Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước hiện nay | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin

-Trong thời đại hiện đại, sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đã trở thành một mục tiêu quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh này, quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và vai trò của con người trong quá trình này đã trở nên đáng chú ý. Triết học Mác-Lênin, được hình thành dựa trên cơ sở triết học, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜ ẬT TP.HCM
----- -----🙞🙜🕮🙞🙜
MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa
:
- hiện đại hóa đất nước hiện nay.
VHD: Đỗ Thị Thanh Huyền
VTH:
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2023
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
ĐIỂM: ……..
KÍ TÊN
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……..………………………………………….…………………….3
PHẦN CHÍNH
1. Quan điểm Mác-Lênin về con người……………………..…………………...4
1.1.Khái niệm con người …………………………….…………………...4
1.2.Bản tính của con người………….……………………...…….............4
1
1.3.Con người một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật mặt hội………………………………….
…………………………….…..6
1.4.Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội…………………………………………………..………………..7
1.5.Con người là sản phẩm của lịch sử….………………………………..8
2. Quan điểm Mác-Lênin về vai trò của con người trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước hiện nay….…..
…………………………………………………….10
2.1.Tính tất yếu khách quan của CNH-HĐH đất nước hiện nay…………………………………………………………..
……....10
2.2.Mục tiêu xây dựng con người trong CNH-HĐH đất nước…………………………………………...……………..……...12
2.3.Vai trò của con người trong sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước ta hiện
nay……………………………………..……………...18
KẾT LUẬN….……………………………………………………….…………....20
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………....21
Lời nói đầu
-Trong thời đại hiện đại, sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đã trở thành một mục tiêu quan trọng của nhiều quốc
gia trên thế giới. Trong bối cảnh này, quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và vai trò của con người trong quá trình này đã trở nên đáng
chú ý. Triết học Mác-Lênin, được hình thành dựa trên cơ sở triết học duy vật biện chứng, đặt con người vào trung tâm và coi con người là nhân
tố quyết định trong sự phát triển xã hội.
-Theo quan điểm Mác-Lênin, con người không chỉ là một đối tượng của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, mà còn là chủ
thể, người sáng tạo và điều hành quá trình này. Con người có khả năng tư duy, sáng tạo và làm việc cùng nhau để đạt được mục tiêu chung của
xã hội. Vai trò của con người không chỉ giới hạn trong việc sản xuất vật chất, mà còn bao gồm cả việc xây dựng và phát triển các giá trị tinh
thần, văn hóa và xã hội.
-Trên cơ sở quan điểm này, quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước không chỉ đòi hỏi sự đầu tư về cơ sở hạ tầng vật chất,
mà còn cần sự đầu tư vào con người. Để đạt được sự phát triển bền vững, cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho con người để phát huy tối đa khả
2
năng sáng tạo, đóng góp và tham gia vào quá trình này. Đồng thời, cần xây dựng một môi trường xã hội công bằng, nơi mọi người được đối xử
bình đẳng và có cơ hội phát triển theo năng lực của mình.
-Trên cơ sở những quan điểm trên, bài tiểu luận này sẽ tìm hiểu và phân tích sâu hơn về quan điểm triết học Mác-Lênin về con người
và vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện nay.
-Chúng ta sẽ xem xét những ý kiến và lập luận của Mác-Lênin, cũng như áp dụng chúng vào thực tế hiện nay để đánh giá sự phù hợp
và khả thi của quan điểm này trong bối cảnh xã hội đương đại.
Phần chính
1. Quan điểm Mác-Lênin về con người
1.1. Khái niệm về con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên
là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn
gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong
mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.
1.2. Bản tính của con người
1.2a. Bản tính tự nhiên của con người
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
+ Thứ nhất: con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã
được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của
các loài.
+ Thứ hai: con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân thể vôcủa con người". Do đó,
những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và
xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài
3
người luôn luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con
người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang
đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia
đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa
đây là bản tính đặc thù của con người.
1.2b. Bản chất xã hội của con người
- Bản chất xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:
+ Một là xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên
mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua
loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác -Lênin, nhờ đó có thể hoàn chỉnh
học thuyết về nguồn gốc của loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
+ Hai là xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật
xã hội.hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát
triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là "con người"
với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất,quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi
lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lý giải bản tính
sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định
cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
1.3. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
- Mặt sinh vật bao gồm cơ thể con người cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối đời sống cơ thể con người.
- Mặt xã hội bao gồm “Tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội đời sống tinh thần của con người.
Hai mặt này quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học nền tảng vật chất tự nhiên của con người,
nhưng không phải là yếu tố quyết định bản tính con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản tính con người. Bởi mặt xã hội của
4
con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của
con người, đồng thời hình thành nhấn cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩn của tự nhiên và xã hội nên qua trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy
luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau:
- Những quy luật chi phối đời sống của cơ thể.
- Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức.
- Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.
Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
Bản tính của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động
thực tiễn của con người.
1.4. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể xác định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt
động thực tiễn của mình, con người đã tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thế lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong
toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người con người mới bộc lộ bản chất xã hội của mình.
Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác-Lênin không phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người,
triết học Mác-Lênin chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã hội.
Sự hình thành, phát triển con người là quá trình gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất:
- Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện
thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. “ Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo,
nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được ” . Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người sản xuất ra tư liệu
sinh hoạt của mình-đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể con người quy định.
- Con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình chính là gián tiếp tạo ra đời sống vật chất của bản thân. Nhờ hoạt động sản
xuất đó con người đã là biến chuyển giới tự nhiên: “ Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”
. Tính xã hội của con người được biểu hiện thống qua quá trình sản xuất vật chất, hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính
xã hội của con người. Thông qua quá trình lao động sản xuất, con người tạo ra những của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho đời sống; con
5
người sáng tạo và phát triền ngôn ngữ và tư duy; con người giao tiếp và xác lập các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, lao động chính là yếu tố quyết
định hình thành bản tính xã hội của con người.
1.5. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
- Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời, lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo
là thuộc tính xã hội tối cao của con người.
- Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử
nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra,
và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy, thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của
chúng.
- Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là hoạt động chế tạo công cụ lao động,
hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động mà con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực
tiễn xã hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản chất của con người, nhưng con người
không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà là phải dựa vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại trong những
hoàn cảnh mới.
- Từ khi con người tạo ra lịch sử cho đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm của lịch sử. Con người
tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường xác định.
Đó là những điều kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Một mặt, con người là một bộ
phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải quan hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn
lực của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình. Mặt khác, là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân
theo các quy luật của tự nhiên, tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học,vật lý, hóa học, đặc biệt là các quá trình y, sinh học, tâm sinh lý khác
nhau.
- Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường xã hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và mang bản
chất xã hội.
- Môi trường xã hội cũng là điều kiện và tiền đề để con người có thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên ở quy mô rộng lớn và hữu hiệu
hơn. Trong thực chất thì môi trường xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên với những đặc thù của nó. So với môi trường tự nhiên môi trường
6
xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến con người, sự tác động của môi trường tự nhiên đến từng cá nhân con người thường phải thông
qua môi trường xã hội và chịu ảnh hưởng sâu sắc của các nhân tố xã hội như môi trường thông tin, kiến thức, môi trường từ tính, môi trường
điện, môi trường hấp dẫn, môi trường sinh học, v.v...
- Môi trường sinh học, môi trường cận tâm lý, môi trường tương tác yếu, đang được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên là những môi
trường như vậy.
- Tuy nhiên, dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới được phát hiện hay còn có những ý kiến, quan niệm khác nhau, thì chúng đều hoặc là
thuộc về môi trường tự nhiên, hoặc là thuộc về môi trường xã hội. Tính chất, phạm vi, vai trò và tác động của chúng đến con người là khác nhau,
không giống hoàn toàn như môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chúng là những hiện tượng, quá trình cụ thể của tự nhiên hoặc xã hội, có
tác động, ảnh hưởng ở một khía cạnh hẹp, cụ thể và xác định ở phương diện tự nhiên hoặc xã hội.
2. Quan điểm Mác- Lênin về vai trò của con người trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước hiện nay
2.1.Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Công nghiệp hóa hiện đại hóa được hiểu là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội, chuyển từ sử dụng
sức lao động thủ công sang sử dụng lao động đã qua đào tạo trên cơ sở phát triển khoa học công nghệ, góp phần nâng cao năng suất lao động xã
hội. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa được xem là một quy luật kinh tế phổ biến và mang tính tất yếu khách quan.
- Trước hết, công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta được xem như một quy luật phổ biến của sự phát triển. Quy luật ấy thể hiện thông
qua sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phát triển của xã hội. Công nghiệp hóa hiện đại hóaquy luật phổ biến của sự phát triển lực
lượng sản xuất tiến tới phát triển mạnh mẽ nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa trong
phát triển lực lượng sản xuất được chỉ rõ ở những nội dung sau:
+ Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tác động mạnh mẽ tới nền sảnxuất của mỗi quốc gia. Nó thay đổi về chất của nền sản xuất,
chuyển dịchcấu nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời chuyển biến nền sản xuất thủ công sang sản
xuất cơ khí dựa vào tiến bộ của khoa học – công nghệ.
+ Sự ra đời của những thành tựu khoa học kỹ thuật là kết quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đây, nhân loại vận
dụng những thành tựu này phục vụ trong sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động, phát triển nhanh chóng nền kinh tế.
7
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là cơ hội để các nước đang phát triển như Việt Nam tiếp cận và chuyển giao khoa học – công
nghệ ở trình độ tiên tiến. Muốn phát triển nhanh chóng về mọi mặt không có cách nào khác là phải dựa vào những thành tựu khoa học hiện đại.
- Khi thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, ngoài chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thì cơ cấu lao động cũng chuyển biến theo hướng
tích cực. Nguồn lao động chuyển từ khu vực sử dụng nhiều lao động chân tay sang lĩnh vực gắn liền với kinh tế tri thức. Theo thời gian, tính tất
yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa không chỉnằm ở sự phát triển kinh tế mà hơn hết là sự phát triển mọi mặt của xã hội:
+ Công nghiệp hóa hiện đại hóa thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng, năng suất lao động tăng, tạo việc làm ổn định, tăng thu
nhập. Bên cạnh đó người dân có cơ hội hưởng phúc lợi xã hội, tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế…
+ Công nghiệp hóa hiện đại hóa còn là yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong đó, củng cố quốc phòng an ninh, giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là mục tiêu hàng đầu.
- Thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là con đường vững chắc để Việt Nam xây dựng hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội. Đây là một tiến trình lâu dài và là quy luật mang tính tất yếu của của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Cơ sở vật chất – kỹ
thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất do con người tạo ra để tiến hành sản xuất. Nó là mặt chủ đạo của sản xuất,thể hiện
trình độ chinh phục tự nhiên của nhân loại theo dòng chảy lịch sử.
- Tính tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa còn xuất phát từ yêu cầu tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Sự phát
triển cơ sở vật chất – kỹ thuật đảm bảo sự phát triển quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất. Tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa
tạo ra hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, là tiền đề thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Cụ thể:
+ Cơ sở vật chất - kỹ thuật xã hội chủ nghĩa thay đổi chất của nền sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển khoa học – kỹ thuật, hình thành ý thức xã hội mới.
+ Công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thủ công được thay thế bằng đội ngũ lao
động sử dụng máy móc, trang thiết bị tiên tiến.
+ Công nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với yêu cầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến tới củng cố và nâng cao vị thế của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân
gắn với yếu tố tri thức.Tiến hành tái sắp xếp nền kinh tế quốc dân, chuyển dịch cấu thành phần kinh tế, phát huy vai trò của kinh tế Nhà
nước, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến tới đảm bảo công bằng xã hội.
- Để phát triển kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa yêu cầu phải nâng cao hơn nữa năng suất lao động xã hội trên cơ sở
phát triển cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng. Đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hướng tới sự tồn tại và
8
bền vững của chủ nghĩa xã hội. Muốn xã hội sau phát triển, tiến bộ hơn xã hội trước thì trước hết phải làm cho năng suất lao động của xã hội sau
cao hơn so với xã hội trước, điều này chỉ có thể đạt được nếu sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước được thực hiện thành công.
2.2.Mục tiêu xây dựng con người trong CNH-HĐH đất nước
Con người luôn là yếu tố trung tâm, trọng điểm trong sự phát triển. Dù là lĩnh vực hoạt động nào, khía cạnh nào được bàn đến cũng tập
trung vào bàn bạc và tìm ra giải pháp nhằm tạo ra các điều kiện để phục vụ cho sự phát triển toàn diện của con người. Văn kiện Đại hội lần thứ
XIII của Đảng khẳng định: “Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát
triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại
(1)
. Trong đó,
phát triển toàn diện, bao gồm đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh;
vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực
nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Như vậy có thể hiểu, vấn đề xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện phải gắn chặt với phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa mới gắn liền với sự phát
triển của con người mới.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là yếu tố trung tâm, trọng điểm, cần nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng các hệ giá trị
cốt lõi làm mục tiêu cho quá trình xây dựng. Trong đó cần chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi,
nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lich sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân,
nhất là thế hệ trẻ; giữ gìnphát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục
thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cũngmột trong những nhiệm vụ giải pháp được đặt ra tại Quyết định số
1909/QĐ-TTgngày 12/11/2021 Chính phủ ban hành phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, để thực hiện Chiến lược là phải xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.Từng bước hình thành các giá trị chuẩn mực góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, thích ứng với những
tác động của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng…nâng cao sức mạnh nội sinh nhằm khắc phục những hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái đạo đức xã hội.
9
Những yếu tố mang tính toàn diện trong quá trình xây dựng con người Việt Nam được kể trên là kết quả của quá trình hình thành và
phát triển quan điểm của Đảng và Nhà nước qua những giai đoạn cách mạng khác nhau. Với những nội hàm nêu trên, rõ ràng phát triển con
người toàn diện là một định hướng tích cực, nhân văn. Đây là một quá trình lâu dài, cần thực hiện kiên trì với nhiều giải pháp đồng bộ. Và muốn
thực hiện được một cách đồng bộ các yếu tố đó cần phải xây dựng và cụ thể hóa các hệ gtrị,lộ trình cụ thể, chi tiết để hiện thực hóa các yếu tố, mục
tiêu. Tuy nhiên cần phải nhớ rằng trong quá trình xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, phải gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại.
Những giá trị truyền thống và những giá trị hiện đại, là những yếu tố trong việc xây dựng, phát triển một nền văn hóa gắn với con
người, là hoạt động có chủ đích của các chủ thể văn hóa tác động vào môi trường tự nhiên và xã hội làm nảy sinh những giá trị mới của nền văn
hóa theo hướng chân, thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Do vậy, xây dựng, phát triển văn
hóa suy cho cùng cũng là vì con người, vì sự phát triển toàn diện của con người. Còn xây dựng, phát triển con người là quá trình tác động có chủ
đích của các chủ thể để tạo điều kiện và cơ hội cho con người phát triển toàn diện cả về trí tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mỹ. Vì vậy,
xây dựng, phát triển con người là vấn đề trung tâm của xây dựng, phát triển văn hóa.
Nhận thức tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa xây dựng, phát triển văn hóa, con người nên trong suốt quá trình thực hiện đổi
mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều văn kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Tại Văn kiện Đại hội lần
thứ XII của Đảng đã trình bày trong phần phương hướng xây dựng, phát triển văn hóa, con người: “xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện phải trở thành một mục tiêu chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật ” .
(2)
Trong điều kiện hiện nay, thực hiện các yêu cầu xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá
trị truyền thống và giá trị hiện đại, có nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn đan xen.
Vì vậy, để góp phần nâng cao khả năng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại, có thể dựa trên một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, cần phải có chiến lược phát triển con người Việt Nam thời đại mới một cách thật chi tiết, cụ thể, có lộ trình rõ ràng. Đảng ta
đã nhận thức rõ vấn đề này và khẳng định: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những
giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn kết và xây dựng hệ giá trị chung của con người
Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” . Chủ trương, chính sách này phải cụ thể, rõ ràng trong
(3)
10
việc xác định mục đích, tiêu chuẩn, nguyên tắc cho các tổ chức, cá nhân theo đó thực hiện. Vì vậy, trước hết, cần phải đổi mới tư duy và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng con người trong thời đại mới, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối
hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa để nâng cao chất lượng và hiệu của việc xây dựng con người. Và xây
dựng được ý thức, cũng như sức mạnh của cả xã hội, cả dân tộc vào mục tiêu xây dựng toàn diện con người Việt Nam thời đại mới.
Thứ hai, cần xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam, tức là phải: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị
chuẩn mực của con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” . Phải xây dựng được hệ giá trị văn hóa và hệ
(4)
giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trong thời đại mới thì mới có căn cứ để xây dựng con người. Các hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị
chuẩn mực của con người Việt Nam phải vừa phù hợp với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, vừa phải phù hợp với những giá trị
văn hóa của thời đại nhằm xây dựng con người Việt Nam với đầy đủ phẩm chất và năng lực, vừa phải mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn; vừa
có khả năng đảm nhiệm những trọng trách mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốchội chủ
nghĩa trong tình hình mới.
Thứ ba, chủ động tiếp nhận và tận dụng tối đa mọi điều kiện trong quá trình hội nhập toàn diện hiện nay đã đem lại để phát triển con
người Việt Nam.
Theo đó, chủ động, tích cực tham gia quá trình hội nhập quốc tế là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc
biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; tận dụng có hiệu quả các cơ hội do công cuộc hội nhập đem
lại để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân. Cần tập trung tận dụng mọi
thành tựu để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống cho nhân dân, qua đó tạo ra những điều kiện vật chất
phục vụ cho con người phát triển. Đây là những cơ hội cho con người cải thiện điều kiện sinh hoạt vật chất của mình làm nền tảng để phát triển
toàn diện. Tuy nhiên, phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa mới tạo ra sự phát triển bền vững, như vậy, đi đôi với việc phát triển kinh
tế phải phát triển văn hóa.
Thứ tư, phải chăm lo phát triển văn hóa Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh làm cho xã hội phát triển bền.
vững, văn hóa còn nuôi dưỡng các giá trị của con người, là thước đo trình độ phát triển con người, làm cho con người phát triển toàn diện. Từ
vai trò của văn hóa đối với sự phát triển con người và xã hội, phải quán triệt và thực hiện tốt 5 mục tiêu, 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp mà Nghị
quyết TW 9 khóa XI đề ra, trong đó tập trung: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn
hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân
ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”. Như vậy, để có thể tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn
11
hóa cần phải tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng văn hóa trong kinh tế
và chính trị, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các thiết chế văn hóa.
Thứ năm, .kiên trì thực hiện đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi những con người có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kĩ năng phân tích và tổng hợp
thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các dữ liệu. Như vậy, trong quá trình giáo dục phải trang bị
cho người học khả năng vận dụng kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết một vấn đề nan giải. Dành nhiều thời gian dạy người
học về phương pháp, kĩ năng, cách tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các thiết bị, gắn lí thuyết với thực hành,… và dạy làm người với mục
đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tâ p suốt đời và có trách nhiê m cao với gia đình, xã hô i và
Tổ quốc.
2.3.Vai trò của con người trong sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước ta hiện nay
Từ cách tiêp cận mới, Đáng ta chi ra vai trò quyết định của con người trong quá trình CNH - HĐH đất nước. Con người không chi
trung tâm của sự phát triên kinh tế - xã hội với tư cách là mục tiêu mà còn là động lực và là nhân tố bảo đàm cho quá trình CNH - HĐH đât nước
thành công.
Nói con người là động lực của sự phát triên là nói tới vai trò của nguồn lực con người bao gồm các yêu tố tri thức, kỹ năng, ý chí, tình
cảm, đạo đức.... của con người trong quá trình phát triên kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp Hành TW
khoa VIII đã chiđiều đó: "Đây mạnh CNH - HĐH". Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựngbào vệ Tổ Quốc vì "dân giàu, nước
mạnh, công băng, văn minh là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta. Đông thời là một quá trình cải biên của xã hội sâu sắc, đòi
hỏi phát huy khả năng và trí tuệ ở con người Việt Nam".
Đề phát triển kinh tếhội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chù nghĩa Xã Hội, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực như: Nguồn lực
khoa họccông nghệ; nguồn lực tài chính: nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; nguồn lực lao động.... Trong các nguồn lực trên đều có vai trò
của con người, con người với tư cách là nhân tố liên kết tích hợp, tồng hợp các nguồn lực thành động lực thúc đầy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hay có thể nói đó chính là nguồn lực con người tham gia vào quá trình phát triền và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình đó.
Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con người là tri thức, kỹ năng nghề nghiệp bí quyết hành nghề. Trong thời đại khoa hoc, công nghệ, tin
học, con người tiến lênkhông chi băng sức mạnh cơ bắp mà băng trí tuệ của mình là chủ yêu. Người lao động có tri thức nghề nghiệp, kỹ năng
12
lao động, có năng lực thích ứngvới sự phát triên của khoa học, công nghệ và sự biên đôi liên tục của nên kinh tê thị trường thì mới bảo đảm cho
nền kinh tế phát triển bền vững và ổn định.
Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố
quyết định nhất đối với tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng sống. Kinh tê tri thức là giai đoạn phát triên mới của
lực lượng sản xuất của loài người, từ chỗ chủ yếu sử dung nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí tuệ. Tri thức là yếu tố quyết định đôi với sự tăng
trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất.
Ở nước ta hiện nay đang trong quá trình CNH - HĐH găn với việc chuyên đôi cơ cấu kinh tế, chuyền đồi cơ cấu sản xuất thì vấn để vai
trò của tri thức, kỹ năng của người lao động được đặt ra. Chăng hạn, trong nông nghiệp muôn chuyên đôi vật nuôi, cây trồng nào đó ta đều phải
dùng đên tri thức. Vai trò con người trong quá trình sản xuất được biểu hiện ở lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, ý thức kỳ luật. Nguồn lực
con người trong hoạt động kinh tế được thê hiện ở khả năng tổ chức.
Nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội còn được thê hiện qua ý chí, tình cảm, đạo đức....CNH - HĐH là quá trình cài biên
xã hội sâu sắc ở nước ta đòi hỏi phải có một ý chí lớn, tư tưởng lớn... Cho nên, nó đòi hỏi con người Việt Nam phải quyết tâm vượt qua khó
khăn thứ thách, chiên thăng nghèo nàn, lạc hậu đê xây dựng đât nước thành công.
Do vậy, khi đề cập quan điêm về vai trò của con người trong quá trình phát triên kinh tế xã hội hiện nay, Đàng Cộng Sản Việt Nam
nhần mạnh: "Lấy việc phát huy nguôn lực con người làm nhân tô cho sự phát triên nhanh và bên vững" ở nước tа.
Kết luận
- Trong tất cả những nghiên cứu lý luận về con người cho đến thời điểm hiện tại thì quan điểm triết học Mác-Lênin đã giải quyết vấn
đề một cách đúng đắn và đầy đủ nhất trên quan điểm biện chứng duy vật. Theo đó, con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã
hội, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội và con người là sản phẩm của lịch sử.
- Quan điểm Mác-Lênin về con người đã mang lại ý nghĩa hiện thực vô cùng to lớn trên nhiều phương diện. Nghiên cu v vn
đ n ày, con ng ưi s tiế n gn hơn một bươc trong việc khám phá về chính mình, từ đó ưng dụng vào đời sống ở n hng lĩnh vc khác
nhau như: chính tr, ki nh tế, xã hi,….. Hiu rõ hơn v bn chất của bản thân và những môi quan hệ liên quan, con người sẽ biết
tự điều chỉnh nh vi sao cho phù hp vơi nhng môi quan h đó, t đó có đng lc phát trin bản thân nói riêng cũng như
cộng đồng, xã hội nói chung bền vững đi lên.
13
- Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang là xu hướng chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó cũng là con đường
phát triển tất yếu của nước ta để đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” công nghiệp hoá, hiện đại hoá
không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi, cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,
văn hoá, khoa học và con người), làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Và trong quá trình đó con người chính là cơ sở, động
lực phát triển. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, đồng thời vừa là trung
tâm của mọi biến đổi lịch sử. Nói cách khác, con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày nay, chủ thể
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn chính là con người. Chính vì vậy, quá trình này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng,
mạnh về chất lượng. Nói cách khác, nguồn nhân lực phải trở thành động lực thật sự của sự phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin của NXB chính trị quốc gia (tập I, tập II).
2. https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/xay-dung-con-nguoi-viet-nam-phat-trien-toan-dien-gan-ket-chat-che-hai-hoa-giua-
gia-tri-truyen-thong-va-hien-dai-139570
3. https://luanvan.co/luan-van/tieu-luan-quan-diem-triet-hoc-mac-lenin-ve-con-nguoi-va-van-de-xay-dung-nguon-nhan-luc-con-
nguoi-trong-su-nghiep-cong-61095/
4. https://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-van-de-con-nguoi-trong-triet-hoc-mac-lenin-va-phat-huy-nhan-to-con-nguoi-trong-su-nghiep-
cong-nghiep-hoa-va-35638/
5. https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-su-pham-ky-thuat-thanh-pho-ho-chi-minh/triet-hoc-mac/quan-diem-triet-
hoc-mac-lenin-ve-con-nguoi-va-vai-tro-cua-con-nguoi-trong-su-nghiep-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-hien-nay/25932090
14
| 1/15

Preview text:

VHD: Đỗ Thị Thanh Huyền VTH: TRƯỜ ẬT TP.HCM -----🙞🙜🕮🙞🙜-----
MÔN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN BÀI TIỂU LUẬN Đề tài: Q
uan điểm triết học Mác-Lênin về con người và vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2023
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………… ĐIỂM: …….. KÍ TÊN MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU……..………………………………………….…………………….3 PHẦN CHÍNH
1. Quan điểm Mác-Lênin về con người……………………..…………………...4
1.1.Khái niệm con người …………………………….…………………...4
1.2.Bản tính của con người………….……………………...…….............4 1
1.3.Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội………………………………….
…………………………….…..6
1.4.Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội…………………………………………………..………………..7
1.5.Con người là sản phẩm của lịch sử….………………………………..8
2. Quan điểm Mác-Lênin về vai trò của con người trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước hiện nay….…..
…………………………………………………….10
2.1.Tính tất yếu khách quan của CNH-HĐH đất nước hiện nay………………………………………………………….. ……....10
2.2.Mục tiêu xây dựng con người trong CNH-HĐH đất nước…………………………………………...……………..……...12
2.3.Vai trò của con người trong sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước ta hiện
nay……………………………………..……………...18
KẾT LUẬN….……………………………………………………….…………....20
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………....21 Lời nói đầu
-Trong thời đại hiện đại, sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước đã trở thành một mục tiêu quan trọng của nhiều quốc
gia trên thế giới. Trong bối cảnh này, quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và vai trò của con người trong quá trình này đã trở nên đáng
chú ý. Triết học Mác-Lênin, được hình thành dựa trên cơ sở triết học duy vật biện chứng, đặt con người vào trung tâm và coi con người là nhân
tố quyết định trong sự phát triển xã hội.
-Theo quan điểm Mác-Lênin, con người không chỉ là một đối tượng của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa, mà còn là chủ
thể, người sáng tạo và điều hành quá trình này. Con người có khả năng tư duy, sáng tạo và làm việc cùng nhau để đạt được mục tiêu chung của
xã hội. Vai trò của con người không chỉ giới hạn trong việc sản xuất vật chất, mà còn bao gồm cả việc xây dựng và phát triển các giá trị tinh
thần, văn hóa và xã hội.
-Trên cơ sở quan điểm này, quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước không chỉ đòi hỏi sự đầu tư về cơ sở hạ tầng vật chất,
mà còn cần sự đầu tư vào con người. Để đạt được sự phát triển bền vững, cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho con người để phát huy tối đa khả 2
năng sáng tạo, đóng góp và tham gia vào quá trình này. Đồng thời, cần xây dựng một môi trường xã hội công bằng, nơi mọi người được đối xử
bình đẳng và có cơ hội phát triển theo năng lực của mình.
-Trên cơ sở những quan điểm trên, bài tiểu luận này sẽ tìm hiểu và phân tích sâu hơn về quan điểm triết học Mác-Lênin về con người
và vai trò của con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện nay.
-Chúng ta sẽ xem xét những ý kiến và lập luận của Mác-Lênin, cũng như áp dụng chúng vào thực tế hiện nay để đánh giá sự phù hợp
và khả thi của quan điểm này trong bối cảnh xã hội đương đại. Phần chính
1. Quan điểm Mác-Lênin về con người
1.1. Khái niệm về con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Vì vậy, bản tính tự nhiên
là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người. Do vậy, việc nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn
gốc tự nhiên của con người là cơ sở khoa học quan trọng để con người hiểu biết về chính bản thân mình, tiến đến làm chủ bản thân mình trong
mọi hành vi và hoạt động sáng tạo ra lịch sử của nó, tức lịch sử nhân loại.
1.2. Bản tính của con người
1.2a. Bản tính tự nhiên của con người
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
+ Thứ nhất: con người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Cơ sở khoa học của kết luận này đã
được chứng minh bằng toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
+ Thứ hai: con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng "là thân thể vô cơ của con người". Do đó,
những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và
xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài 3
người luôn luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. Đây chính là mối quan hệ biện chứng giữa sự tồn tại của con
người, loài người và các tồn tại khác của giới tự nhiên. Tuy nhiên, con nguời không đồng nhất với các tồn tại khác của giới tự nhiên, nó mang
đặc tính xã hội bởi vì mỗi con người với tư cách là "người" chính là xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, đó là các cộng đồng: gia
đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.... Vì vậy, bản tính xã hội nhất định phải là một phương diện khác của bản tính con người, hơn nữa
đây là bản tính đặc thù của con người.
1.2b. Bản chất xã hội của con người
- Bản chất xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:
+ Một là xét từ giác độ nguồn gốc hình thành, loài người không phải chỉ có nguồn gốc từ sự tiến hóa, phát triển của vật chất tự nhiên
mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua
loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đó là một trong những phát hiện mới của chủ nghĩa Mác -Lênin, nhờ đó có thể hoàn chỉnh
học thuyết về nguồn gốc của loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải đáp đúng đắn và đầy đủ.
+ Hai là xét từ giác độ tồn tại và phát triển, thì sự tồn tại của loài người luôn luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật
xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng có sự thay đổi tương ứng. Ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát
triển của xã hội. Ngoài mối quan hệ xã hội thì mỗi con người chỉ tồn tại với tư cách là một thực thể sinh vật thuần túy, không thể là "con người"
với đầy đủ ý nghĩa của nó.
 Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất,quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi
lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính nó. Vì thế, nêu lý giải bản tính
sáng tạo của con người đơn thuần chỉ từ giác độ bản tính tự nhiên hoặc chỉ từ bản tính xã hội thì đều là phiến diện, không triệt để và nhất định
cuối cùng sẽ dẫn đến những kết luận sai lầm trong nhận thức và thực tiễn.
1.3. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội
- Mặt sinh vật bao gồm cơ thể con người cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối đời sống cơ thể con người.
- Mặt xã hội bao gồm “Tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội đời sống tinh thần của con người.
Hai mặt này có quan hệ khăng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người,
nhưng không phải là yếu tố quyết định bản tính con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản tính con người. Bởi mặt xã hội của 4
con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của
con người, đồng thời hình thành nhấn cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩn của tự nhiên và xã hội nên qua trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy
luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau:
- Những quy luật chi phối đời sống của cơ thể.
- Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức.
- Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.
Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
Bản tính của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động
thực tiễn của con người.
1.4. Bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể xác định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt
động thực tiễn của mình, con người đã tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thế lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong
toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người con người mới bộc lộ bản chất xã hội của mình.
Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác-Lênin không phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người,
triết học Mác-Lênin chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã hội.
Sự hình thành, phát triển con người là quá trình gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất:
- Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện
thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. “ Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo,
nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được ” . Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người sản xuất ra tư liệu
sinh hoạt của mình-đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể con người quy định.
- Con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình chính là gián tiếp tạo ra đời sống vật chất của bản thân. Nhờ hoạt động sản
xuất đó con người đã là biến chuyển giới tự nhiên: “ Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”
. Tính xã hội của con người được biểu hiện thống qua quá trình sản xuất vật chất, hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính
xã hội của con người. Thông qua quá trình lao động sản xuất, con người tạo ra những của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho đời sống; con 5
người sáng tạo và phát triền ngôn ngữ và tư duy; con người giao tiếp và xác lập các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, lao động chính là yếu tố quyết
định hình thành bản tính xã hội của con người.
1.5. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
- Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời, lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo
là thuộc tính xã hội tối cao của con người.
- Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử
nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra,
và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy, thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.
- Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân chính là hoạt động chế tạo công cụ lao động,
hoạt động lao động sản xuất. Nhờ chế tạo công cụ lao động mà con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực
tiễn xã hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản chất của con người, nhưng con người
không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà là phải dựa vào những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại trong những hoàn cảnh mới.
- Từ khi con người tạo ra lịch sử cho đến nay con người luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm của lịch sử. Con người
tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống môi trường xác định.
 Đó là những điều kiện cần thiết, tất yếu, không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Một mặt, con người là một bộ
phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải quan hệ với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn
lực của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình. Mặt khác, là một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân
theo các quy luật của tự nhiên, tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học,vật lý, hóa học, đặc biệt là các quá trình y, sinh học, tâm sinh lý khác nhau.
- Con người cũng tồn tại trong môi trường xã hội. Chính nhờ môi trường xã hội mà con người trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội.
- Môi trường xã hội cũng là điều kiện và tiền đề để con người có thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên ở quy mô rộng lớn và hữu hiệu
hơn. Trong thực chất thì môi trường xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên với những đặc thù của nó. So với môi trường tự nhiên môi trường 6
xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến con người, sự tác động của môi trường tự nhiên đến từng cá nhân con người thường phải thông
qua môi trường xã hội và chịu ảnh hưởng sâu sắc của các nhân tố xã hội như môi trường thông tin, kiến thức, môi trường từ tính, môi trường
điện, môi trường hấp dẫn, môi trường sinh học, v.v...
- Môi trường sinh học, môi trường cận tâm lý, môi trường tương tác yếu, đang được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên là những môi trường như vậy.
- Tuy nhiên, dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới được phát hiện hay còn có những ý kiến, quan niệm khác nhau, thì chúng đều hoặc là
thuộc về môi trường tự nhiên, hoặc là thuộc về môi trường xã hội. Tính chất, phạm vi, vai trò và tác động của chúng đến con người là khác nhau,
không giống hoàn toàn như môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chúng là những hiện tượng, quá trình cụ thể của tự nhiên hoặc xã hội, có
tác động, ảnh hưởng ở một khía cạnh hẹp, cụ thể và xác định ở phương diện tự nhiên hoặc xã hội.
2. Quan điểm Mác- Lênin về vai trò của con người trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước hiện nay
2.1.Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Công nghiệp hóa hiện đại hóa được hiểu là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội, chuyển từ sử dụng
sức lao động thủ công sang sử dụng lao động đã qua đào tạo trên cơ sở phát triển khoa học công nghệ, góp phần nâng cao năng suất lao động xã
hội. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa được xem là một quy luật kinh tế phổ biến và mang tính tất yếu khách quan.
- Trước hết, công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta được xem như một quy luật phổ biến của sự phát triển. Quy luật ấy thể hiện thông
qua sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phát triển của xã hội. Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quy luật phổ biến của sự phát triển lực
lượng sản xuất tiến tới phát triển mạnh mẽ nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa trong
phát triển lực lượng sản xuất được chỉ rõ ở những nội dung sau:
+ Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tác động mạnh mẽ tới nền sảnxuất của mỗi quốc gia. Nó thay đổi về chất của nền sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời chuyển biến nền sản xuất thủ công sang sản
xuất cơ khí dựa vào tiến bộ của khoa học – công nghệ.
+ Sự ra đời của những thành tựu khoa học kỹ thuật là kết quả tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đây, nhân loại vận
dụng những thành tựu này phục vụ trong sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động, phát triển nhanh chóng nền kinh tế. 7
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là cơ hội để các nước đang phát triển như Việt Nam tiếp cận và chuyển giao khoa học – công
nghệ ở trình độ tiên tiến. Muốn phát triển nhanh chóng về mọi mặt không có cách nào khác là phải dựa vào những thành tựu khoa học hiện đại.
- Khi thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, ngoài chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế thì cơ cấu lao động cũng chuyển biến theo hướng
tích cực. Nguồn lao động chuyển từ khu vực sử dụng nhiều lao động chân tay sang lĩnh vực gắn liền với kinh tế tri thức. Theo thời gian, tính tất
yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa không chỉnằm ở sự phát triển kinh tế mà hơn hết là sự phát triển mọi mặt của xã hội:
+ Công nghiệp hóa hiện đại hóa thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng, năng suất lao động tăng, tạo việc làm ổn định, tăng thu
nhập. Bên cạnh đó người dân có cơ hội hưởng phúc lợi xã hội, tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế…
+ Công nghiệp hóa hiện đại hóa còn là yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong đó, củng cố quốc phòng an ninh, giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là mục tiêu hàng đầu.
- Thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là con đường vững chắc để Việt Nam xây dựng hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội. Đây là một tiến trình lâu dài và là quy luật mang tính tất yếu của của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Cơ sở vật chất – kỹ
thuật là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất do con người tạo ra để tiến hành sản xuất. Nó là mặt chủ đạo của sản xuất,thể hiện
trình độ chinh phục tự nhiên của nhân loại theo dòng chảy lịch sử.
- Tính tất yếu của công nghiệp hóa hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa còn xuất phát từ yêu cầu tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Sự phát
triển cơ sở vật chất – kỹ thuật đảm bảo sự phát triển quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất. Tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa
tạo ra hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, là tiền đề thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Cụ thể:
+ Cơ sở vật chất - kỹ thuật xã hội chủ nghĩa thay đổi chất của nền sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo điều kiện thuận lợi để phát
triển khoa học – kỹ thuật, hình thành ý thức xã hội mới.
+ Công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thủ công được thay thế bằng đội ngũ lao
động sử dụng máy móc, trang thiết bị tiên tiến.
+ Công nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với yêu cầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến tới củng cố và nâng cao vị thế của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân
gắn với yếu tố tri thức.Tiến hành tái sắp xếp nền kinh tế quốc dân, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế, phát huy vai trò của kinh tế Nhà
nước, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến tới đảm bảo công bằng xã hội.
- Để phát triển kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa yêu cầu phải nâng cao hơn nữa năng suất lao động xã hội trên cơ sở
phát triển cơ sở vật chất – kỹ thuật tương ứng. Đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hướng tới sự tồn tại và 8
bền vững của chủ nghĩa xã hội. Muốn xã hội sau phát triển, tiến bộ hơn xã hội trước thì trước hết phải làm cho năng suất lao động của xã hội sau
cao hơn so với xã hội trước, điều này chỉ có thể đạt được nếu sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước được thực hiện thành công.
2.2.Mục tiêu xây dựng con người trong CNH-HĐH đất nước
Con người luôn là yếu tố trung tâm, trọng điểm trong sự phát triển. Dù là lĩnh vực hoạt động nào, khía cạnh nào được bàn đến cũng tập
trung vào bàn bạc và tìm ra giải pháp nhằm tạo ra các điều kiện để phục vụ cho sự phát triển toàn diện của con người. Văn kiện Đại hội lần thứ
XIII của Đảng khẳng định: “Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát (1)
triển. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” . Trong đó,
phát triển toàn diện, bao gồm đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh;
vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực
nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Như vậy có thể hiểu, vấn đề xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện phải gắn chặt với phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa mới gắn liền với sự phát
triển của con người mới.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là yếu tố trung tâm, trọng điểm, cần nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng các hệ giá trị
cốt lõi làm mục tiêu cho quá trình xây dựng. Trong đó cần chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi,
nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lich sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân,
nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục
thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cũng là một trong những nhiệm vụ và giải pháp được đặt ra tại Quyết định số
1909/QĐ-TTgngày 12/11/2021 Chính phủ ban hành phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, để thực hiện Chiến lược là phải xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.Từng bước hình thành các giá trị chuẩn mực góp phần phát triển toàn diện con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế, thích ứng với những
tác động của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng…nâng cao sức mạnh nội sinh nhằm khắc phục những hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái đạo đức xã hội. 9
Những yếu tố mang tính toàn diện trong quá trình xây dựng con người Việt Nam được kể trên là kết quả của quá trình hình thành và
phát triển quan điểm của Đảng và Nhà nước qua những giai đoạn cách mạng khác nhau. Với những nội hàm nêu trên, rõ ràng phát triển con
người toàn diện là một định hướng tích cực, nhân văn. Đây là một quá trình lâu dài, cần thực hiện kiên trì với nhiều giải pháp đồng bộ. Và muốn
thực hiện được một cách đồng bộ các yếu tố đó cần phải xây dựng và cụ thể hóa các hệ giá trị, có lộ trình cụ thể, chi tiết để hiện thực hóa các yếu tố, mục
tiêu. Tuy nhiên cần phải nhớ rằng trong quá trình xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, phải gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại.
Những giá trị truyền thống và những giá trị hiện đại, là những yếu tố trong việc xây dựng, phát triển một nền văn hóa gắn với con
người, là hoạt động có chủ đích của các chủ thể văn hóa tác động vào môi trường tự nhiên và xã hội làm nảy sinh những giá trị mới của nền văn
hóa theo hướng chân, thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Do vậy, xây dựng, phát triển văn
hóa suy cho cùng cũng là vì con người, vì sự phát triển toàn diện của con người. Còn xây dựng, phát triển con người là quá trình tác động có chủ
đích của các chủ thể để tạo điều kiện và cơ hội cho con người phát triển toàn diện cả về trí tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mỹ. Vì vậy,
xây dựng, phát triển con người là vấn đề trung tâm của xây dựng, phát triển văn hóa.
Nhận thức tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa xây dựng, phát triển văn hóa, con người nên trong suốt quá trình thực hiện đổi
mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều văn kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Tại Văn kiện Đại hội lần
thứ XII của Đảng đã trình bày trong phần phương hướng xây dựng, phát triển văn hóa, con người: “xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện phải trở thành một mục tiêu chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt
Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng (2)
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật ” .
Trong điều kiện hiện nay, thực hiện các yêu cầu xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá
trị truyền thống và giá trị hiện đại, có nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng có không ít khó khăn đan xen.
Vì vậy, để góp phần nâng cao khả năng xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giá trị truyền
thống và giá trị hiện đại, có thể dựa trên một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, cần phải có chiến lược phát triển con người Việt Nam thời đại mới một cách thật chi tiết, cụ thể, có lộ trình rõ ràng. Đảng ta
đã nhận thức rõ vấn đề này và khẳng định: “Sớm có chiến lược quốc gia về xây dựng gia đình Việt Nam, góp phần giữ gìn và phát triển những
giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Đoàn kết và xây dựng hệ giá trị chung của con người (3)
Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”
. Chủ trương, chính sách này phải cụ thể, rõ ràng trong 10
việc xác định mục đích, tiêu chuẩn, nguyên tắc cho các tổ chức, cá nhân theo đó thực hiện. Vì vậy, trước hết, cần phải đổi mới tư duy và phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng con người trong thời đại mới, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối
hợp và chia sẻ trách nhiệm giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa để nâng cao chất lượng và hiệu của việc xây dựng con người. Và xây
dựng được ý thức, cũng như sức mạnh của cả xã hội, cả dân tộc vào mục tiêu xây dựng toàn diện con người Việt Nam thời đại mới.
Thứ hai, cần xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam, tức là phải: “Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị (4)
chuẩn mực của con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”
. Phải xây dựng được hệ giá trị văn hóa và hệ
giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trong thời đại mới thì mới có căn cứ để xây dựng con người. Các hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị
chuẩn mực của con người Việt Nam phải vừa phù hợp với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, vừa phải phù hợp với những giá trị
văn hóa của thời đại nhằm xây dựng con người Việt Nam với đầy đủ phẩm chất và năng lực, vừa phải mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn; vừa
có khả năng đảm nhiệm những trọng trách mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong tình hình mới.
Thứ ba, chủ động tiếp nhận và tận dụng tối đa mọi điều kiện trong quá trình hội nhập toàn diện hiện nay đã đem lại để phát triển con người Việt Nam.
Theo đó, chủ động, tích cực tham gia quá trình hội nhập quốc tế là yêu cầu tất yếu khách quan; là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc
biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; tận dụng có hiệu quả các cơ hội do công cuộc hội nhập đem
lại để thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân. Cần tập trung tận dụng mọi
thành tựu để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập, nâng cao mức sống cho nhân dân, qua đó tạo ra những điều kiện vật chất
phục vụ cho con người phát triển. Đây là những cơ hội cho con người cải thiện điều kiện sinh hoạt vật chất của mình làm nền tảng để phát triển
toàn diện. Tuy nhiên, phát triển kinh tế phải gắn với phát triển văn hóa mới tạo ra sự phát triển bền vững, như vậy, đi đôi với việc phát triển kinh
tế phải phát triển văn hóa.
Thứ tư, phải chăm lo phát triển văn hóa. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh làm cho xã hội phát triển bền
vững, văn hóa còn nuôi dưỡng các giá trị của con người, là thước đo trình độ phát triển con người, làm cho con người phát triển toàn diện. Từ
vai trò của văn hóa đối với sự phát triển con người và xã hội, phải quán triệt và thực hiện tốt 5 mục tiêu, 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp mà Nghị
quyết TW 9 khóa XI đề ra, trong đó tập trung: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn
hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân
ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”. Như vậy, để có thể tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn 11
hóa cần phải tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng văn hóa trong kinh tế
và chính trị, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng, hoàn thiện đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của các thiết chế văn hóa.
Thứ năm, kiên trì thực hiện đổi mới toàn diện nền giáo dục Việt Nam.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi những con người có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kĩ năng phân tích và tổng hợp
thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các dữ liệu. Như vậy, trong quá trình giáo dục phải trang bị
cho người học khả năng vận dụng kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác nhau để giải quyết một vấn đề nan giải. Dành nhiều thời gian dạy người
học về phương pháp, kĩ năng, cách tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các thiết bị, gắn lí thuyết với thực hành,… và dạy làm người với mục
đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tâ ’p suốt đời và có trách nhiê ’m cao với gia đình, xã hô ’i và Tổ quốc.
2.3.Vai trò của con người trong sự nghiệp CNH-HĐH của đất nước ta hiện nay
Từ cách tiêp cận mới, Đáng ta chi ra vai trò quyết định của con người trong quá trình CNH - HĐH đất nước. Con người không chi là
trung tâm của sự phát triên kinh tế - xã hội với tư cách là mục tiêu mà còn là động lực và là nhân tố bảo đàm cho quá trình CNH - HĐH đât nước thành công.
Nói con người là động lực của sự phát triên là nói tới vai trò của nguồn lực con người bao gồm các yêu tố tri thức, kỹ năng, ý chí, tình
cảm, đạo đức.... của con người trong quá trình phát triên kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp Hành TW
khoa VIII đã chi rõ điều đó: "Đây mạnh CNH - HĐH". Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bào vệ Tổ Quốc vì "dân giàu, nước
mạnh, công băng, văn minh là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta. Đông thời là một quá trình cải biên của xã hội sâu sắc, đòi
hỏi phát huy khả năng và trí tuệ ở con người Việt Nam".
Đề phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chù nghĩa Xã Hội, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực như: Nguồn lực
khoa học và công nghệ; nguồn lực tài chính: nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; nguồn lực lao động.... Trong các nguồn lực trên đều có vai trò
của con người, con người với tư cách là nhân tố liên kết tích hợp, tồng hợp các nguồn lực thành động lực thúc đầy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hay có thể nói đó chính là nguồn lực con người tham gia vào quá trình phát triền và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình đó.
Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con người là tri thức, kỹ năng nghề nghiệp bí quyết hành nghề. Trong thời đại khoa hoc, công nghệ, tin
học, con người tiến lênkhông chi băng sức mạnh cơ bắp mà băng trí tuệ của mình là chủ yêu. Người lao động có tri thức nghề nghiệp, kỹ năng 12
lao động, có năng lực thích ứngvới sự phát triên của khoa học, công nghệ và sự biên đôi liên tục của nên kinh tê thị trường thì mới bảo đảm cho
nền kinh tế phát triển bền vững và ổn định.
Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố
quyết định nhất đối với tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng sống. Kinh tê tri thức là giai đoạn phát triên mới của
lực lượng sản xuất của loài người, từ chỗ chủ yếu sử dung nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí tuệ. Tri thức là yếu tố quyết định đôi với sự tăng
trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất.
Ở nước ta hiện nay đang trong quá trình CNH - HĐH găn với việc chuyên đôi cơ cấu kinh tế, chuyền đồi cơ cấu sản xuất thì vấn để vai
trò của tri thức, kỹ năng của người lao động được đặt ra. Chăng hạn, trong nông nghiệp muôn chuyên đôi vật nuôi, cây trồng nào đó ta đều phải
dùng đên tri thức. Vai trò con người trong quá trình sản xuất được biểu hiện ở lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp, ý thức kỳ luật. Nguồn lực
con người trong hoạt động kinh tế được thê hiện ở khả năng tổ chức.
Nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội còn được thê hiện qua ý chí, tình cảm, đạo đức....CNH - HĐH là quá trình cài biên
xã hội sâu sắc ở nước ta đòi hỏi phải có một ý chí lớn, tư tưởng lớn... Cho nên, nó đòi hỏi con người Việt Nam phải quyết tâm vượt qua khó
khăn thứ thách, chiên thăng nghèo nàn, lạc hậu đê xây dựng đât nước thành công.
Do vậy, khi đề cập quan điêm về vai trò của con người trong quá trình phát triên kinh tế xã hội hiện nay, Đàng Cộng Sản Việt Nam
nhần mạnh: "Lấy việc phát huy nguôn lực con người làm nhân tô cho sự phát triên nhanh và bên vững" ở nước tа. Kết luận
- Trong tất cả những nghiên cứu lý luận về con người cho đến thời điểm hiện tại thì quan điểm triết học Mác-Lênin đã giải quyết vấn
đề một cách đúng đắn và đầy đủ nhất trên quan điểm biện chứng duy vật. Theo đó, con người là thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã
hội, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội và con người là sản phẩm của lịch sử.
- Quan điểm Mác-Lênin về con người đã mang lại ý nghĩa hiện thực vô cùng to lớn trên nhiều phương diện. Nghiên cứu về vấn
đề này, con người sẽ tiến gần hơn một bươc trong việc khám phá về chính mình, từ đó ưng dụng vào đời sống ở những lĩnh vực khác
nhau như: chính trị, kinh tế, xã hội,….. Hiểu rõ hơn về bản chất của bản thân và những môi quan hệ liên quan, con người sẽ biết
tự điều chỉnh hành vi sao cho phù hợp vơi những môi quan hệ đó, từ đó có động lực phát triển bản thân nói riêng cũng như
cộng đồng, xã hội nói chung bền vững đi lên. 13
- Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã và đang là xu hướng chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó cũng là con đường
phát triển tất yếu của nước ta để đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” công nghiệp hoá, hiện đại hoá
không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến đổi, cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị,
văn hoá, khoa học và con người), làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Và trong quá trình đó con người chính là cơ sở, động
lực phát triển. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, đồng thời vừa là trung
tâm của mọi biến đổi lịch sử. Nói cách khác, con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày nay, chủ thể
của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn chính là con người. Chính vì vậy, quá trình này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng,
mạnh về chất lượng. Nói cách khác, nguồn nhân lực phải trở thành động lực thật sự của sự phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình triết học Mác-Lênin của NXB chính trị quốc gia (tập I, tập II).
2. https://tuyengiao.vn/van-hoa-xa-hoi/van-hoa/xay-dung-con-nguoi-viet-nam-phat-trien-toan-dien-gan-ket-chat-che-hai-hoa-giua-
gia-tri-truyen-thong-va-hien-dai-139570
3. https://luanvan.co/luan-van/tieu-luan-quan-diem-triet-hoc-mac-lenin-ve-con-nguoi-va-van-de-xay-dung-nguon-nhan-luc-con-
nguoi-trong-su-nghiep-cong-61095/
4. https://doc.edu.vn/tai-lieu/tieu-luan-van-de-con-nguoi-trong-triet-hoc-mac-lenin-va-phat-huy-nhan-to-con-nguoi-trong-su-nghiep- cong-nghiep-hoa-va-35638/
5. https://www.studocu.com/vn/document/truong-dai-hoc-su-pham-ky-thuat-thanh-pho-ho-chi-minh/triet-hoc-mac/quan-diem-triet-
hoc-mac-lenin-ve-con-nguoi-va-vai-tro-cua-con-nguoi-trong-su-nghiep-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-dat-nuoc-hien-nay/25932090 14