Quan điểm triết học của Jean-Paul Sartre về
khái niệm "tha nhân"?
1. Tha nhân trong cái nhìn của một số triết gia
Nhiều triết gia đề cao vai trò của tha nhân, đồng thời phê phán một số trào
lưu triết học Tây Phương đã bỏ rơi hay không nhấn mạnh đủ vai trò ấy. Điển
hình, Emmanuel Levinas phê phán triết học Tây Phương đã quá đề cao cái
tôi dẫn đến việc xem nhẹ trung tính hóa tha nhân, giản lược tha nhân vào
trong cái Đồng (Sameness).[1] Để tránh nhìn tha nhân cách chung chung
nhưng xem trọng h trong nh riêng biệt của từng thể, Levinas đã nói
đến khuôn mặt như một yếu t đặc thù của người khác. Cũng trong chiều
hướng này, Martin Buber cho rằng hiện hữu chân thực của mỗi người chỉ đạt
được khi một tương quan nghiêm túc với tha nhân.[2] Gabriel Marcel
Karl Jasper còn xem tha nhân huyền nhiệm, đề cao sự cảm thông trong
mối tương quan giữa người với người. Trong mối tương quan ấy, lời hứa
sự trung thành những yếu tố then chốt để đi vào quan hệ độc đáo với
người khác.[3]
Trong chiều hướng ngược lại, Martin Heidegger tả tha nhân như mối
đe doạ cho việc hiện hữu chân thực khi Dasein đánh mất chính mình trong
thế-giới-người-ta.[4] Lúc ấy, Dasein không còn mình nữa hay chỉ vẻ
mình vậy thôi. Tuy nhiên, khi nói về tương quan với tha nhân, Heidegger
cũng cho rằng việc cảm thông với tha nhân một dự phóng thể thực hiện
được, tức th y dựng một tương quan tốt đẹp giữa người với người.
Nhưng lẽ, Sartre mới người thái độ mãnh mẽ nhất. Ông nhìn tha
nhân khá gay gắt cực đoan. Đối với ông, tương quan với tha nhân chỉ
chứa đầy căng thẳng xung đột. Như vậy, để trả lời cho u hỏi: một
tương quan chân thực giữa người với người hay không, bài viết sẽ phân tích
những phần sau: trước hết, sẽ trình bày quan điểm của Sartre về tha nhân;
đối chiếu quan điểm ấy với khuôn mặt của Levinas n một đối trọng; cuối
cùng đưa ra câu trả lời cho vấn nạn. Nhưng trước hết, ta cần biết qua cách
thức tiếp cận hữu thể của Sartre.
2. Hiện tượng luân hiện sinh như một cách thức tiếp cận hữu
thể
Vấn nạn hữu thể đã được Heidegger tra vấn nhiều trong tác phẩm Being and
Time. Sartre cũng cố gắng tìm hiểu về hữu thể nhưng ông không nhắm vào
việc phải trả lời cho câu hỏi hữu thể cho bằng trình xuất một tả hiện
tượng luận về hữu thể. Với phương pháp hiện tượng luận, Husserl “đóng
ngoặc” mọi sự vật chỉ để ý đến hiện tượng của sự vật ấy xuất hiện cho chủ
thể. S vật chỉ ý nghĩa ý nghĩa cho chủ thể nhìn ngắm thôi. Đây
thuyết duy ngã hiện tượng luận của Husserl. Sartre cũng dùng phương
pháp hiện tượng luận nhưng đặt phương pháp ấy o trong thế giới chứ
không phải trong chủ thể ý thức như Husserl. Bởi thế, phương pháp hiện
tượng luận của Sartre được gọi hiện tượng luận hiện sinh.[5]
Bằng sự quan sát t hiện tượng luận, Sartre nhận thấy hai loại hữu
thể căn bản: hữu-tại-ngã (being-in-itself) hữu-vị-ngã (being-for-itself). Hữu-
tại-ngã chính cách thức tồn tại của các sự vật. một hữu thể tự thân,
không hề một tương quan với ai hay với sự vật nào. Hữu thể tự thân
hữu thể đông cứng, đặc sệt, chính mình mãi i: “Nó đầy , không
ngoài, không trong. không tha tính, tức không trở thành khác đi.
ch cho tới tận cùng.”[6] Hữu-tại-ngã còn cái đó thừa thãi
(superfluous), không cần thiết. Sự tồn tại của hoàn toàn tính ngẫu nhiên,
tùy thuộc chứ chẳng do nào cả. Sartre cho rằng hữu-tại-ngã phi
(absurd), tự bản không ý nghĩa. Phi các sự vật tồn tại đó nhưng con
người không thể nào hiểu chúng một cách trọn vẹn tổng thể được. Bởi thế,
cảm giác buồn nôn Sartre miêu tả trong tác phẩm Nausea chính cảm
giác của sự thất bại, vọng khi một người muốn hiểu thế giới sự vật nhưng
không thể hiểu hết được.[7]
Nếu hữu-tại-ngã thế giới sự vật t hữu-vị-ngã lại thế giới của ý thức, của
chủ thể tính. Sartre cho rằng con người hình thức tồn tại rất đặc biệt. Con
người vừa tồn tại như một cục đá, cái y (hữu-tại-ngã) nhưng lại vừa tồn tại
như hữu thể của ý thức (hữu-vị-ngã). Với ý thức, con người khả năng
phản tỉnh về chính mình nhận ra mình i không (what is not). Khi
nhìn một cái nhà, con người nhận ra cái nhà là cái đó không phải mình.
Như vậy, ý thức mang đặc tính của sự phủ định. Sartre gọi đây khuynh
hướng phủ định nội tại của ý thức. Chính khả năng phủ định này ý thức
kéo vào đời. Tức là, con người nhận ra họ không cả, không bất
cứ một tại n nào. Con người không ngừng chối bỏ tại ngã của mình
hướng đến hình ảnh dự phóng tương lai:
“Hữu thể của ý thức, nhờ ý thức, tồn tại như một khoảng cách với chính
mình, khoảng ch trống rỗng này chính vô. thế, để cái ‘tôi’ được
tồn tại cần một sự hợp nhất giữa cái i cái vô, tức khả năng phủ
định tại ngã của mình.”[8]
Chính không cả nên hữu thể của ý thức hoàn toàn tự do, tự do
không giới hạn. Tôi hoàn toàn tự do đ chọn lựa trở nên bất cứ thứ gì tôi
muốn. Tuy nhiên, hữu thể của ý thức không bao giờ đạt được cái
muốn. Bởi , nếu đạt được dự phóng nó ao ước, ngay lập tức liền
chối bỏ dự phóng ấy khi ý thức về mình. Như thế, con người không thể đạt
được “cái tôi dự phóng” hay “cái tôi ởng”, cái tôi ấy sẽ chẳng bao giờ
th đồng nhất với “cái tôi đang hiện hữu” tại giây phút này. Thế nên dự
phóng của con người một khao khát vọng, nghĩa tuyệt đối.[9] Nói tóm
lại, cách thức tồn tại nơi con người thật sự một hữu tại-ngã-vị-ngã, tức
một chủ thể của ý thức luôn chối bỏ tại ngã của mình để hướng đến một tại
ngã khác tương lai. Chính cách thức tồn tại này làm xuất hiện ch tồn tại
thứ ba: hữu-vị-tha.
3. Hữu-vị-tha (being-for-others) hay tương quan với tha nhân
trong quan niệm của Sartre
Tương quan với tha nhân được Sartre mô tả qua ba giai đoạn. giai đoạn
một, tôi không ý thức về sự hiện diện của tha nhân nhưng ch ý thức về các
sự vật trong thế giới của tôi. Thế giới của tôi được thiết lập ngang qua những
bận tâm dự phóng của riêng tôi. Tôi cần mua thức ăn nên người bán hàng
trở nên thành phần trong thế giới của tôi. Cũng vậy, khi tôi đi từ nhà đến cửa
hàng, con người, sự vật, quang cảnh phố tôi gặp trên đường thành
phần trong thế giới của tôi. Tôi trung tâm của thế giới đó. Khi tha nhân xuất
hiện trong thế giới của tôi, nhưng tôi không ý thức về họ, thế giới ấy vẫn
thuộc về riêng tôi, theo nghĩa xuất hiện ra cho tôi, dưới đôi mắt của tôi.
Đến giai đoạn hai, tôi ý thức về sự xuất hiện của tha nhân. Việc ý thức ấy làm
tôi nhận ra tha nhân hoàn toàn khác với các sự vật. Tha nhân một hữu thể
ý thức như tôi, thế, ng một dự phóng trung tâm của một thế
giới. Những đang xuất hiện trong thế giới của tôi cũng xuất hiện trong thế
giới của tha nhân. Thế giới của tôi tha nhân hòa trộn vào nhau. Tuy nhiên,
cách nào đó, thế giới hòa trộn ấy vẫn còn thế giới của tôi. Tôi vẫn trung
tâm của thế giới, tha nhân chưa ý thức về sự mặt của tôi. Tha nhân vẫn
một đối thể để tôi tri nhận. Đến giai đoạn ba, tha nhân ý thức về tôi họ
nhìn thấy tôi. Tôi trở thành đối tượng cho nhận thức của tha nhân. Lúc này
tha nhân trở thành chủ thể trung tâm của một thế giới mà tôi đối
tượng trong đó (vì tôi đã bị nhìn).
Cái nhìn (the gaze) của tha nhân làm nảy sinh hai vấn đề. Trước hết, cái nhìn
ấy khiến tôi ý thức về mình, về cách thức i hiện hữu. Ý thức y được
thể hiện qua cảm xúc xấu hổ (shame). Xấu hổ tôi nghĩ tha nhân nhìn tôi
một cách tiêu cực hình nh không tốt về tôi. Cái nhìn của tha nhân làm
tôi ý thức về mình, ý thức vốn luôn được hiểu như ý thức về một điều nào
đó. Vì thế, khi ý thức, tôi tự biến mình thành đối thể để cho ý thức săm soi.
Như vậy, tôi không còn hữu-vị-ngã nữa mà một tại ngã với những đặc
tính cứng. Tại ngã đó chính hình ảnh tôi tự tạo ra cho tôi tôi nghĩ rằng
tha nhân nhìn tôi như thế. Thứ đến, cái nhìn của tha nhân trình ra một bản
chất khác của tôi. Bản chất này chính hình ảnh tha nhân thực sự nghĩ
về tôi. Bản chất ấy cũng một tại ngã nó mang những đặc tính cố định.[10]
Sartre miêu tả điều này như sau:
“Chúng ta hãy tưởng tượng rằng, tò mò, ghanh tị hay một tật xấu nào đó,
tôi dán tai vào cửa để nghe lén nhìn trộm qua lỗ khóa. Tôi đó một
mình hoàn toàn ý thức nhưng không phải ý thức phản tỉnh, tức tôi
không ý thức về chính mình. Nhưng bất thình lình tôi nghe tiếng bước chân
tiến về phía tôi. Rồi ai đó nhìn chằm chằm vào tôi. Tức thì tôi nhận ra tôi (ý
thức về mình) một ch thức tồn tại khác của tôi người nhìn tôi thực sự
tri nhận tôi.”[11]
Như vậy, cái nhìn của tha nhân biến tôi từ chủ thể thành đối thể. Là một đối
thể, một sự vật nên tôi bị tước mất tự do những d phóng của riêng nh.
Cái nhìn của tha nhân làm cho tôi cảm giác thế giới của i trôi tuột vai
trò trung tâm của tôi cũng chẳng còn. Cái nhìn ấy khiến tôi xấu hổ, sợ hãi, tổn
thương cướp mất chủ thể tính nơi tôi. Lúc này, tôi chẳng khác một hữu-
tại-ngã cứng. Bởi thế, trong vở kịch No Exit, nhân vật Garcin đã thốt lên:
“Tha nhân địa ngục.”[12] Tuy nhiên, cái nhìn của tha nhân cũng điều hấp
dẫn tôi cùng, tha nhân thể nhìn i trong một cách thức tôi không
thể nhìn chính mình. Thế n trong mức đ nào đó, tha nhân biết tôi thực sự
ai, thế, một khao khát tự nhiên là tôi muốn trở nên một với tha nhân,
để tôi thể biết sự thật về mình.[13] Như vậy tương quan giữa tôi với tha
nhân hai mặt. Một mặt, tha nhân nỗi kinh hoàng, đe doạ thế giới của tôi
xoá bỏ những dự phóng tôi thiết lập cho bản thân mình. Mặt khác,
tha nhân nhìn tôi nên họ nắm giữ một sự thật o đó về tôi, họ hấp dẫn tôi
tôi muốn trở nên một với họ. Tôi đã bị lệ thuộc o cái nhìn của họ, như
thế, tôi mất đi tự do. Đây chính ý nghĩa của cụm từ “Hữu-vị-tha”.
Tuy nhiên, tôi không chỉ đóng vai kẻ-bị-nhìn nhưng còn là người-nhìn-tha
nhân. Khi tôi nhìn tha nhân, tha nhân cũng trở thành đối thể bị nhìn. Những
cái nhìn của tha nhân gây ra cho tôi, giờ đây đến lượt tha nhân phải hứng
chịu. Tôi biến tha nhân thành đối thể dưới cái nhìn của tôi cũng như tha nhân
biến tôi thành đối thể dưới cái nhìn của họ. Như vậy, ơng quan nhân vị
thực sự một tương quan thống trị-phục tùng, đầy những mâu thuẫn
xung đột.[14] Nói tóm lại, một tương quan chân thực lành mạnh với tha
nhân điều không thể thực hiện được. Đó là một dự phóng bất khả thi. Tuy
nhiên, quan điểm này của Sartre sẽ bị khuôn mặt của Levinas thách thức
thách thức cho đến tận cùng.
4. Khuôn mặt của Levinas thách thức cái nhìn của Sartre
Điểm nhấn quan trọng Levinas nói về tha nhân chính là khuôn mặt. Khuôn
mặt ấy khuôn mặt biết nói chứ không phải một sự vật cứng, ù lì:
“Khuôn mặt hiện diện sống động; tự diễn tả mình. Một khuôn mặt biết
nói.”[15] thế, khuôn mặt của tha nhân không cho phép tồn tại những hình
ảnh hay những tưởng trí óc tôi phác họa lên hay đo lường được về họ.
Tôi không sao th giản lược khuôn mặt ấy xuống thành khái niệm,
khuôn mặt của tha nhân không trước mặt tôi nhưng trên tôi.[16] Tôi
không th nào nắm bắt khuôn mặt ấy được. Nơi khuôn mặt, trọn vẹn con
người của tha nhân được tỏ bày, bởi sự cao quý nét dịu huyền của tha
nhân được diễn tả nhờ khuôn mặt của họ.[17]
Thêm vào đó, khuôn mặt của tha nhân cũng toát lên sự “phản kháng lại thái
độ quyền lực hành vi chiếm hữu của tôi”.[18] Khuôn mặt ấy mời gọi tôi đi
vào một cuộc đối thoại chân thành với nó. Đối diện với khuôn mặt, tôi thấy
mình như bị chất vấn bị đòi hỏi điều đấy vượt trên chính tôi. đòi hỏi
một sự công bằng, khơi dậy trong tôi nh thiện đang tiềm ẩn trong mình.
đòi tôi phải gánh lấy trách nhiệm về nó không đòi hỏi trách nhiệm từ
chiều ngược lại. thể nói, cái nhìn của Sartre chứa đựng một tương quan
thống trị-phục tùng; còn khuôn mặt của Levinas lại ẩn chứa một trách nhiệm
cao cả đối với tha nhân. Trách nhiệm ấy cho thấy rằng tôi không được làm
hại đến tha nhân, tôi hiện hữu hiện hữu với tha nhân, tôi sẽ chẳng tìm
được ý nghĩa của mình nếu không cái Khác. Nói tóm lại, khuôn mặt của
tha nhân mời gọi tôi phải mang lấy trách nhiệm, phải đi vào tương quan
ngang bằng với tha nhân, nhìn tha nhân như họ là.Khuôn mặt ấy còn một
mệnh lệnh khiến tôi không thể nào biến tha nhân thành sự vật nhưng một
nhân vị huyền nhiệm, cao cả.
Như thế, khuôn mặt của tha nhân thực sự thách đố cái nhìn của Sartre: Liệu
cái nhìn thể tước đi tự do chủ thể tính của người khác được không,
biến tha nhân thành sự vật được không? Phải chăng tương quan với tha
nhân chỉ tương quan thống trị phục tùng, đầy những xung đột mâu
thuẫn? Với những mà Levinas miêu t về khuôn mặt, phải chăng Sartre
sự lệch lạc khi nhìn về tha nhân nếu không muốn nói trong cái nhìn ấy
ẩn chứa một sự bệnh hoạn nào đó? Thực vậy, đâu phải cái nhìn nào cũng
như muốn bóc trần người khác, muốn tước đoạt t do chủ thể tính của tha
nhân. Đôi mắt, cái nhìn vẫn hình ảnh của một cái đó yêu thương, chất
chứa. Những người yêu nhau chẳng cần phải nói với nhau lời o nhưng qua
cái nhìn cũng đủ gởi gắm cả trời yêu thương. Cũng thế, tương quan giữa
người với người đâu chỉ xung đột, mâu thuẫn; mặc ta không thể chối bỏ
những tương quan thống trị-phục tùng, xem người khác chỉ sự vật, đ
chơi (chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, mãi dâm); nhưng vẫn còn đó những
tương quan cảm thông, nâng đỡ giữa người với người. Hơn nữa, với một
khuôn mặt đầy tính cao cả huyền nhiệm Levinas miêu tả, cái nhìn của
Sartre muốn tước đoạt đi tự do chủ thể tính của tha nhân cũng
không thể làm được. Khi nhìn chằm chằm vào một người muốn biến người
ấy thành sự vật, nhưng thật sự người ấy vẫn người ấy, một chủ thể, một
nhân vị huyền nhiệm vượt lên trên cành cây ngọn cỏ, nhất vượt ra khỏi
cái nhìn soi mói của chủ thể.
Đọc lại cuộc đời của Sartre, ta thấy ông tuổi thơ khá bất hạnh: mồ côi bố
khi mới một tuổi, phải sống với mẹ ông ngoại. Ông ngoại rất nghiêm khắc,
chỉ muốn Sartre suốt ngày nhốt mình trong thư viện để đọc sách. thế, tuổi
thơ của ông không hề chơi bời, nghịch phá hay tương quan với những
đứa trẻ khác. Ông một đứa hoàn toàn độc. Stephen Priest ng nói:
“Sartre rất căm ghét tuổi thơ của mình hầu như những tác phẩm của ông
được viết ra để chửi bới cái tuổi thơ ấy.”[19] Sau này, khi chiến tranh thế
giới bùng nổ, ông lại phải chịu cảnh bắt bớ tù đày hằng ngày phải nhìn
cảnh người này áp bức, khủng bố người kia. Phải chăng chính những điều ấy
đã khiến ông cái nhìn cực đoan về tha nhân, hay nói chính c n về
tương quan giữa người với người?
5. Thử trình bày một cách hiểu khác về quan điểm của Sartre đối
với tha nhân
Về thuyết hữu thể luận, tương quan chân thành với tha nhân dưới con mắt
của Sartre vọng. Tuy nhiên, trong thực tế, ông một giáo triết học
tương quan hội rộng rãi. Đặc biệt, mối tình giữa ông Simone de
Beauvoir rất sâu đậm không ai thể chối bỏ được. S kiện này làm cho
người viết trăn trở: Phải chăng mối tình ấy đã thật sự tha h ông, cướp mất
tự do chủ thể tính của ông? Nếu không, phải chăng triết sống ông
không xuất phát t kinh nghiệm căn bản hay từ trực giác của ông chỉ
kết quả của việc suy bay bổng, hay tệ hơn đó ảnh hưởng của một thứ
tâm bệnh? Người viết không hoàn toàn nghĩ thế. Sartre rất thể đã đưa
quan điểm của ông về tha nhân tới ch cực đoan chỉ đ muốn nhấn mạnh
rằng: tương quan giữa người với người luôn hàm chứa một nguy thống trị-
phục tùng đầy mâu thuẫn như thế đó. Quả vậy, ít nhiều ai cũng kinh
nghiệm bị người khác nhìn chòng chọc, soi mói. Cái nhìn ấy như biến ta
thành sự vật để xem xét, phân tích chứ không còn một con người huyền
nhiệm. Đồng ý rằng những cái nhìn yêu thương cảm thông, những vẫn
còn đó những cái nhìn n muốn “ăn tươi nuốt sống” người khác. đôi khi,
chính tôi người bị nhìn cũng muốn trở nên giống như hình ảnh người
khác nhìn tôi, tôi thích được công nhận, thích được người khác yêu thương.
Thế nên, tôi cố gắng t mình ra thế này thế nọ, khoác lên người tính chất này,
đặc điểm kia. Tôi không thích cầu nguyện nơi n đáo” nhưng ra giữa “hội
đường” để bề trên, anh em nhìn thấy i mới an lòng. Tôi sống l thuộc vào
quan điểm hay cái nhìn của người khác. Tôi tự biến mình thành sự vật hay
một hữu-tại-ngã cứng dưới mắt người đời. Như vậy, một cách gián tiếp,
Sartre muốn nhắn nhủ rằng tương quan chân thực chỉ đạt được khi tôi
chính mình khi i biết nhìn tha nhân như chính tha nhân là. Đến những
trang cuối của tác phẩm Being and Nothingness, Sartre nói đến sự chân thực
(authenticity). Chân thực thì khác với tin tưởng lầm lạc (bad faith). Tin lầm
tôi t lừa dối mình, cho rằng tôi chỉ là một hữu-tại-ngã cố định, bị động. thế,
tôi thể trốn tránh tự do trách nhiệm đáng ra i phải gánh vác. Còn
chân thực nhận ra tôi một hữu-vị-ngã, một chủ thể của ý thức. Tôi không
bị động nhưng luôn chủ động khả năng thay đổi chính mình. Tôi hoàn
toàn tự do để tạo nên bản chất cho tôi.[20] Như vậy, với sự chân thực, tôi
không mong muốn trở nên hình ảnh tha nhân nhìn tôi nữa. Tôi chấp nhận
tôi một hữu-vị-ngã nên sẽ thay đổi, sẽ nên khác chứ không giống với cái
nhìn của tha nhân được. Tôi cũng không muốn tỏ mình ra như thế này thế nọ
để được lọt vào “mắt xanh” của người khác. Khi cái nhìn chân thực về
mình, tôi cũng một cái nhìn chân thực về tha nhân, tức nhìn tha nhân
như tha nhân chứ không “dán nhãn” tha nhân theo sở thích của tôi. Làm
như thế, tôi đã trả lại cho tha nhân khuôn mặt đúng như khuôn mặt của họ.
Như vậy, tương quan giữa người với người hoàn toàn thể xây dựng được
dựa trên sự chân thành i đối với chính tôi với tha nhân. Nếu cách
hiểu ấy đúng đắn, thì quả thật, lối trình bày của Sartre rất độc đáo thú vị;
tưởng của ông cũng rất u sắc giá trị chứ chẳng hề xoàng nh, cực
đoan.
Ghi chú:
[1] x. Emmanuel Levinas, Totality and Infinity, translated by Alphonso Lingis,
Pittsburgh, 1969, tr. 45-46.
[2] x. Martin Buber, I and Thou, translated by Walter Kaufmann (New York:
Simon & Schuster, 1996), tr. 109.
[3] x. Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học Các Luận Đề, Đỗ Văn
Thuấn & Lưu Văn Hy dịch (Hà Nội: Nxb Lao Động, 2004), tr. 394-395.
[4] x. Martin Heidegger, Being and Time, translated by Joan Stambaugh (New
York: Sunny., 1996), tr. 42, 43.
[5] x. Jean-Paul Sartre, Being and Nothingness, translated by Hazel E.
Barnes (New York: The Citadel Press, 1964), tr. xlvii.
[6] x. Ibid., tr. lxiv.
[7] x. Jean-Paul Sartre, Nausea, translated by Lloyd Alexander (New York:
New Directions Publishing Corporation, 1964), tr. 129-131.
[8] Jean-Paul Sartre, Being and Nothingness, ibid., tr. 123.
[9] Con người đau khổ luôn bị ám ảnh bởi thực tế rằng: họ không thể nào
đạt được vị ngã (đối thể) không đánh mất chính mình với cách vị ngã
(chủ thể). Khi đạt được tại ngã thì họ lại để vuột mất vị ngã của mình. Bởi thế,
bản chất con người một chủ thể bất hạnh không thể nào vượt qua được
tình trạng đau khổ nói trên (Jean-Paul Sartre, Being and Nothingness, ibid., tr.
140).
[10] Tôi đang nhìn qua lỗ khoá bị người khác nhìn thấy. Người ta thể
nghĩ tôi kẻ rình mò, người nhiều chuyện hay phường trộm cắp. Rình mò,
nhiều chuyện… những đặc tính cố định của hữu-tại-ngã. Như vậy, thay
một hữu-vị-ngã giờ đây tôi chỉ một sự vật ù lì, nhầy nhụa, cứng.
[11] Jean-Paul Sartre, Being and Nothingness, ibid., tr. 347, 349.
[12] “Hell is other people” (Jean-Paul Sartre, No Exit, translated by Stuart
Gilbert
http://teacherweb.com/FL/ReaganDoral/Prokopowicz/The-flies-27-to-69.pdf).
[13] “Tha nhân nhìn tôi nhờ đó, tha nhân nắm giữ mật về hữu thể tôi, họ
biết tôi là ai. Như thế, ý nghĩa u thẳm của hiện hữu tôi t nằm ngoài tôi.
Tha nhân lợi thế trên tôi.”(Jean-Paul Sartre, Being and Nothingness, ibid.,
tr. 473)
[14] x. Ibid., tr. 480.
[15] Emmanuel Levinas, ibid., tr. 66.
[16] x. ibid., tr. 50-51.
[17] x. ibid., tr. 297.
[18] x. ibid., tr. 194.
[19] Jean-Paul Sartre, Basic Writings, edited by Stephen Priest (London:
Routledge, 2001), tr. 6.
[20] Bởi thế Sartre mới chủ trương: “Tồn tại trước bản chất Existence
precedes essence” (Ibid., tr. 566).
Tài liệu tham khảo:
1. Tha Nhân Dưới Cái Nhìn Của Jean-Paul Sartre (phần 1/2) - Vũ Đức Anh
Phương (Dòng Tên Việt Nam)
2. Tha Nhân Dưới Cái Nhìn Của Jean-Paul Sartre (phần 2/2) - Vũ Đức Anh
Phương (Dòng Tên Việt Nam)
3. Tha-nhân, kẻ m mất bản-thân tôi Trần văn Toàn (triethoc.edu.vn)

Preview text:

Quan điểm triết học của Jean-Paul Sartre về khái niệm "tha nhân"?
1. Tha nhân trong cái nhìn của một số triết gia
Nhiều triết gia đề cao vai trò của tha nhân, đồng thời phê phán một số trào
lưu triết học Tây Phương đã bỏ rơi hay không nhấn mạnh đủ vai trò ấy. Điển
hình, Emmanuel Levinas phê phán triết học Tây Phương đã quá đề cao cái
tôi dẫn đến việc xem nhẹ và trung tính hóa tha nhân, giản lược tha nhân vào
trong cái Đồng (Sameness).[1] Để tránh nhìn tha nhân cách chung chung
nhưng xem trọng họ trong tính riêng biệt của từng cá thể, Levinas đã nói
đến khuôn mặt như một yếu tố đặc thù của người khác. Cũng trong chiều
hướng này, Martin Buber cho rằng hiện hữu chân thực của mỗi người chỉ đạt
được khi có một tương quan nghiêm túc với tha nhân.[2] Gabriel Marcel và
Karl Jasper còn xem tha nhân là huyền nhiệm, đề cao sự cảm thông trong
mối tương quan giữa người với người. Trong mối tương quan ấy, lời hứa và
sự trung thành là những yếu tố then chốt để đi vào quan hệ độc đáo với người khác.[3]
Trong chiều hướng ngược lại, Martin Heidegger mô tả tha nhân như là mối
đe doạ cho việc hiện hữu chân thực khi Dasein đánh mất chính mình trong
thế-giới-người-ta.[4] Lúc ấy, Dasein không còn là mình nữa hay chỉ có vẻ là
mình vậy thôi. Tuy nhiên, khi nói về tương quan với tha nhân, Heidegger
cũng cho rằng việc cảm thông với tha nhân là một dự phóng có thể thực hiện
được, tức là có thể xây dựng một tương quan tốt đẹp giữa người với người.
Nhưng có lẽ, Sartre mới là người có thái độ mãnh mẽ nhất. Ông nhìn tha
nhân khá gay gắt và cực đoan. Đối với ông, tương quan với tha nhân chỉ
chứa đầy căng thẳng và xung đột. Như vậy, để trả lời cho câu hỏi: có một
tương quan chân thực giữa người với người hay không, bài viết sẽ phân tích
những phần sau: trước hết, sẽ trình bày quan điểm của Sartre về tha nhân;
đối chiếu quan điểm ấy với khuôn mặt của Levinas như một đối trọng; cuối
cùng đưa ra câu trả lời cho vấn nạn. Nhưng trước hết, ta cần biết qua cách
thức tiếp cận hữu thể của Sartre.
2. Hiện tượng luân hiện sinh như một cách thức tiếp cận hữu thể
Vấn nạn hữu thể đã được Heidegger tra vấn nhiều trong tác phẩm Being and
Time
. Sartre cũng cố gắng tìm hiểu về hữu thể nhưng ông không nhắm vào
việc phải trả lời cho câu hỏi hữu thể là gì cho bằng trình xuất một mô tả hiện
tượng luận về hữu thể. Với phương pháp hiện tượng luận, Husserl “đóng
ngoặc” mọi sự vật và chỉ để ý đến hiện tượng của sự vật ấy xuất hiện cho chủ
thể. Sự vật chỉ có ý nghĩa là có ý nghĩa cho chủ thể nhìn ngắm mà thôi. Đây
là thuyết duy ngã hiện tượng luận của Husserl. Sartre cũng dùng phương
pháp hiện tượng luận nhưng đặt phương pháp ấy vào trong thế giới chứ
không phải trong chủ thể ý thức như Husserl. Bởi thế, phương pháp hiện
tượng luận của Sartre được gọi là hiện tượng luận hiện sinh.[5]
Bằng sự quan sát và mô tả hiện tượng luận, Sartre nhận thấy có hai loại hữu
thể căn bản: hữu-tại-ngã (being-in-itself) và hữu-vị-ngã (being-for-itself). Hữu-
tại-ngã chính là cách thức tồn tại của các sự vật. Nó là một hữu thể tự thân,
không hề có một tương quan với ai hay với sự vật nào. Hữu thể tự thân là
hữu thể đông cứng, đặc sệt, là chính mình nó mãi mãi: “Nó đầy ứ, không có
ngoài, không có trong. Nó không có tha tính, tức nó không trở thành khác đi.
Nó chỉ là nó cho tới tận cùng.”[6] Hữu-tại-ngã còn là cái gì đó thừa thãi
(superfluous), không cần thiết. Sự tồn tại của nó hoàn toàn có tính ngẫu nhiên,
tùy thuộc chứ chẳng có lý do nào cả. Sartre cho rằng hữu-tại-ngã phi lý
(absurd), tự bản không có ý nghĩa. Phi lý là vì các sự vật tồn tại đó nhưng con
người không thể nào hiểu chúng một cách trọn vẹn tổng thể được. Bởi thế,
cảm giác buồn nôn mà Sartre miêu tả trong tác phẩm Nausea chính là cảm
giác của sự thất bại, vô vọng khi một người muốn hiểu thế giới sự vật nhưng
không thể hiểu hết được.[7]
Nếu hữu-tại-ngã là thế giới sự vật thì hữu-vị-ngã lại là thế giới của ý thức, của
chủ thể tính. Sartre cho rằng con người có hình thức tồn tại rất đặc biệt. Con
người vừa tồn tại như một cục đá, cái cây (hữu-tại-ngã) nhưng lại vừa tồn tại
như hữu thể của ý thức (hữu-vị-ngã). Với ý thức, con người có khả năng
phản tỉnh về chính mình và nhận ra mình là cái không là (what is not). Khi
nhìn một cái nhà, con người nhận ra cái nhà là cái gì đó không phải là mình.
Như vậy, ý thức có mang đặc tính của sự phủ định. Sartre gọi đây là khuynh
hướng phủ định nội tại của ý thức. Chính khả năng phủ định này mà ý thức
kéo hư vô vào đời. Tức là, con người nhận ra họ không là gì cả, không là bất
cứ một tại ngã nào. Con người không ngừng chối bỏ tại ngã của mình và
hướng đến hình ảnh dự phóng ở tương lai:
“Hữu thể của ý thức, nhờ ý thức, tồn tại như là có một khoảng cách với chính
mình, và khoảng cách trống rỗng này chính là Hư vô. Vì thế, để cái ‘tôi’ được
tồn tại cần có một sự hợp nhất giữa cái tôi và cái hư vô, tức là khả năng phủ
định tại ngã của mình.”
[8]
Chính vì không là gì cả nên hữu thể của ý thức hoàn toàn tự do, và tự do
không giới hạn. Tôi hoàn toàn tự do để chọn lựa trở nên bất cứ thứ gì tôi
muốn. Tuy nhiên, hữu thể của ý thức không bao giờ đạt được cái mà nó
muốn. Bởi vì, nếu có đạt được dự phóng mà nó ao ước, ngay lập tức nó liền
chối bỏ dự phóng ấy khi ý thức về mình. Như thế, con người không thể đạt
được “cái tôi dự phóng” hay “cái tôi lý tưởng”, vì cái tôi ấy sẽ chẳng bao giờ
có thể đồng nhất với “cái tôi đang hiện hữu” tại giây phút này. Thế nên dự
phóng của con người là một khao khát vô vọng, vô nghĩa tuyệt đối.[9] Nói tóm
lại, cách thức tồn tại nơi con người thật sự là một hữu tại-ngã-vị-ngã, tức là
một chủ thể của ý thức luôn chối bỏ tại ngã của mình để hướng đến một tại
ngã khác ở tương lai. Chính cách thức tồn tại này làm xuất hiện cách tồn tại thứ ba: hữu-vị-tha.
3. Hữu-vị-tha (being-for-others) hay tương quan với tha nhân
trong quan niệm của Sartre
Tương quan với tha nhân được Sartre mô tả qua ba giai đoạn. Ở giai đoạn
một, tôi không ý thức về sự hiện diện của tha nhân nhưng chỉ ý thức về các
sự vật trong thế giới của tôi. Thế giới của tôi được thiết lập ngang qua những
bận tâm và dự phóng của riêng tôi. Tôi cần mua thức ăn nên người bán hàng
trở nên thành phần trong thế giới của tôi. Cũng vậy, khi tôi đi từ nhà đến cửa
hàng, con người, sự vật, quang cảnh phố xá tôi gặp trên đường là thành
phần trong thế giới của tôi. Tôi là trung tâm của thế giới đó. Khi tha nhân xuất
hiện trong thế giới của tôi, nhưng vì tôi không ý thức về họ, thế giới ấy vẫn
thuộc về riêng tôi, theo nghĩa nó xuất hiện ra cho tôi, dưới đôi mắt của tôi.
Đến giai đoạn hai, tôi ý thức về sự xuất hiện của tha nhân. Việc ý thức ấy làm
tôi nhận ra tha nhân hoàn toàn khác với các sự vật. Tha nhân là một hữu thể
có ý thức như tôi, vì thế, cũng có một dự phóng và là trung tâm của một thế
giới. Những gì đang xuất hiện trong thế giới của tôi cũng xuất hiện trong thế
giới của tha nhân. Thế giới của tôi và tha nhân hòa trộn vào nhau. Tuy nhiên,
cách nào đó, thế giới hòa trộn ấy vẫn còn là thế giới của tôi. Tôi vẫn là trung
tâm của thế giới, vì tha nhân chưa ý thức về sự có mặt của tôi. Tha nhân vẫn
là một đối thể để tôi tri nhận. Đến giai đoạn ba, tha nhân ý thức về tôi vì họ
nhìn thấy tôi. Tôi trở thành đối tượng cho nhận thức của tha nhân. Lúc này
tha nhân trở thành chủ thể và là trung tâm của một thế giới mà tôi là đối
tượng trong đó (vì tôi đã bị nhìn).
Cái nhìn (the gaze) của tha nhân làm nảy sinh hai vấn đề. Trước hết, cái nhìn
ấy khiến tôi ý thức về mình, về cách thức mà tôi hiện hữu. Ý thức ấy được
thể hiện qua cảm xúc xấu hổ (shame). Xấu hổ vì tôi nghĩ tha nhân nhìn tôi
một cách tiêu cực và có hình ảnh không tốt về tôi. Cái nhìn của tha nhân làm
tôi ý thức về mình, mà ý thức vốn luôn được hiểu như ý thức về một điều nào
đó. Vì thế, khi ý thức, tôi tự biến mình thành đối thể để cho ý thức săm soi.
Như vậy, tôi không còn là hữu-vị-ngã nữa mà là một tại ngã với những đặc
tính sơ cứng. Tại ngã đó chính là hình ảnh tôi tự tạo ra cho tôi vì tôi nghĩ rằng
tha nhân nhìn tôi như thế. Thứ đến, cái nhìn của tha nhân trình ra một bản
chất khác của tôi. Bản chất này chính là hình ảnh mà tha nhân thực sự nghĩ
về tôi. Bản chất ấy cũng là một tại ngã vì nó mang những đặc tính cố định.[10]
Sartre miêu tả điều này như sau:
“Chúng ta hãy tưởng tượng rằng, vì tò mò, ghanh tị hay vì một tật xấu nào đó,
tôi dán tai vào cửa để nghe lén và nhìn trộm qua lỗ khóa. Tôi ở đó có một
mình và hoàn toàn ý thức nhưng không phải là ý thức phản tỉnh, tức là tôi
không ý thức về chính mình. Nhưng bất thình lình tôi nghe tiếng bước chân
tiến về phía tôi. Rồi ai đó nhìn chằm chằm vào tôi. Tức thì tôi nhận ra tôi (ý
thức về mình) và một cách thức tồn tại khác của tôi mà người nhìn tôi thực sự tri nhận tôi.”
[11]
Như vậy, cái nhìn của tha nhân biến tôi từ chủ thể thành đối thể. Là một đối
thể, một sự vật nên tôi bị tước mất tự do và những dự phóng của riêng mình.
Cái nhìn của tha nhân làm cho tôi có cảm giác thế giới của tôi trôi tuột và vai
trò trung tâm của tôi cũng chẳng còn. Cái nhìn ấy khiến tôi xấu hổ, sợ hãi, tổn
thương và cướp mất chủ thể tính nơi tôi. Lúc này, tôi chẳng khác gì một hữu-
tại-ngã sơ cứng. Bởi thế, trong vở kịch No Exit, nhân vật Garcin đã thốt lên:
“Tha nhân là địa ngục.”[12] Tuy nhiên, cái nhìn của tha nhân cũng là điều hấp
dẫn tôi vô cùng, vì tha nhân có thể nhìn tôi trong một cách thức mà tôi không
thể nhìn chính mình. Thế nên trong mức độ nào đó, tha nhân biết tôi thực sự
là ai, vì thế, có một khao khát tự nhiên là tôi muốn trở nên một với tha nhân,
để tôi có thể biết sự thật về mình.[13] Như vậy tương quan giữa tôi với tha
nhân có hai mặt. Một mặt, tha nhân là nỗi kinh hoàng, đe doạ thế giới của tôi
và xoá bỏ những dự phóng mà tôi thiết lập cho bản thân mình. Mặt khác, vì
tha nhân nhìn tôi nên họ nắm giữ một sự thật nào đó về tôi, họ hấp dẫn tôi và
tôi muốn trở nên một với họ. Tôi đã bị lệ thuộc vào cái nhìn của họ, và như
thế, tôi mất đi tự do. Đây chính là ý nghĩa của cụm từ “Hữu-vị-tha”.
Tuy nhiên, tôi không chỉ đóng vai là kẻ-bị-nhìn nhưng còn là người-nhìn-tha
nhân. Khi tôi nhìn tha nhân, tha nhân cũng trở thành đối thể bị nhìn. Những gì
cái nhìn của tha nhân gây ra cho tôi, giờ đây đến lượt tha nhân phải hứng
chịu. Tôi biến tha nhân thành đối thể dưới cái nhìn của tôi cũng như tha nhân
biến tôi thành đối thể dưới cái nhìn của họ. Như vậy, tương quan nhân vị
thực sự là một tương quan thống trị-phục tùng, đầy những mâu thuẫn và
xung đột.[14] Nói tóm lại, một tương quan chân thực và lành mạnh với tha
nhân là điều không thể thực hiện được. Đó là một dự phóng bất khả thi. Tuy
nhiên, quan điểm này của Sartre sẽ bị khuôn mặt của Levinas thách thức và
thách thức cho đến tận cùng.
4. Khuôn mặt của Levinas thách thức cái nhìn của Sartre
Điểm nhấn quan trọng mà Levinas nói về tha nhân chính là khuôn mặt. Khuôn
mặt ấy là khuôn mặt biết nói chứ không phải là một sự vật sơ cứng, ù lì:
“Khuôn mặt hiện diện sống động; nó tự diễn tả mình. Một khuôn mặt biết
nói.”[15] Vì thế, khuôn mặt của tha nhân không cho phép tồn tại những hình
ảnh hay những tư tưởng mà trí óc tôi phác họa lên hay đo lường được về họ.
Tôi không sao có thể giản lược khuôn mặt ấy xuống thành khái niệm, vì
khuôn mặt của tha nhân không ở trước mặt tôi nhưng ở trên tôi.[16] Tôi
không thể nào nắm bắt khuôn mặt ấy được. Nơi khuôn mặt, trọn vẹn con
người của tha nhân được tỏ bày, bởi sự cao quý và nét dịu huyền của tha
nhân được diễn tả nhờ khuôn mặt của họ.[17]
Thêm vào đó, khuôn mặt của tha nhân cũng toát lên sự “phản kháng lại thái
độ quyền lực và hành vi chiếm hữu của tôi”.[18] Khuôn mặt ấy mời gọi tôi đi
vào một cuộc đối thoại chân thành với nó. Đối diện với khuôn mặt, tôi thấy
mình như bị chất vấn và bị đòi hỏi điều gì đấy vượt trên chính tôi. Nó đòi hỏi
một sự công bằng, khơi dậy trong tôi tính thiện đang tiềm ẩn trong mình. Nó
đòi tôi phải gánh lấy trách nhiệm về nó mà không đòi hỏi trách nhiệm từ nó ở
chiều ngược lại. Có thể nói, cái nhìn của Sartre chứa đựng một tương quan
thống trị-phục tùng; còn khuôn mặt của Levinas lại ẩn chứa một trách nhiệm
cao cả đối với tha nhân. Trách nhiệm ấy cho thấy rằng tôi không được làm
hại đến tha nhân, vì tôi hiện hữu là hiện hữu với tha nhân, và tôi sẽ chẳng tìm
được ý nghĩa của mình nếu không có cái Khác. Nói tóm lại, khuôn mặt của
tha nhân mời gọi tôi phải mang lấy trách nhiệm, phải đi vào tương quan
ngang bằng với tha nhân, nhìn tha nhân như họ là.Khuôn mặt ấy còn là một
mệnh lệnh khiến tôi không thể nào biến tha nhân thành sự vật nhưng là một
nhân vị huyền nhiệm, cao cả.
Như thế, khuôn mặt của tha nhân thực sự thách đố cái nhìn của Sartre: Liệu
cái nhìn có thể tước đi tự do và chủ thể tính của người khác được không, có
biến tha nhân thành sự vật được không? Phải chăng tương quan với tha
nhân chỉ là tương quan thống trị phục tùng, đầy những xung đột và mâu
thuẫn? Với những gì mà Levinas miêu tả về khuôn mặt, phải chăng Sartre có
sự lệch lạc khi nhìn về tha nhân nếu không muốn nói là trong cái nhìn ấy có
ẩn chứa một sự bệnh hoạn nào đó? Thực vậy, đâu phải cái nhìn nào cũng
như muốn bóc trần người khác, muốn tước đoạt tự do và chủ thể tính của tha
nhân. Đôi mắt, cái nhìn vẫn là hình ảnh của một cái gì đó yêu thương, chất
chứa. Những người yêu nhau chẳng cần phải nói với nhau lời nào nhưng qua
cái nhìn cũng đủ gởi gắm cả trời yêu thương. Cũng thế, tương quan giữa
người với người đâu chỉ có xung đột, mâu thuẫn; mặc dù ta không thể chối bỏ
có những tương quan thống trị-phục tùng, xem người khác chỉ là sự vật, đồ
chơi (chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, mãi dâm); nhưng vẫn còn đó những
tương quan cảm thông, nâng đỡ giữa người với người. Hơn nữa, với một
khuôn mặt đầy tính cao cả và huyền nhiệm mà Levinas miêu tả, cái nhìn của
Sartre dù có muốn tước đoạt đi tự do và chủ thể tính của tha nhân cũng
không thể làm được. Khi nhìn chằm chằm vào một người và muốn biến người
ấy thành sự vật, nhưng thật sự người ấy vẫn là người ấy, là một chủ thể, một
nhân vị huyền nhiệm vượt lên trên cành cây ngọn cỏ, và nhất là vượt ra khỏi
cái nhìn soi mói của chủ thể.
Đọc lại cuộc đời của Sartre, ta thấy ông có tuổi thơ khá bất hạnh: mồ côi bố
khi mới một tuổi, phải sống với mẹ và ông ngoại. Ông ngoại rất nghiêm khắc,
chỉ muốn Sartre suốt ngày nhốt mình trong thư viện để đọc sách. Vì thế, tuổi
thơ của ông không hề có chơi bời, nghịch phá hay tương quan với những
đứa trẻ khác. Ông là một đứa bé hoàn toàn cô độc. Stephen Priest cũng nói:
“Sartre rất căm ghét tuổi thơ của mình và hầu như những tác phẩm của ông
được viết ra là để chửi bới cái tuổi thơ ấy.”[19] Sau này, khi chiến tranh thế
giới bùng nổ, ông lại phải chịu cảnh bắt bớ tù đày và hằng ngày phải nhìn
cảnh người này áp bức, khủng bố người kia. Phải chăng chính những điều ấy
đã khiến ông có cái nhìn cực đoan về tha nhân, hay nói chính xác hơn là về
tương quan giữa người với người?
5. Thử trình bày một cách hiểu khác về quan điểm của Sartre đối với tha nhân
Về lý thuyết hữu thể luận, tương quan chân thành với tha nhân dưới con mắt
của Sartre là vô vọng. Tuy nhiên, trong thực tế, ông là một giáo sư triết học
có tương quan xã hội rộng rãi. Đặc biệt, mối tình giữa ông và bà Simone de
Beauvoir rất sâu đậm mà không ai có thể chối bỏ được. Sự kiện này làm cho
người viết trăn trở: Phải chăng mối tình ấy đã thật sự tha hoá ông, cướp mất
tự do và chủ thể tính của ông? Nếu không, phải chăng triết lý sống mà ông có
không xuất phát từ kinh nghiệm căn bản hay từ trực giác của ông mà chỉ là
kết quả của việc suy tư bay bổng, hay tệ hơn đó là ảnh hưởng của một thứ
tâm bệnh? Người viết không hoàn toàn nghĩ thế. Sartre rất có thể đã đưa
quan điểm của ông về tha nhân tới chỗ cực đoan chỉ để muốn nhấn mạnh
rằng: tương quan giữa người với người luôn hàm chứa một nguy cơ thống trị-
phục tùng và đầy mâu thuẫn như thế đó. Quả vậy, ít nhiều ai cũng có kinh
nghiệm bị người khác nhìn chòng chọc, soi mói. Cái nhìn ấy như biến ta
thành sự vật để xem xét, phân tích chứ không còn là một con người huyền
nhiệm. Đồng ý rằng có những cái nhìn yêu thương cảm thông, những vẫn
còn đó những cái nhìn như muốn “ăn tươi nuốt sống” người khác. Và đôi khi,
chính tôi là người bị nhìn cũng muốn trở nên giống như hình ảnh mà người
khác nhìn tôi, vì tôi thích được công nhận, thích được người khác yêu thương.
Thế nên, tôi cố gắng tỏ mình ra thế này thế nọ, khoác lên người tính chất này,
đặc điểm kia. Tôi không thích cầu nguyện “nơi kín đáo” nhưng ra giữa “hội
đường” để bề trên, anh em nhìn thấy tôi mới an lòng. Tôi sống lệ thuộc vào
quan điểm hay cái nhìn của người khác. Tôi tự biến mình thành sự vật hay
một hữu-tại-ngã sơ cứng dưới mắt người đời. Như vậy, một cách gián tiếp,
Sartre muốn nhắn nhủ rằng tương quan chân thực chỉ đạt được khi tôi là
chính mình và khi tôi biết nhìn tha nhân như chính tha nhân là. Đến những
trang cuối của tác phẩm Being and Nothingness, Sartre nói đến sự chân thực
(authenticity). Chân thực thì khác với tin tưởng lầm lạc (bad faith). Tin lầm là
tôi tự lừa dối mình, cho rằng tôi chỉ là một hữu-tại-ngã cố định, bị động. Vì thế,
tôi có thể trốn tránh tự do và trách nhiệm mà đáng ra tôi phải gánh vác. Còn
chân thực là nhận ra tôi là một hữu-vị-ngã, một chủ thể của ý thức. Tôi không
bị động nhưng luôn chủ động và có khả năng thay đổi chính mình. Tôi hoàn
toàn tự do để tạo nên bản chất cho tôi.[20] Như vậy, với sự chân thực, tôi
không mong muốn trở nên hình ảnh mà tha nhân nhìn tôi nữa. Tôi chấp nhận
tôi là một hữu-vị-ngã nên sẽ thay đổi, sẽ nên khác chứ không giống với cái
nhìn của tha nhân được. Tôi cũng không muốn tỏ mình ra như thế này thế nọ
để được lọt vào “mắt xanh” của người khác. Khi có cái nhìn chân thực về
mình, tôi cũng có một cái nhìn chân thực về tha nhân, tức là nhìn tha nhân
như tha nhân là chứ không “dán nhãn” tha nhân theo sở thích của tôi. Làm
như thế, tôi đã trả lại cho tha nhân khuôn mặt đúng như khuôn mặt của họ.
Như vậy, tương quan giữa người với người hoàn toàn có thể xây dựng được
dựa trên sự chân thành mà tôi đối với chính tôi và với tha nhân. Nếu cách
hiểu ấy đúng đắn, thì quả thật, lối trình bày của Sartre rất độc đáo và thú vị;
tư tưởng của ông cũng rất sâu sắc và có giá trị chứ chẳng hề xoàng xĩnh, cực đoan. Ghi chú:
[1] x. Emmanuel Levinas, Totality and Infinity, translated by Alphonso Lingis, Pittsburgh, 1969, tr. 45-46.
[2] x. Martin Buber, I and Thou, translated by Walter Kaufmann (New York:
Simon & Schuster, 1996), tr. 109.
[3] x. Samuel Enoch Stumpf, Lịch Sử Triết Học và Các Luận Đề, Đỗ Văn
Thuấn & Lưu Văn Hy dịch (Hà Nội: Nxb Lao Động, 2004), tr. 394-395.
[4] x. Martin Heidegger, Being and Time, translated by Joan Stambaugh (New
York: Sunny., 1996), tr. 42, 43.
[5] x. Jean-Paul Sartre, Being and Nothingness, translated by Hazel E.
Barnes (New York: The Citadel Press, 1964), tr. xlvi . [6] x. Ibid., tr. lxiv.
[7] x. Jean-Paul Sartre, Nausea, translated by Lloyd Alexander (New York:
New Directions Publishing Corporation, 1964), tr. 129-131.
[8] Jean-Paul Sartre, Being and Nothingness, ibid., tr. 123.
[9] Con người đau khổ vì luôn bị ám ảnh bởi thực tế rằng: họ không thể nào
đạt được vị ngã (đối thể) mà không đánh mất chính mình với tư cách là vị ngã
(chủ thể). Khi đạt được tại ngã thì họ lại để vuột mất vị ngã của mình. Bởi thế,
bản chất con người là một chủ thể bất hạnh vì không thể nào vượt qua được
tình trạng đau khổ nói trên
(Jean-Paul Sartre, Being and Nothingness, ibid., tr. 140).
[10] Tôi đang nhìn qua lỗ khoá và bị người khác nhìn thấy. Người ta có thể
nghĩ tôi là kẻ rình mò, người nhiều chuyện hay phường trộm cắp. Rình mò,
nhiều chuyện… là những đặc tính cố định của hữu-tại-ngã. Như vậy, thay vì
là một hữu-vị-ngã giờ đây tôi chỉ là một sự vật ù lì, nhầy nhụa, sơ cứng.
[11] Jean-Paul Sartre, Being and Nothingness, ibid., tr. 347, 349.
[12] “Hel is other people” (Jean-Paul Sartre, No Exit, translated by Stuart Gilbert
http://teacherweb.com/FL/ReaganDoral/Prokopowicz/The-flies-27-to-69.pdf).
[13] “Tha nhân nhìn tôi và nhờ đó, tha nhân nắm giữ bí mật về hữu thể tôi, họ
biết tôi là ai. Như thế, ý nghĩa sâu thẳm của hiện hữu tôi thì nằm ngoài tôi.
Tha nhân có lợi thế trên tôi.”
(Jean-Paul Sartre, Being and Nothingness, ibid., tr. 473) [14] x. Ibid., tr. 480.
[15] Emmanuel Levinas, ibid., tr. 66. [16] x. ibid., tr. 50-51. [17] x. ibid., tr. 297. [18] x. ibid., tr. 194.
[19] Jean-Paul Sartre, Basic Writings, edited by Stephen Priest (London: Routledge, 2001), tr. 6.
[20] Bởi thế Sartre mới chủ trương: “Tồn tại có trước bản chất – Existence
precedes essence” (Ibid., tr. 566). Tài liệu tham khảo:
1. Tha Nhân Dưới Cái Nhìn Của Jean-Paul Sartre (phần 1/2) - Vũ Đức Anh
Phương (Dòng Tên Việt Nam)
2. Tha Nhân Dưới Cái Nhìn Của Jean-Paul Sartre (phần 2/2) - Vũ Đức Anh
Phương (Dòng Tên Việt Nam)
3. Tha-nhân, kẻ làm mất bản-thân tôi – Trần văn Toàn (triethoc.edu.vn)
Document Outline

  • Quan điểm triết học của Jean-Paul Sartre về khái n
    • 1. Tha nhân trong cái nhìn của một số triết gia
    • 2. Hiện tượng luân hiện sinh như một cách thức tiế
    • 3. Hữu-vị-tha (being-for-others) hay tương quan vớ
    • 4. Khuôn mặt của Levinas thách thức cái nhìn của S
    • 5. Thử trình bày một cách hiểu khác về quan điểm c