lối dâng cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạng thời đại nhằm đi tới mục tiêu cao cả là giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Chủ
nghĩa Mác-Lê Nin đã trở thành cơ sở lý luận cho hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung và cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng.
2.Cơ sở thực tiễn.
Năm 1958, thực dân Pháp xâm lược nước ta, bắt đầu đặt chế
độ hà khắc lên nhân dân ta, bóc lột, cướp bóc trắng trợn của cải
của nhân dân. Từ đó đất nước lầm than, nhân dân đói khổ. Đã
có nhiều phong trào cách mạng nổ ra, nhằm đánh đuổi thực dân
Pháp, đánh đổ triều đình phong kiến của nhà Nguyễn bất tài
nhưng tất cả đều đi vào bế tắc. Trước tình cảnh đó, năm 1911,
Nguyễn Ái Quốc đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Trong
suốt hơn 30 năm bôn ba nước ngoài, Người đã xây dựng được
con đường cứu nước cho nhân dân, đưa nhân dân thoát khỏi tối
tăm, cùng khổ. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa có sức bật thuận lợi vì:
Chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa hết sức tàn bạo và
dã man của chủ nghĩa đế quốc ở nhiều nơi đã đẩy nhan dân
thuộc địa vào khó khưn, túng quẫn; Điều đó đã làm cho lòng
căm thù, tức giận chủ nghĩa đế quốc tư bản trong nhân dân
thuộc địa vô cùng sâu sắc. 3
Tinh thần yêu nước chân chính của các dân tộc là một sức
mạnh to lớn, một vũ khí tiềm ẩn của cách mạng giải phóng dân
tộc. Sức mạnh đó nếu được giác ngộ và soi đường sẽ tạo thành
một sức mạnh to lớn thật sự, có thể đánh đổ được chủ nghĩa tư bản.
Hồ Chí Minh nhận thấy, thuộc địa là một khâu yếu nhất
trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước
ở thời hiện đại đã thực sự trở thành động lực giải phóng dân tộc.
Không chỉ vậy, Hồ Chí Minh đã phải rút ra những bài học,
đường lối từ các cuộc cách mạng của công nhân Pháp, và cách
mạng tháng 10 Nga 1917, bên cạnh đó là phong trào giải phóng
dân tôc của các nước thuộc địa trên thế giới. Người đã phân tích
đường lối, nguyên nhân thắng lợi và thất bại để nâng lên thành
quan điểm giải phóng dân tộc của mình. Đồng thời dựa trên
quan điểm thực tiễn cách mạng Việt Nam với sự phát triển của
phong trào yêu nước và phong trào công nhân ở nước ta III.
Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
III. Những quan điểm sáng tạo của
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
1.1. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng ở thuộc địa:
Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp thuộc địa khác với các nước
phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung
một số phận mất nước nên có chung số phận là người nô lệ mất nước.
Mâu thuẫn cơ bản ở các nước phương Tây là giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản, mâu thuẫn chủ yếu ở xã hội thuộc địa phương Đông là dân tộc bị áp bức với
chủ nghĩa thực dân. Do vậy “cuộc dấu tranh giai cấp không diễn ra giống như
các nước phương Tây”.
Đối tượng cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp tư sản bản xứ, càng
không phải là giai cấp địa chủ nói chung, mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động.
Cách mạng xã hội là lật đổ nền thống trị hiện có và thiết lập một chế độ xã hội
mới. Cách mạng ở thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa
đế quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xóa bỏ sự tư hữu, sự bóc lột nói chung. 4
Hồ Chí Minh luôn phân biệt rõ thực dân xâm lược với nhân dân các nước tư
bản chủ nghĩa. Người kêu gọi nhân dân các nước đế quốc phản đối chiến tranh
xâm lược, ủng hộ nhân dân các nươc thuộc địa đấu tranh giành độc lập.
Yêu cầu bức thiết của nhân dân thuộc địa là độc lập dân tộc.
Ở các nước thuộc địa, nông dân là nạn nhân chính bị boc lột bởi chủ nghĩa đế
quốc. Nông dân có hai yêu cầu: độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng luôn dặt
yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất. Hay nói cách khác
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng thuộc địa là: “Đấu tranh chống lại thực dân
xâm lược, giành lại độc lập dân tộc”.
Tính chất của cách mạng thuộc địa là thực hiện cách mạng tư sản kiểu mới
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị thứ VIII Ban chấp hành Trung ương Đảng (5-1951) do Hồ Chí Minh
chủ trì, kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó là
“nhiệm vụ bức thiết nhất”.
Trong nhiều bài nói, bài viết Người khẳng định: “Trường kì kháng chiến nhất
định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định thành công”, “Tổ quốc ta nhất định
sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ xum họp một nhà”.
1.2. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc:
Cách mạng giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân.
Mục tiêu cấp thiết của cách mạng ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi
riêng biệt của mỗi giai cấp, mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là những
mục tiêu của chiến lược đấu tranh dân tộc, phù hợp với xu thế của thời đại cách
mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập,
tự do của quần chúng nhân dân.
5-1941 Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban chấp hành trung
ương Đảng, chủ trương “thay đổi chiến lược”, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp
sang đẫu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị khẳng định dứt khoát: “cuộc cách
mang Đông Dương hiện tại không phải là một cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà
là cuộc cách mạng phải giải quyết một vấn đề cần thiết “dân tộc giải phóng”, vì
vậy cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc”, đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và kinh tế.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi trong
30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 trước hết là thắng lợi của
đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản
mới giành được thắng lợi hoàn toàn.
Yêu nước và kiên quyết chống giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền và nền
độc lập là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Mang trong mình khát
vọng giải phóng dân tộc, qua nhiều năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc
đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cách mạng đúng đắn - 5
con đường cách mạng vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), bởi theo Người: “Trong thế giới
bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là
dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”. Con đường giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản, là cuộc cách mạng toàn
diện, sâu sắc và triệt để. Cuộc cách mạng đó không chỉ giải phóng giai cấp, mà
gắn liền với nó là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.
Hồ Chí Minh nhận thấy phong trào yêu nước đấu tranh giành độc lập dân
tộc ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đều bị thất bại do các phong trào
này chưa tìm được đường lối đấu tranh đúng đắn do còn ảnh hưởng bởi hệ tư
tưởng phong kiến hay hệ tư tưởng tư sản. Cũng chính vì thế mà những phong
trào này không xác định rõ được nhiệm vụ của cuộc đấu tranh là giải quyết
những mâu thuẫn cơ bản nào, không có khả năng tập hợp được lực lượng toàn
dân tộc. Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng
vô sản ở chính quốc có chung 1 kẻ thù đó là chủ nghĩa đế quốc thực dân. Người
nhận định rằng: “Chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào
chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa, chúng bóc lột người lao động cả hai nơi.
Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi,
tức là phải thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.” Từ đó Hồ Chí Minh khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”.
Trong quá trình vận dụng lý luận cách mạng vô sản vào Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều, nhấn
mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa đầu
những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân tộc
theo khuynh hướng vô sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông đảo
quần chúng nhân dân. Đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh sớm
xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Sau khi giành
độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH. Bên cạnh đó, Người dành nhiều tâm trí
vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng CNXH ở Việt Nam, hình thành
nên những quan điểm hết sức cơ bản về CNXH và con đường đi lên CNXH từ
một nước thuộc địa, với những tàn tích phong kiến nặng nề; xác định những đặc
trưng bản chất của CNXH, mục tiêu và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một quá
trình cải biến cách mạng lâu dài, gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác
nhau, tất cả vì sự nghiệp giải phóng con người, làm cho con người phát triển
toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là
độc lập dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền đề 6
đi tới CNXH. Không giành được độc lập dân tộc sẽ không có gì hết. Độc lập dân
tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn bị tiền đề
đi lên CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do. Vì vậy, phải
xây dựng CNXH như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, để bảo vệ độc
lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao hơn của toàn bộ
tiến trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận điểm của V.I.
Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng
XHCN, giữa hai giai đoạn đó không có một bức tường thành nào ngăn cách cả.
Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải
đi theo con đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi bật về
mặt lý luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vô sản, nhân
dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long trời lở đất”,
dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2-9-1945). Trong
Tuyên ngôn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-9-1945, Hồ Chí
Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập,
và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Với Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí
Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất
nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Trong
đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là
điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho việc xác lập và bảo vệ quyền con người.
Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh đạo
đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH. Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm trường kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với tinh thần “thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng
tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, quân và dân ta đã lần
lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực dân, đế quốc, giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ này, tất cả người dân
Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân.
Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam được
cộng đồng quốc tế đón nhận như là một trong những tư tưởng lớn của thời đại.
Hồ Chí Minh xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có chung 1 kẻ thù đó là chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Người nhận định rằng: “Chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa hai vòi, một vòi
bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa, chúng bóc lột người lao động
cả hai nơi. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt cả hai vòi
của nó đi, tức là phải thực hiện phối hợp chặt chẽ giữa cách mạng vô sản ở chính
quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.” Từ đó Hồ Chí Minh khẳng
định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con 7
đường cách mạng vô sản”. Như vậy cách mạng giải phóng dân tộc được dẫn dắt
bởi hệ tư tưởng Mác Lênin, là một cánh của cách mạng vô sản.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải phóng dân
tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh...
Đảng có vững cách mệnh mới thành công...”. Đảng đó phải được xây dựng theo
nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I. Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác -
Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản là: Xác định mục tiêu của cách
mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc; thông qua cương lĩnh,
tổ chức vận động, tập hợp các lực lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc
thống nhất. Đối với cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng
thời hai nhiệm vụ: chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc,
đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên được
thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng
định: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Điều đáng chú ý là, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của
toàn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Hồ Chí Minh
phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên phải là Đảng của dân tộc
Việt Nam”. Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai
cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”.
Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác -
Lênin; có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất
đạo đức trong sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề xuất phát
từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại. Đảng đó phải xây dựng
được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu dài, chân thành,
đoàn kết; trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc, mọi con dân nước Việt,
con Lạc cháu Hồng. Đảng đó còn biết tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến
bộ trên thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, vì mục tiêu
chung của nhân loại tiến bộ là: hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh đạo
đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày dạn kinh
nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo cách mạng,
xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân; qua đó, khẳng định một chân lý, “ở Việt
Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt
Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước 8
vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết
toàn dân, trên cơ sở liên minh công nông.
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc là việc
chung của dân chúng, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông,
công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền, nhưng trong
sự tập hợp đó, luôn phải nhớ: “Công nông là người chủ cách
mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”.
Để đoàn kết toàn dân tộc, Người đã chủ trương xây dựng
Mặt trận thống nhất rộng rãi để liên kết sức mạnh toàn dân tộc
đấu tranh giành độc lập tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta là đánh
đổ đế quốc và đại địa chủ phong kiến tay sai, vừa thực hiện
nhiệm vụ giai cấp, vừa thực hiện nhiệm vụ dân tộc. Do vậy,
Đảng cần phải hết sức liên lạc với tất cả các tầng lớp như : tiểu
tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên…để giác ngộ cách mạng
cho họ. Còn với bọn trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam thì giữ
thái độ trung lập, lợi dụng. Đây chính là điểm sáng tạo của Hồ
Chí Minh. Trong khi, theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
lực lượng của cách mạng chỉ là liên minh công nông, bó hẹp
trong giai cấp công nhân và nông dân thì theo quan điểm của
Người, lực lượng cách mạng được mở rộng hơn ra nhiều tầng
lớp, và đặc biệt là biết lợi dụng tầng lớp tiểu địa chủ, tư bản đã
giác ngộ. Ngoài ra, những bộ phận nào đã ra mặt phản động
cách mạng thì phải tiêu diệt hoàn toàn.
Như vậy, tổ chức chính trị có thể thực hiện việc quy tụ, tập
hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân là “Mặt trận dân tộc thống
nhất” dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tạo ra sức mạnh của cả
dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do; đấu tranh
chống lại kẻ thù là bọn đế quốc và đại địa chủ phong kiến, tay sai.
Đã có ý kiến cho rằng Hồ Chí Minh đã quá chú trọng đến
vấn đề dân tộc mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh. Thực
chất, trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp lực lượng, Hồ Chí
Minh luôn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: Công
nông là gốc cách mệnh, còn các tầng lớp khác chỉ là bầu bạn.
Liên lạc với các tầng lớp, giai cấp khác nhưng không được phép nhượng bộ. 9
5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ
động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc.
Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ
động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng
vô sản ở chính quốc. Đây là một luận điểm mới và sáng tạo của
Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ đã
từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa
phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản chính
quốc. Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ
thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc
Mác – Ănghen chưa có điều kiện bàn nhiều về cách mạng
giải phóng dân tộc, các ông mới tập trung bàn về thắng lợi của
cách mạng vô sản. Năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời đã chú ý
tới cách mạng giải phóng dân tộc, nhưng còn đánh giá thấp vai
trò của nó và cho rằng thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ
thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Ngay
Tuyên ngôn ngày thành lập Quốc tế cộng sản có viết: “Công
nhân và nông dân không những ở An Nam, Angieri, Bengan mà
cả ở Ba Tư hay Acmenia chỉ có thể giành được độc lập khi mà
công nhân ở các nước Anh và Pháp lật đổ được Lôiit và
Clêmăngxô, giành chính quyền nhà nước vào tay mình”.
Cho đến tháng 9-1928, Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản vẫn
cho rằng: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng
thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”.
Vận dụng quan điểm của Lênin về mối quan hệ giữa cách
mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng ở thuộc
địa, vài tháng 6-1924, tại đại hội V của Quốc tế Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “vận mệnh của giai cấp vô sản thế
giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước di
xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp
bức ở các nước thuộc địa…nọc độc và sức sống của con rắn độc
tư bản chủ nghĩa đang tập trung vào các thuộc địa”. Vì vậy, nếu
khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn đằng đuôi”.
Trong Điều lệ của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế, Mác viết:
“Việc giải phóng giai cấp công nhân phải do chính giai cấp công
nhân giành lấy”. Vào năm 1925, khi nói với các dân tộc thuộc
địa, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: “Vận dụng công thức
Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải 10
phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em.”
Từ việc nhận thức được rằng, thuộc địa là khâu yếu nhất
trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, còn chủ nghĩa yêu nước
chân chính ở thời hiện đại đã trở thành động lực của cách mạng
giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cách mạng giải
phóng ở thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách
mạng vô sản ở chính quốc, rồi sau đó giúp đỡ cho những người
anh em của mình ở chính quốc trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Luận điểm sáng tạo này của Người đã được thực tiễn cách
mạng ở một số nước thuộc địa và cách mạng Việt Nam chứng
minh là hoàn toàn đúng đắn và đã đóng góp vào sự phát triển
của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
6. Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng
phương pháp cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh
chính trị với đấu tranh vũ trang.
Theo Mác, bạo lực là bà đỡ của mọi chính quyền ách mạng
vì giai cấp thống trị bóc lột không bao giờ tự giao chính quyền
cho lực lượng cách mạng. Thấm nhuần quan điểm đó của Mác,
Hồ Chí Minh đã khẳng định cách mạng bạo lực là sử dụng bạo
lực cách mạng của quần chúng nhân dân để chống lại bạo lực
phản cách mạng của bọn xâm lược cấu kết với những kẻ phản
động. Quán triệt quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân, Người cho rằng việc thực hiện phương pháp
cách mạng bạo lực ở Việt Nam nghĩa là kết hợp những hình thức
đấy tranh chính trị của quần chúng nhân dân với những hình
thức đấu tranh vũ trang phù hợp.
Nhưng Hồ Chí Minh đã sáng tạo và phát triển nguyên lý chủ
nghĩa Mác – Lênin về con đường bạo lực cách mạng.
Theo Người, khởi nghĩa vũ trang đương nhiên là phải dùng
vũ khí, chiến đấu bằng lực lượng vũ trang, nhưng không phải chỉ
là một cuộc đấu tranh quân sự, mà là nhân dân vùng dậy, dùng
vũ khí đuổi quân cướp nước . Đó là một cuộc đấu tranh to tát về
chính trị và quân sự, là việc quan trọng, làm đúng thì thành
công, làm sai thì thất bại.
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực là sử dụng bạo lực
cách mạng của quần chúng nhân dân để chống lại bạo lực phản
cách mạng của bọn xâm lược cấu kết với những kẻ phản động.
Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của
giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại 11
bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền.
Tháng 5/1941, tại Hội nghị Trung Ương VIII, Người cũng đã
đưa ra nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu
bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”.
Bởi vậy con đường cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh là
phải xây dựng lưc lượng chính trị và vũ trang, trước hết là lực
lượng chính trị. Thực hành con đường bạo lực của Hồ Chí Minh là
tiến hành đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, khi điều kiện
cho phép thì thực hành đấu tranh ngoại giao, đồng thời phải
biết kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và đấu
tranh ngoại giao để giành và giữ chính quyền.
Bên cạnh việc khẳng định cách mạng chỉ có thể thành công
bằng con đường bạo lực, Hồ Chí Minh cũng đề cao hòa bình.
Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng
con người, Hồ Chí Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ
chính quyền ít đổ máu. Người luôn tìm mọi cách để ngăn chặn
xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột
bằng biện pháp hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng,
chấp nhận nhượng bộ có nguyên tắc. Những hiệp định được kí
trong năm 1946 đã thể hiện rõ tư tưởng nhân đạo và hòa bình
đồng thời thể hiện rõ sự sáng tạo trong đường lối cách mạng
của Người.Tư tưởng bạo lực cách mạng và tư tưởng nhân đạo
hòa bình thống nhất biện chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Người chủ trương yêu nước, thương dân, yêu thương con
người, yêu chuộng hòa bình, tự do, công lý, tranh thủ mọi khả
năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi không thể
tránh khỏi chuêns tranh thì phải kiên quyết tiến hành chiến
tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng để giành, giữ và bảo
vệ hòa bình vì lý tưởng độc lập dự do.
7. Cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải gắn bó
chặt chẽ với cách mạng thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của
thế giới trên cơ sở tự lực cánh sinh.
Quốc tế cộng sản đã khẳng đinh cách mạng Việt Nam nói
riêng và cách mạng Đông Dương nói chung là một bộ phận của
cách mạng vô sản trên toàn thế giới, gắn liền với cách mạng vô
sản của các nước Pháp, Nga…. Muốn giành được thắng lợi cuối
cùng, giai cấp vô sản các nước phải liên minh với nhau để tạo
thành một lực lượng thống nhất. Thấm nhuần tư tưởng đó, Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
phải gắn bó chặt chẽ với phong trào giải phóng thuộc địa của
các nước khác trên thế giới.Cách mạng Việt Nam cần học hỏi 12
kinh nghiệm, con đường đúng đắn ở những nơi cách mạng đã nổ
ra và thành công (như cách mạng tháng 10 Nga), đồng thời phải
tranh thủ được sự giúp đỡ của các nước khác.
Người đã kêu gọi các nước thuộc địa anh em thành lập Hội
liên hiệp các nước thuộc địa nhằm để tổng hợp sức mạnh chống
lại đế quốc. Tuy nhiên không vì thế là đâm ra ý lại, phụ thuộc
mà vẫn phải tự lực cánh sinh, tự lực tự cường. Tự lực cánh sinh
là một phương châm chiến lược hết sức quan trọng, nhằm phát
huy cao độ nguồn sức mạnh chủ quan của dân tộc. Như vậy,
cách mạng nước ta phải có sự kết hợp giữa sức mạnh quốc tế và
sức mạnh dân tộc để tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng kẻ thù.
Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân
lao động,giải phóng giai cấp công nhân “ Chỉ có giải phóng giai
cấp vô sản thì mới phóng được dân tộc,cả hai cuộc giải phóng
này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách
mạng thế giới .Vì vậy phải tiến hành cách mạng một cách triệt
để”.Người luôn cho rằng Cách mạng giải phóng dân tộc ở các
nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan
hệ khăng khít với nhau như hai cái cánh của thời đại,luôn phải
thực hiện khẩu hiệu của Lê nin: Vô sản toàn thế giới liên hiệp
lại.Điều đặc biệt quan trọng là Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ cách
mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc mà có tính chủ động độc lập.Cách mạng thuộc địa có thể
thành công trước cách mạng ở chính quốc và góp phần thúc đẩy
cách mạng ở chính quốc tiến lên.Đây là 1 quan điểm cách mạng
độc lập sáng tạo của người
IV. Phân tích sự thay đổi giữa quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
những người cách mạng đi trước.
Quan điểm cách mạng tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí
Minh có nhiều thay đổi và tiến bộ so với những nhà cách mạng đi trước.
Với những nhà cách mạng đi trước:
Cụ Phan Bội Châu chọn con đường đi sang phương Đông
(Nhật Bản, Trung Quốc), đối tượng mà ông gặp gỡ là những
chính khách Nhật Bản để xin họ giúp Việt Nam đánh Pháp, chủ
trương đấu tranh bạo động. 13
Cụ Phan Châu Trinh chủ trương cứu nước bằng biện pháp
cải cách, dựa vào Pháp để đánh đổ ngôi vua và bọn phong kiến
hủ bại, giành độc lập dân tộc.
Và kết quả là các con đường trên đều không thành công.
Còn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Từ những thực tế từ các nhà cách mạng đi trước, Người xác
định rõ quan điểm muốn dành được độc lập thì hoàn toàn dựa
vào sức của chính mình, sức của chính dân tộc ta, không thể
trông chờ vào sự giúp đỡ ở bên người như những tiền bối đi trước.
Không chỉ vậy, thay vì sang các nước phương Đông, Người
lựa chọn sang các nước phương Tây vì Hồ Chí Minh biết đó là nơi
có tư tưởng bác ái, bình đẳng và tự do, là nơi có khoa học kĩ
thuật và nền văn minh phát triển. Hơn nữa, đó còn là nơi có
chính quyền thực dân đang đô hộ nhiều dân tộc trên thế giới,
một nơi xứng đáng để nghiên cứu và học hỏi
Quan điểm cách mạng của Người xuất pháp từ chủ nghĩa
Mác_Lê Nin, xác định con đường cứu nước là đi theo con đường
của Cách mạng Tháng Mười Nga. Con đường cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc là con đường đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản.
Và kết quả cho ta thấy rằng đó là một quan điểm và con đường
đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải phóng dân tộc, giành lại
độc lập vẻ vang cho nhân dân Việt Nam. 14 C. Phần Kết thúc
Trên đây là những điều cơ bản mà chúng em có thể tìm hiểu được về sự độc
đáo và sáng tạo trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng và
giải phóng dân tộc. Đây chỉ là sự tổng hợp những luận điểm của những người đi
trước. Chủ tịch Hồ Chí Minh không những thấm nhuần tư tưởng và kế thừa Chủ
nghĩa Marx-Lenin, Người còn phát triển và sáng tạo dựa trên tình hình thực tế ở
Việt Nam. Những quan điểm của Người luôn theo sát từng chặng đường Cách
mạng của Đảng, luôn là hệ tư tưởng vững chắc soi đường cho nước ta đi đến
thắng lợi cuối cùng. Thông qua việc tìm hiểu những quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về Cách mạng và giải phóng dân tộc, bản thân chúng em cũng đã nhận
thức rõ hơn được vai trò của Người trong sự nghiệp Cách mạng của thế giới nói
chung, và Cách mạng Việt Nam nói riêng, từ đó xây dựng cho bản thân một hệ
tư tưởng vững chắc, có một thái độ đúng đắn đối với những đường lối của Đảng và Nhà nước. 15
Tài liệu tham khảo
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh Một số nhận thức cơ bản. NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2009
2.Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. NXB Chính trị quốc gia.
3.Hỏi đáp tư tưởng Hồ Chí Minh. 4.http//www.chungta.com 5.http//www.chinhphu.vn 6.https://luatduonggia.vn 7. https://thuvienmienphi.com 16