Quan điểm triết học Mác-Lênin về Nhà nước và vấn đề xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa theo pháp quyền ở Việt Nam | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Quá trình xây dựng và hoàn thiện đất nước xã hội chủ nghĩa pháp quyền cũng là quá trình đấu tranh chống lại các quan điểm, luận điệu chống phá của các thế lực thù địch. Đây là nhiệm vụ gian khổ, phức tạp và lâu dài, đòi hỏi tư duy nhạy bén, tổ chức linh hoạt, sáng tạo, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Tiểu luận cuối kỳ
TÌM HIỂU SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA
TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
TRONG VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
MÃ SỐ LỚP: 211LLCT130105 _ 22CLC. GVHD: TS. TRẦN THỊ THẢO. THỰC HIỆN: NHÓM 5. HỌC KỲ - NĂM HỌC 1 2021-2022.
Tp. Thủ Đức, tháng 01 năm 2022 1
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2021-2022
Nhóm: 05 (Lớp: 211LLCT130105 _ 22CLC)
Tên đề tài: Tìm hiểu sự vận dụng quan điểm của triết học Mác Lênin về nhà nước
trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. STT
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN MSSV 1 Phạm Ngọc Quỳnh Đan 21116057 2 Nguyễn Thị Mỹ Hạnh 21125225 3 Thái Huyền Minh Anh 21125221 4 Tăng Khả Di 21125217 5 Phạm Thị Anh Thư 21125065 6 Bùi Hoàng Quyên 21125262 7 Trần Thùy Linh 21116357 8 Nguyễn Việt Phước Hòa 21125232 Ghi chú:
-Trưởng nhóm: Nguyễn Việt Phước Hòa. SĐT: 0971216558
Điểm số:..................................................................................................................
Nhận xét của giáo viên:
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
TP. Thủ Đức, ngày 20 tháng 1 năm 2022
Chữ ký xác nhận của giảng viên TS. TRẦN THỊ THẢO 1
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ THỨ NHIỆM VỤ THỰC HIỆN KẾT QUẢ KÝ TÊN TỰ Phụ trách: phần 1.3,1.4; làm 1 Hoàn thành Nguyễn Thị Mỹ Hạnh 100%+11.2% Phụ trách: phần Phạm Ngọc Quỳnh Đan Hoàn thành 2 1.1, 1.2; làm 100%+11.2% word. Phụ trách:phần Thái Huyền Minh Anh Hoàn thành 2.2; làm 100%+11.2% 3 powerpoint; thuyết trình. Phụ trách: phần 2.3; soạn câu Hoàn thành 4 Tăng Khả Di 100%+7% Phụ trách: phần 2.1; nội dung Hoàn thành 5 Phạm Thị Anh Thư thực tiễn; chỉnh 100%+5.9% sửa powerpoint. Phụ trách: phần Hoàn thành 6 1.5; chỉnh sửa Bùi Hoàng Quyên 100%+1.5% nội dung. Phụ trách: thuyết Hoàn thành 7 Trần Thùy Linh 97.22% Hoàn thành 8 hợp nội dung; Nguyễn 54.78% nộp bài MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU...............................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài:...................................................................................4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:.........................................................5
3. Phương pháp nghiên cứu:.......................................................................5
4. Kết cấu đề tài:........................................................................................5
B. NỘI DUNG............................................................................................................6
CHƯƠNG 1:...................................QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ
NHÀ NƯỚC.................................................................................................................. 6
1.1 Nguồn gốc của nhà nước:.......................................................................6
1.2 Bản chất của nhà nước:...........................................................................7
1.3 Đặc trưng cơ bản của nhà nước:...........................................................10
1.4 Chức năng của nhà nước:......................................................................12
1.5 Các kiểu và hình thức nhà nước:...........................................................14
CHƯƠNG 2:...............VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................................................................18
2.1 Khái niệm và đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:...18
2.1 Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam:............................................................................................................................ 21
2.2 Vai trò, trách nhiệm của sinh viên trong việc góp phần nhận thức.......23
và tuyên truyền về nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam:........................23
C. KẾT LUẬN.........................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................26 3 A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Quá trình xây dựng và hoàn thiện đất nước xã hội chủ nghĩa pháp quyền
cũng là quá trình đấu tranh chống lại các quan điểm, luận điệu chống phá của
các thế lực thù địch. Đây là nhiệm vụ gian khổ, phức tạp và lâu dài, đòi hỏi tư
duy nhạy bén, tổ chức linh hoạt, sáng tạo, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.
Trong suốt quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, Đảng và nhà nước ta
đã vận động, chọn lọc và phát huy những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
vận dụng vào điều kiện thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tư tưởng nhà nước
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý luận của Lênin, bởi nó không
phải là lý luận khoa học thuần túy, mà gắn liền với các quan điểm chính trị,
không chỉ là sự phản ánh tinh thần mà còn liên quan đến hoạt động thực tiễn sinh
động của ông. Vì vậy, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đất nước xã hội
chủ nghĩa pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu quan điểm nhà nước
của Lênin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trên cơ sở triết học Mác-Lênin, Đảng và nước ta đã nghiên cứu, tiếp thu
những tư tưởng tiến bộ, đưa ra những mục tiêu, phương hướng chính xác, đúng
đắn, phù hợp với điều kiện đất nước để xây dựng và phát triển xã hội. Mặc dù
không tránh khỏi những thiếu sót, nhưng chúng ta đã luôn đi đúng hướng để cải
thiện và phát triển kinh tế, từng bước đưa nước ta ngang tầm với các nước khác
trên thế giới về mọi mặt. Những thành tựu của công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa mười năm đổi mới là minh chứng rõ ràng cho những vấn đề nêu trên. Ở
nước ta, nhất là trong công cuộc đổi mới hiện nay, việc hiểu và thực hành các
hoạt động cải tiến, nắm bắt các quy luật khách quan của vận hành kinh tế đang
là vấn đề đáng quan tâm và tranh cãi. Trên cơ sở những hiểu biết trên, nhóm
05-22CLC-K21 quyết định chọn đề tài “Quan điểm triết học Mác-Lênin về Nhà
nước và vấn đề xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa theo pháp quyền ở Việt Nam.” 4
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
*Đối tượng nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, đối tượng mà chúng em muốn nghiên cứu đó là
quan điểm của triết học Mác-Lênin về nhà nước và giải pháp xây dựng bộ máy
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong phạm vi nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
*Phạm vi nghiên cứu:
Nước cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu:
-Trong tiểu luận chủ yếu sử dụng phương pháp tổng - phân - hợp để làm rõ đề tài.
-Tham khảo giáo trình Triết học Mác- Lênin, sách, báo, internet và những tài
liệu khác liên quan đến đề tài.
-Tổng hợp nguồn tài liệu thu thập thành đề cương chi tiết sau đó nghiên cứu,
thảo luận đưa vào nội dung bài tiểu luận sao cho phù hợp với đề tài.
4. Kết cấu đề tài:
Tiểu luận với nội dung gồm 2 chương chính:
-Chương 1: Quan điểm của triết học Mác- Lênin về nhà nước.
-Chương 2: Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 5 B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ NHÀ NƯỚC
1.1 Nguồn gốc của nhà nước:
Trong xã hội nguyên thủy, do tồn tại các bộ lạc, bộ tộc, xã hội tồn tại theo
chế độ tự trị. Chế độ tư hữu đã xuất hiện vào giai đoạn cuối xã hội cộng sản
nguyên thủy. Trong xã hội ngày càng xảy ra nhiều bất bình đẳng và phân chia
giai cấp. Điều này cũng dẫn đến sự xuất hiện của giai cấp bị trị và giai cấp
thống trị. Mâu thuẫn giữa hai giai cấp ngày càng trở nên phức tạp, dẫn đến cuộc
đấu tranh chống lại sự thống trị của giai cấp bị trị. Cuộc đấu tranh giai cấp đầu
tiên trong xã hội chủ nô nổ ra giữa chủ nô và nô lệ, đòi hỏi sự xuất hiện của một
nhà nước để giải quyết mâu thuẫn giữa các giai cấp, để duy trì sự tồn tại của xã hội
Nhà nước ra đời để trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Nhà nước
là sản phẩm của một xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định khi: “Xã
hội đó bị phân thành những mặt đối lập không thể điều hòa mà xã hội đó bất
lực không sao loại bỏ được.”
Nhà nước ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu duy trì trật tự và ổn định trong xã
hội. VI Lênin cho rằng, nhà nước ra đời khi trong xã hội xuất hiện “những biểu
hiện của mâu thuẫn giai cấp không thể hòa giải”. Rằng: “Bất cứ ở đâu, hễ lúc
nào và chừng nào, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng
tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được.”(1)
Vậy tóm lại ta có thể thấy nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự xuất hiện của nhà
nước nằm ở chỗ, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự phong phú
tương đối của cải và sự xuất hiện của chế độ tư hữu, còn nguyên nhân trực tiếp
của sự xuất hiện của nhà nước là bắt nguồn từ sự mâu thuẫn giai cấp không thể
hòa giải trong xã hội, do đó, sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan
1() VI Lênin (2019), Giáo trình triết học Mác- Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, trang 181
nhằm “xoa dịu” mâu thuẫn giữa các giai cấp, nhằm duy trì một xã hội ổn định,
trật tự, trong đó giai cấp thống trị được bảo đảm về địa vị và quyền lợi của mình.
1.2 Bản chất của nhà nước:
Theo học thuyết Mác - Lênin, các nhà nước đều có bản chất giai cấp. Một
nhà nước chỉ ra đời khi xã hội có sự phân chia thành các giai cấp. Không có bất
kì nhà nước nào trong xã hội nguyên thủy vì không có sự phân chia giai cấp
trong xã hội nguyên thủy.
Bản chất của nhà nước được chia thành hai tính chất: tính xã hội và tính giai
cấp cùng tồn tại chặt chẽ và có mối quan hệ biện chứng. Đặc tính của giai cấp
là những thuộc tính cơ bản vốn có mà bất kì nhà nước nào cũng đều tồn tại nó.
1.2.1 Tính giai cấp của nhà nước:
Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một xã hội có mâu thuẫn giai cấp và
đấu tranh giai cấp nên bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Nhà
nước là là một giai cấp công cụ để chiếm, giữ và sử dụng một vị trí quan trọng
trong xã hội. Những mâu thuẫn không thể giải quyết được giữa các giai cấp đã
nảy sinh nhu cầu giữ quyền cai trị và kiểm soát xã hội. Đơn giản hơn, sự thống
trị về kinh tế của một giai cấp trong bối cảnh mâu thuẫn giai cấp và xã hội đòi
hỏi giai cấp đó phải trở thành giai cấp thống trị thông qua các “công cụ đặc biệt” là nhà nước.
Theo chủ nghĩa C. Mác thì không thể có một nhà nước trên các giai cấp hay
một nhà nước dùng chung cho mọi giai cấp. Nhà nước là một bộ máy do các
giai cấp thống trị về kinh tế tạo ra nhằm hợp pháp hóa và tăng cường sự áp bức
của họ đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà
nước để đàn áp, cưỡng bức các giai cấp khác vì lợi ích của giai cấp thống trị.
Đó là bản chất của nhà nước theo nghĩa nguyên thủy- nhà nước của giai cấp
bóc lột. Theo đó, nhà nước không thể là lực lượng làm trung gian hòa giải mâu
thuẫn giai cấp, ngược lại, nó làm mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên gay gắt. 7
Cũng dựa vào đó mà nhà nước là bộ máy kiến trúc thượng tầng quan trọng nhất
trong xã hội có giai cấp.
“Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối
với giai cấp khác, và theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt
của giai cấp này đối với một giai cấp khác”(2)
Tuy nhiên, nhà nước cũng có thể là kết quả của sự thỏa hiệp tạm thời về lợi
nhuận của một giai cấp này với giai cấp khác. Ngoài ra, nhà nước có thể duy trì
thái độ độc lập với hai giai cấp đối địch khi cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đó
đạt đến trạng thái cân bằng nhất định. Và chính Ph. Ăngghen cũng chỉ rõ: “Tuy
nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ, là có những thời kì trong đó những giai cấp
đang đấu tranh với nhau lại gần đạt được một thể bình quân khiến cho chính
quyền nhà nước, tựa hộ một kẻ trung gian giữa các bên, lại tạm thời có được
một mức độ độc lập nào đó đối với cả hai giai cấp.”(3)
Có thể nói, giai cấp là thuộc tính bản chất của bất kỳ nhà nước nào, nhưng
mức độ thực hiện của nó ở mỗi loại hình nhà nước cụ thể là rất khác nhau, tùy
thuộc vào điều kiện, bối cảnh, và mối quan hệ quyền lực xã hội. Khi một giai
cấp có đủ điều kiện và sức mạnh để trở thành giai cấp thống trị thì tự mình nắm
quyền nhà nước, nhưng nếu không tự mình cầm quyền được thì sẽ nhân
nhượng, chia sẻ quyền lực nhà nước với các giai cấp, lực lượng khác để bảo vệ
địa vị và lợi ích của giai cấp và của xã hội.
1.2.2 Tính xã hội của nhà nước:
Ngoài bản chất giai cấp thì nhà nước còn thể hiện bản chất xã hội của mình.
Thuộc tính xã hội được thể hiện rõ nét qua vai trò quản lý nhà nước hay nói
cách khác còn được gọi là vai trò kinh tế của xã hội - nhà nước. Nhà nước là
một tổ chức xã hội, chịu trách nhiệm duy trì, quản lý và giải quyết các vấn đề
2() VI Lênin (1976), toàn tập, tập 33, Nhà xuất bản tiến bộ, Matxcova, trang 110
3() Ph. Ăngghen (2019), giáo trình triết học Mác- Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, trang 182 8
nảy sinh trong xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của xã hội và đáp ứng nhu cầu của xã
hội. Để xã hội phát triển ổn định, cần có sự quản lý và vận hành hết sức chặt
chẽ dựa trên những nguyên tắc chung. Xã hội luôn tồn tại những vấn đề chung
chứ không phải vấn đề của cá nhân hay tổ chức nên rất dễ bị rối nếu không có người quản lý.
Để giải quyết những vấn đề chung của xã hội như thiên tai, sản xuất, ổn
định trật tự xã hội, chúng ta cần một tổ chức chung, tức là một nhà nước, thay
mặt cho toàn xã hội giải quyết những vấn đề chung. Nhà nước phải đứng ra giải
quyết các vấn đề xã hội vì sự ổn định và tồn tại của toàn xã hội chứ không phải
vì một giai cấp riêng biệt nào hết.
Nhà nước phải thực hiện các biện pháp để giúp cho sự hoạt động và phát
triển bình thường của mọi lĩnh vực trong xã hội và vì những nhiệm vụ chung
của sự phát triển xã hội như: xây dựng đường xá, bệnh viện, trường học, giải
quyết các tệ nạn xã hội, ... vì lợi ích phát triển chung của toàn bộ người dân
trong cộng đồng. Vì vậy, trong xã hội có giai cấp, nếu giai cấp này bị giai cấp
khác suy yếu, lật đổ thì phải thành lập nhà nước khác để duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Như vậy ở khía cạnh xã hội thì nhà nước là một tổ chức công ích quản lý và
thực hiện công việc vì lợi ích chung của xã hội. Xã hội không thể tồn tại nếu
nhà nước chỉ tập trung vào việc thực hiện và thỏa mãn các quyền của giai cấp
thống trị mà không quan tâm đến lợi ích của các giai cấp và lực lượng khác trong xã hội.
1.2.3 Mối quan hệ của tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước:
Tính xã hội và tính giai cấp là hai mặt cơ bản thống nhất bản chất của mọi
nhà nước, chúng luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong bất kỳ xã hội nào, nhà
nước phải quan tâm đến lợi ích chung của toàn xã hội và bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên mức độ thể hiện của tính
giai cấp và tính xã hội là khác nhau của những nhà nước khác nhau, và cũng có 9
thể khác nhau trong mỗi giai đoạn tùy thuộc vào điều kiện và trình độ nhận
thức của nhà cầm quyền.
1.3 Đặc trưng cơ bản của nhà nước:
Đặc điểm của nhà nước làm cho người ta có thể phân biệt nó với tổ chức
của xã hội nói chung. Phân biệt với các tổ chức chính trị xã hội khác. Đặc điểm
của nhà nước bộc lộ vai trò trung tâm và vị trí của nó trong hệ thống chính trị:
Thứ nhất: Quản lý dân cư dân trên 1 vùng lãnh thổ nhất định.
Trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, nếu các tổ chức thị tộc được tập hợp
giữa các thành viên theo dòng dõi, thì nhà nước chia dân cư thành các đơn vị
hành chính không phân biệt quan điểm chính trị, nghề nghiệp, tổ tiên, giới tính,
tôn giáo, v.v. Sự phân biệt này xác định: Quy mô ảnh hưởng của nhà nước là
lớn nhất và dẫn đến việc hình thành các cơ quan chủ quản trong nhà nước.
Trong một xã hội có thứ bậc, không có tổ chức xã hội nào mà không có miền
riêng. Lãnh thổ là một đặc điểm riêng của một quốc gia. Nhà nước thực hiện
quyền lực trên lãnh thổ của mình. Mỗi quốc gia có lãnh thổ riêng, được chia
thành các đơn vị hành chính như tỉnh, huyện, quận, xã. Do tính chất lãnh thổ,
có sự độc quyền về quốc tịch và các quy định về các quy tắc và luật lệ. Sự liên
kết của một công dân đến các bang và vùng lãnh thổ nhất định được nhà nước
sử dụng để thiết lập quan hệ với công dân của mình.
Nhà nước là một tổ chức của quyền lực có chủ quyền. Chủ quyền nhà nước
có nội dung chính trị và pháp lý thể hiện ở chỗ chủ quyền của nhà nước trong
mọi chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài.
Lãnh thổ không bị ảnh hưởng hoặc phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào khác.
-Trong các vấn đề đối nội, Nhà nước có quyền lực tối cao đối với tất cả
mọi người và các tổ chức trong lãnh thổ của mình và không bị ảnh hưởng hoặc
ảnh hưởng bởi các quốc gia khác.
-Trong quan hệ đối ngoại, nhà nước hoàn toàn có quyền độc lập với nước 10
ngoài trong các hoạt động chính trị và kinh tế, chính trị, văn hóa của mình. Các
quốc gia có quyền tự quyết định công việc của mình một cách tự do và độc lập,
đồng thời tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác và tuân thủ các chuẩn
mực của luật pháp quốc tế.
Chủ quyền nhà nước là quan trọng hàng đầu, không thể tách rời nhà nước.
Quyền tối cao của chủ quyền nhà nước thể hiện ở chỗ quyền lực của nhà nước
là phổ biến và hoạt động không ngoại lệ đối với toàn thể nhà nước, đối với
người dân và đối với tất cả các nhóm tổ chức công quyền. Các dấu hiệu về chủ
quyền quốc gia cho thấy quyền tự chủ và bình đẳng giữa các quốc gia, bất kể là
lớn hay nhỏ. Nhà nước thông qua pháp luật và bảo đảm quy tắc cưỡng chế đối với mọi công dân.
Thứ hai: Có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế xã hội.
Họ không còn hòa nhập với dân cư của hệ thống bộ lạc, mà thực sự bị cô
lập khỏi xã hội. Quyền lực công cộng này là quyền lực chung. Chủ thể là giai
cấp thống trị về chính trị và xã hội. Để quản lý xã hội và thực hiện quyền lực
thống trị, nhà nước phải có những người chuyên làm công việc hành chính, các
tầng lớp nhân dân này được tổ chức thành các thiết chế nhà nước và hình thành
các cơ quan đại diện. Để quyền lực chính trị duy trì địa vị của giai cấp thống trị,
buộc các giai cấp khác phải phục tùng ý chí của giai cấp thống trị, quyền lực
cưỡng chế phải bảo đảm “phục vụ” lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
Ví dụ: Quân đội, nhà tù, cảnh sát, tòa án, ...
Nhà nước là đại diện chính thức của mọi thành viên xã hội nhằm kiểm soát
họ. Các quốc gia thông qua luật pháp và đảm bảo thực thi bằng vũ lực. Các quy
định của nhà nước đối với công dân được thể hiện trong các đạo luật do nhà
nước thông qua. Thông qua pháp luật, ý chí của nhà nước trở thành ý chí của
toàn xã hội, và mọi thiết chế, tổ chức đều chịu sự điều chỉnh của nó. Nhà nước
và pháp luật có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại và phụ thuộc vào 11
nhau. Nhà nước không thể thực hiện chức năng quản lý xã hội nếu không có
pháp luật, và ngược lại, pháp luật phải thông qua nhà nước. Trong xã hội, chỉ có
nhà nước mới có quyền thông qua pháp luật, không có tổ chức nào khác có
quyền này và chính nhà nước bảo đảm cho việc thực hiện pháp luật trong cuộc sống.
Thứ ba: Hình thành hệ thống khóa để nuôi bộ máy chính quyền.
Nhà nước đặt ra và thu thuế dưới hình thức bắt buộc đối với nhân dân nhằm
duy trì bộ máy nhà nước, viên chức nhà nước; Phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh, quốc phòng bảo đảm giải quyết các vấn đề chung của xã hội.
Trong xã hội có nhà nước không một tổ chức chính trị nào ngoài nhà nước có
quyền quy định, đặt ra các loại thuế và thu các loại thuế. Thuế là khoản thu bắt
buộc của những công dân và các tổ chức kinh tế trên lãnh thổ đất nước vào
ngân sách nhà nước, đây là nguồn thu nhập chủ yếu của nhà nước. Dưới góc độ
thuế, nhà nước gắn bó chặt chẽ với xã hội và người dân chứ không tách rời.
Xây dựng chính sách thuế chính xác, công bằng, hợp lý, đơn giản và thuận tiện.
1.4 Chức năng của nhà nước:
1.4.1 Định nghĩa chức năng của Nhà nước:
Chức năng của Nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của Nhà
nước tương ứng với bản chất và mục đích của Nhà nước. Trong mỗi giai đoạn
phát triển của đất nước điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước là nhân tố quyết định.
1.4.2 Phân loại chức năng của nhà nước:
Nếu chúng ta nói về hoạt động của nhà nước, chúng ta thực sự xem xét
phạm vi của nhà nước để thiết lập các mối quan hệ trong các hệ thống xã hội.
Đây cũng là một vấn đề gây tranh cãi rất nhiều và các ý kiến thường trái ngược
nhau. Việc phân loại các chức năng của nhà nước trước hết phụ thuộc vào các 12
tiêu chí, trong đó quan trọng nhất là tiêu chí về tính chất giai cấp của nhà nước.
Tiêu chí này được thể hiện trên các khía cạnh chính sau: Thứ nhất, nhà nước
bảo vệ lợi ích cơ bản của tầng lớp kinh tế hùng mạnh. Điều này chủ yếu được
thực hiện dưới hình thức bảo vệ các quyền tài sản cơ bản trong hệ thống kinh
tế. Thứ hai, dung hòa các giai cấp và các mối quan hệ cùng có lợi của họ trong
xã hội trên cơ sở các lợi ích chiến lược đã chọn. Theo các lĩnh vực hoạt động
chính của quốc gia, các chức năng của nhà nước có thể được chia thành hai
chức năng: đối nội và đối ngoại.
*Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong
nội bộ đất nước. Nhằm đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, đàn áp những phần tử
chống đối, khủng bố chế độ nhà nước, bảo vệ chế độ kinh tế … là những chức
năng về đối nội của nhà nước. Được thể hiện rõ ở những hoạt động như:
-Bảo vệ chế độ, hệ thống chính trị - kinh tế - xã hội hiện tại.
-Trấn áp, đàn áp kẻ thù giai cấp.
-Đảm bảo trật tự an ninh an toàn xã hội.
-Định hướng, điều chỉnh, quản lý mọi mặt hoạt động của xã hội (kinh tế,
văn hoá, giáo dục, thông tin – tuyên truyền các tư tưởng chính thống.)
Trong số các chức năng đối nội của nhà nước đã nêu thì bảo vệ chế độ
chính trị và trấn áp, đàn áp kẻ thù giai cấp bộc lộ bản chất chuyên chính của nhà nước.
*Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của Nhà nước trong quan hệ với các
nhà nước và dân tộc khác. Bao gồm:
-Bảo vệ lợi ích của nhà nước trong các quan hệ quốc tế.
-Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và chủ quyền quốc gia.
-Phát triển quan hệ bình thường với các nước khác.
Ngày nay trong quá trình toàn cầu hoá thì hợp tác và cùng tham gia vào
việc giải quyết những vấn đề toàn cầu là một trong những hoạt động đối ngoại
quan trọng của các quốc gia. 13
Ngoài cách phân chia chức năng nhà nước được nói trên, một số khía cạnh
khác cũng được xét để phân định chức năng của nhà nước như theo từng phạm
vi ảnh hưởng (quản lý, điều chỉnh, kiểm soát) của nhà nước ở những lĩnh vực
cơ bản của xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục.v.v. Theo cách phân
chia này cách gọi tên các chức năng của nhà nước được gắn liền với những lĩnh
vực tác động, chẳng hạn như: chức năng kinh tế, chức năng chính trị.v.v.
1.5 Các kiểu và hình thức nhà nước:
1.5.1 Khái niệm kiểu nhà nước:
Kiểu nhà nước là thuật ngữ để chỉ những nhà nước cùng có chung những
dấu hiệu đặc trưng cơ bản thể hiện bản chất giai cấp của nhà nước và những
điều kiện kinh tế xã hội của sự tồn tại của nhà nước.
Căn cứ vào tính chất giai cấp của nhà nước có thể phân biệt các kiểu nhà
nước. Trong lịch sử xã hội có giai cấp, chỉ có giai cấp chủ nô, địa chủ phong
kiến, tư sản và vô sản đã từng có nhà nước, lấy nhà nước làm công cụ thống trị
giai cấp của mình. Do đó, đã từng tồn tại 4 kiểu nhà nước trong lịch sử: nhà
nước chủ nô quý tộc, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước vô sản.
Các kiểu nhà nước trên cơ bản giống nhau ở chỗ đều là công cụ thống trị của
giai cấp thống trị. Tuy nhiên, Nhà nước Vô sản có sự khác biệt về chất với các
kiểu nhà nước khác ở chỗ: nó là nhà nước đặc biệt, nhà nước của số đông thống
trị số ít. Giai cấp vô sản liên minh với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức tiến
bộ và các tầng lớp nhân dân lao động khác duy trì sự thống trị của mình đối với toàn xã hội.
1.5.2 Hình thức nhà nước:
Hình thức nhà nước là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức, phương
thức thực hiện quyền lực nhà nước của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước
thực chất là hình thức thẩm quyền của giai cấp thống trị. Hình thức nhà nước
chịu sự quy định của bản chất giai cấp của nhà nước, bởi tính chất và trình độ
phát triển của kinh tế xã hội, bởi cơ cấu giai cấp, tương quan lực lượng giữa các 14
giai cấp trong xã hội, bởi đặc điểm lịch sử, văn hóa xã hội, phong tục tập quán,
tín ngưỡng tôn giáo của mỗi quốc gia dân tộc.
Trong kiểu nhà nước chủ nô quý tộc thời chiếm hữu lệ từng tồn tại nhiều
hình thức nhà nước khác nhau như: nhà nước quân chủ chủ nô, Nhà nước
Cộng hòa Dân chủ chủ nô. Nhà nước thành bang Xpác ở Hy Lạp thời Cổ đại là
điển hình của hình thức quân chủ chủ nô. Ở đó quyền lực nhà nước nằm trong
tay hoàng đế. Nhà nước thành bang Aten là điển hình của hình thức nhà nước
Cộng hòa Dân chủ chủ nô. Quyền lực nhà nước thuộc về Hội đồng trưởng lão.
Về hình thức, dù là nhà nước dân chủ hay quân chủ thì về bản chất đều là
công cụ thống trị của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ và các tầng lớp cư
dân khác trong xã hội. Lênin, trong tác phẩm “Bàn về nhà nước” cho rằng:
“... người ta đã phân biệt chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa, chính thể
quý tộc và chính thể dân chủ. Chính thể quân chủ, tức là chính quyền của một
người; trong chính thể cộng hòa thì không một quyền lực nào mà không phải do
bầu cử mà có, chính thể quý tộc tức là chính thể của một thiểu số tương đối
nhỏ hẹp; chính thể dân chủ tức là chính quyền của nhân dân... Mặc dù có sự
khác nhau như thế, nhưng nhà nước trong thời đại chế độ nô lệ, dù là dân chủ
hay cộng hòa quý tộc hay cộng hòa dân chủ đều là nhà nước chủ nô”.
Thời trung cổ, giai cấp địa chủ phong kiến nắm trong tay quyền thống trị xã
hội. Nhà nước tồn tại dưới hình thức nhà nước phong kiến tập quyền và nhà
nước phong kiến phân quyền. Trong hình thức nhà nước phong kiến tập quyền
thì quyền lực tập trung trong tay chính quyền trung ương đứng đầu là vua,
hoàng đế. Nhà nước phong kiến phân quyền là hình thức nhà nước mà ở đó
quyền lực bị phân tán bởi nhiều thế lực phong kiến cát cứ ở các địa phương
khác nhau. Chính quyền trung ương tồn tại chỉ trên danh nghĩa. Thực tế vua,
hoàng đế chỉ là bù nhìn, không có thực quyền.
Về bản chất, dù tồn tại dưới hình thức phân quyền hay tập quyền thì nhà
nước phong kiến vẫn là nhà nước của giai cấp địa chủ, quý tộc là công cụ thống 15
trị giai cấp của giai cấp địa chủ quý tộc.Trong xã hội tư bản tồn tại nhiều hình
thức nhà nước như: chế độ cộng hòa, chế độ Cộng hòa đại nghị, chế độ Cộng
hòa tổng thống, chế độ Cộng Hòa Thủ tướng, chế độ quân chủ lập hiến, nhà
nước liên bang, nhà nước phúc lợi chung...Các hình thức nhà nước này dù có
khác nhau về hình thức do chế độ bầu cử, chế độ 1 hay 2 viện, nhiệm kỳ và
quyền lực của tổng thống, thủ tướng, sự phân chia quyền lực giữa tổng thống,
thủ tướng và nội các chính phủ…; song, về bản chất đều là nhà nước tư sản, là
công cụ thống trị của giai cấp tư sản đối với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã
hội. Lênin trong tác phẩm nhà nước và cách mạng đã viết: “những hình thức
của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một; chung
quy lại thì tất cả những hình thức nhà nước ấy, vô luận thế nào, cũng tất nhiên
phải là nền chuyên chính tư sản”.
Trong các hình thức nhà nước tư sản, các tập đoàn tư bản, thông qua tổ
chức đảng chính trị thực hiện quyền lãnh đạo của mình, bảo vệ quyền lợi và địa
vị thống trị của giai cấp, tập đoàn mình. Về hình thức, các hình thức nhà nước
tư sản đều đề cao quyền tự do, dân chủ của mọi người. Tuy nhiên cần chú ý
rằng, về bản chất thì nhà nước tư sản nào cũng là công cụ chuyên chính của giai
cấp tư sản, được pháp luật tư sản bảo vệ, nền dân chủ tư sản, thực chất là nền
dân chủ của số ít những người có quyền, có tiền và địa vị, thế lực trong xã hội,
có nền dân chủ, có giới hạn trong nền dân chủ tư sản.
Kiểu nhà nước vô sản là nhà nước “đặc biệt”, là nhà nước của số đông
thống trị số ít. Trong kiểu nhà nước vô sản giai cấp vô sản liên minh với giai
cấp nông dân, tầng lớp trí thức tiến bộ và nhân dân lao động sau khi tiến hành
đấu tranh cách mạng giành chính quyền nhà nước từ tay giai cấp địa chủ phong
kiến và chính quyền đô hộ như ở Việt Nam năm 1945, ở Trung Quốc năm 1949,
hoặc từ tay giai cấp tư sản như ở nước Nga năm 1917, thiết lập nền chuyên
chính của mình. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta”, C. Mác cho
rằng : “giữa xã hội tư sản chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải 16
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một
kỳ quá độ chính trị. và Nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là
nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Nền chuyên chính vô sản
(Nhà nước vô sản) có chức năng cơ bản là xây dựng dùng một trật tự xã hội
mới, thủ tiêu chế độ người áp bức bóc lột người, đập tan sự phản kháng của các
thế lực phản động đã bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt vẫn ngoan cố chống lại
chính quyền do giai cấp vô sản lãnh đạo. Tuy khác nhau về tên gọi nhưng thực
chất Nhà nước Vô sản là nhà nước do giai cấp vô sản lãnh đạo, liên minh với
giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức tiến bộ, đại diện và bảo vệ quyền lợi của
giai cấp và của toàn thể nhân dân lao động. Trong đó, nhân dân lao động thực
sự làm chủ xã hội, thực hiện quyền dân chủ vô sản, dân chủ kiểu mới, dân chủ
của số đông, có nhiệm vụ tiếp tục cuộc cách mạng vô sản, thực hiện mục tiêu
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện sứ mệnh của mình, giai
cấp vô sản phải thực hiện chức năng tổ chức xây dựng và chức năng trấn áp.
Chức năng tổ chức xây dựng đòi hỏi nhà nước phải chú ý xây dựng một trật
tự kinh tế mới, một trật tự xã hội mới được xem là có vai trò quyết định nhất
đối với sự tồn tại của nhà nước vô sản. Cùng với đó nhà nước còn phải thực
hiện chức năng trấn áp sự phản kháng của các lực lượng chống đối. Chức năng
này có vai trò hết sức quan trọng, đó là điều kiện để nhà nước vô sản giữ vững
nền chuyên chính của mình.
Để thực hiện tốt chức năng tổ chức, xây dựng và chức năng trấn áp, phải
thực hiện nguyên tắc dân chủ của nền dân chủ vô sản. Lênin cho rằng, một
trong những nhiệm vụ hàng đầu của chuyên chính vô sản là “phát triển nền dân
chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự phát triển ấy, đem thí nghiệm
những hình thức ấy trong thực tiễn”.
Phát triển và hoàn thiện nền dân chủ vô sản cũng có nghĩa là phát triển hoàn
thiện nhà nước vô sản. Và theo quan điểm của mác xít, đến một lúc nào đó, khi
Nhà nước Vô sản đã hoàn thành chức năng của nó, khi nền kinh tế và trình độ 17
phát triển xã hội đến giai đoạn cao: “Giai đoạn cộng sản chủ nghĩa:, xã hội tồn
tại theo một trật tự mới theo nguyên tắc “tự giác”, thì lúc đó nhà nước “tự tiêu vong”.
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Khái niệm và đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: 2.1.1 Khái niệm:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo pháp quyền là nước tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội theo Hiến pháp và pháp luật; để
bảo đảm tính thượng tôn của Hiến pháp, nhà nước pháp quyền cần có đất nước
và đời sống xã hội. Đó là sự tổ chức và hoạt động của quyền lực chính trị công
cộng và mối quan hệ tương hỗ của nó với các quốc gia khác. Với tư cách là chủ
thể của pháp luật, cá nhân là người có quyền tự do dân sự và con người. Địa vị
pháp lý hay hệ thống thể chế, mọi người đều phải tuân theo và tôn trọng luật
pháp, từ cá nhân đến các cơ quan công quyền 2.1.2 Đặc trưng:
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân
do nhân dân làm chủ, quản lý và nhân dân hưởng thụ; bảo đảm mọi quyền lực
nhà nước đều thuộc về nhân dân.
-Nhà nước của nhân dân: Có nghĩa là mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.
-Nhà nước do nhân dân: thiết chế nhà nước các cấp từ trung ương đến địa
phương do nhân dân thành lập và bầu ra 18
-Nước là vì dân: Mọi tổ chức, hoạt động, đường lối, chính sách của Đảng
và nhà nước đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân, đem lại hạnh
phúc cho nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân.
=> Đặc điểm này thể hiện tính dân chủ: nhân dân là dân chủ thực sự, là
điểm khác biệt cơ bản nhất so với quốc gia hiện có và quốc gia hiện có.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước thống nhất, nhưng trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành chính và
tư pháp có sự phân công lao động, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan.
Sở dĩ nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm trên là do:
-Thứ nhất, là mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa việc thực hiện ba
quyền lập pháp, hành chính và tư pháp.
-Thứ hai, về bản chất, quyền lực nhà nước là thống nhất và không thể tách
biệt độc lập với các lĩnh vực hoạt động của quyền lực nhà nước;
-Thứ ba, giữa các bộ phận quyền lực đôi lúc có thể có mâu thuẫn, nhưng
vì mục tiêu thống nhất của quyền lực nhà nước thì chúng phải luôn phối hợp với nhau.
Có thể thấy, sự thống nhất lợi ích của nhân dân là cơ sở của sự thống nhất
về quyền lực, sự thống nhất này còn thể hiện ở những điểm sau: Sự thống nhất
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - dưới chế độ ta, lợi ích của giai
cấp công nhân, lợi ích của nhân dân và lợi ích của toàn dân tộc về cơ bản là thống nhất.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị
trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội.
Đây là một trong những đặc trưng tiến bộ, khoa học của nhà nước pháp
quyền. Nhà nước phải tổ chức, hoạt đông trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật để
đảm bảo nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của các cơ quan không trùng lặp, bảo
đảm tính hợp pháp của chủ nghĩa xã hội, hạn chế lạm quyền, lạm quyền, lạm 19