lOMoARcPSD| 47206521
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------🕮---------
BÀI THẢO LUẬN
NHÓM 5
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Mã lớp học phần: 242_HCMI0131_04
Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Thị Thúy
2025
lOMoARcPSD| 47206521
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 5
STT
Họ và tên
Mã Sinh Viên
Công việc
67
Nguyễn Hải Nam
22D120143
Nhóm trưởng +
Thuyết trình
68
Trần Thị Thúy Nga
22D130154
1.1.1 + 1.1.2.3
69
Triệu Xuân Nghĩa
22D120152
1.2..2.3 + 1.2.3.4
70
Bùi Minh Ngọc
22D120153
2.1.1
71
Trần Thị Bích Ngọc
21D120262
1.3
72
Quách Thị Thảo
Nguyên
22D120157
Slide
73
Nguyễn Tuấn Nhân
22D120158
1.2.2.1 + 1.2.2.2
74
Đỗ Gia Phong
22D120167
Thuyết trình
75
Dương Đức Phúc
22D210176
2.2
76
Ngô Thị Kim
Phượng
22D210185
1.1.2.1 + 1.1.2.2
77
Nguyễn Anh Quân
22D120173
Slide
78
Vi Thị Ánh Quyên
22D120175
2.3
79
Lò Văn Tâm
22D120181
1.2.1
80
Phạm Quốc Thành
22D210196
2.1.2
81
Dương Thị Thu
Thảo
22D130182
Word
82
Đinh Thị Thảo
22D180208
2.2
1
MỤC LỤC CHƯƠNG I QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Giai đoạn từ 1986 đến 1996
1.1.1 Các quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
lOMoARcPSD| 47206521
2
1.1.2 Quá trình tổ chức và chỉ đạo thực hiện
1.2. Giai đoạn từ 1996 đến nay
1.2.1. Các quan điểm, chủ trương của Đảng
1.2.2 Quá trình tổ chức và chỉ đạo thực hiện
1.3 So sánh Sự khác biệt giữa hai giai đoạn
1.3.1 Về bối cảnh lịch sử
1.3.2 Về quan điểm và chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng
CHƯƠNG II CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP
2.1 Thành tựu
2.1.1 Giai đoạn 1986-1996
2.1.2 Giai đoạn 1996 đến nay
2.2 Các vấn đề tồn đọng
2.2.1. Giai đoạn 1986-1996
2.2.2. Giai đoạn 1996-nay
2.3. Đề xuất giải pháp
2.3.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế và nâng cao năng lực thực thi hội nhập
2.3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu
2.3.3. Chủ động ứng phó với biến động khu vực và quốc tế
2.3.4. Nâng cao hiệu quả hội nhập ở cấp độ vi mô và cơ chế giám sát
TÀI LIỆU THAM KHẢO
lOMoARcPSD| 47206521
3
CHƯƠNG I QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1. Giai đoạn từ 1986 đến 1996
1.1.1 Các quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
“Hội nhập” hành động hoặc quá trình gắn kết các phần tử riêng rẽ với nhau; hợp
chung các bộ phận vào một chỉnh th(nhất thể, hợp nhất) kết hợp các thành tố khác
nhau lại (tụ hội, tụ nhóm).
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với
nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì
mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng nh thđó nhằm tạo thành sức
mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc
tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Về bản chất, hội nhập quốc tế chính một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế
nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
Hội nhập kinh tế quốc tế được các quốc gia/vùng lãnh thổ thực hiện bằng bảy
phương thức chủ yếu bao gồm: (i) Thỏa thuận thương mại ưu đãi; (ii) Khu vực mậu dịch
tự do; (iii) Hiệp định đối tác kinh tế; (iv) Thị trường chung; (v) Liên minh thuế quan; (vi)
Liên minh kinh tế và tiền tệ; (vii) Diễn đàn hợp tác kinh tế.
Trong đó, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước ta
đã chủ trương tham gia các thể chế kinh tế. Lời kêu gọi trong thư gửi Liên hợp quốc tháng
12/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Đối với các ớc dân chủ, nước Việt Nam
sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa hợp tác trong mọi lĩnh vực: (a). Nước Việt Nam
dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nha kỹ thuật nước ngoài trong
tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; (b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân
bay đường giao thông cho việc buôn bán quá cảnh quốc tế; (c) Việt Nam chấp
nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”.
Từ những năm 1980 đến nay, Đảng Nhà nước ta đã sớm nhận thức được tính
cần thiết và tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế. Đường lối, chủ trương hội nhập kinh tế
của Đảng đã được đề ra nhất quán, không ngừng được hoàn thiện và triển khai tích cực,
phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế nội dung trọng tâm
của hội nhập quốc tế. Kể từ năm 1986, các quan điểm, chủ trương của Đảng về hội nhập
kinh tế quốc tế mang nh nhất quán, hệ thống, luôn được cập nhật và mang tính kế thừa
qua các kỳ Đại hội.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đề ra đường lối Đổi mới toàn diện sâu sắc
mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Sự nghiệp Đổi mới của Việt Nam được tiến hành trong bối
cảnh quốc tế nhiều thay đổi sâu sắc một cục diện, trật tự thế giới mới đang hình
thành, trong đó các nước chế độ chính trị khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác. Nếu
lOMoARcPSD| 47206521
4
như tại Đại hội V (1982), Đảng chỉ xác định “Ưu tiên mở rộng sự hợp tác toàn diện giữa
nước ta với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế” thì đến Đại hội Đảng
lần thứ VI (1986), Đảng đã đưa ra chủ trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp
tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp
tác quốc tế trong Hội đồng tương trợ kinh tế mở rộng với các ớc khác”; xác định
quan hệ kinh tế quốc tế giai đoạn này không chỉ tập trung vào Liên và các nước trong
cùng hệ thống hội chủ nghĩa phải mở rộng quan hệ với các nước thứ ba, các nước
công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình
đẳng, cùng lợi. Trên sở quan điểm đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI Nghị quyết số 13-NQ/TW, (tháng 5/1998) của Bộ Chính trị, Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) khẳng định: Kiên trì đường lối độc lập, tự chủ,
tranh thủ thời gian điều kiện thuận lợi để từng bước ổn định phát triển kinh tế -
hội, với phương châm tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia tích cực vào phân công
lao động quốc tế, trên cơ sở hợp tác đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình “chuyển
mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chính sang quan hệ chính trị - kinh tế,
mở rộng quan hệ kinh tế phục vụ cho sự nghiệp xây dựng bảo vệ đất nước” (Phạm
Minh An, 2023).
Phát triển tư tưởng đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chnghĩa hội được Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII (năm 1991) thông qua đã xác định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở, đa dạng hóa đa phương hóa quan hệ với các nước trên tinh thần “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu hòa bình, độc lập
phát triển”. Đây một cột mốc quan trọng đánh dấu bước khởi đầu của Việt Nam tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ mới. Chính sách đối ngoại với mục tiêu “tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc đi lên hội chủ
nghĩa... Hợp tác bình đẳng và cùng lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính
trị - xã hội khác nhau trên sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”, Việt Nam đã
đẩy lùi được chính sách bao vây lập của các thế lực thù địch, không ngừng mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại song phương và đa phương sau khi hệ thống xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu tan rã (Hải An, 2016).
1.1.2 Quá trình tổ chức và chỉ đạo thực hiện
1.1.2.1. Đại hội VI (1986)
Hoàn cảnh lịch sử:
- Thế giới:
lOMoARcPSD| 47206521
5
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội vào tháng 12/1986,
trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang phát triển, xu thế đối thoại trên
thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu. Chính vậy, đổi mới đã trở thành xu thế của
thời đại.
Mặt khác, hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đang lâm vào tình trạng kinh tế
- hội khủng hoảng, kkhăn nghiêm trọng. Phong trào độc lập dân tộc phát triển mạnh;
phong trào không liên kết trở thành lực lượng chính trị rộng lớn vai trò ngày càng quan
trọng. Liên các ớc xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng
hội chủ nghĩa với các hình thức mức độ khác nhau, có nước thành công, nước thất
bại. Điều này giúp Đảng ta định hướng được con đường đổi mới đúng đắn cho nước nhà.
- Trong nước:
Việt Nam đang bị các đế quốc đứng đầu Mỹ các thế lực thù địch tìm cách
chống phá hệ thống và nhà nước xã hội chủ nghĩa, bị bao vây cấm vận. Đất nước ta đang
phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu
quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu
thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và
điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Những mất cân đối trong nền kinh tế chậm được thu hẹp;
quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế
quốc doanh bị suy yếu. Lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát
tăng lên hơn 774% vào năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên
trái phép diễn ra khá phổ biến. Tiêu cực trong hội ngày càng phát triển, công bằng
hội bị vi phạm; quần chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng sự điều hành
của Nhà nước.
Như vậy, thực trạng đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan bức
thiết phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên.
Nội dung:
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói sthật”, Đại
hội đánh giá đúng mức những thành tựu đã đạt được trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã
hội bảo vệ Tổ quốc, Đại hội nhận định: Năm năm qua một đoạn đường đầy thử
thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế
trong nước những thuận lợi bản, nhưng cũng nhiều khó khăn, phức tạp. Thực
hiện những nhiệm vụ và mục tiêu do Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, nhân dân ta anh
dũng phấn đấu, khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại, đã đạt được những thành tựu quan
trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc
lOMoARcPSD| 47206521
6
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc làm nghĩa vụ quốc tế”. Bên cạnh việc khẳng định những
thành tích đã đạt được, Đại hội cũng đã nhận : “Tình hình kinh tế - hội đang những
khó khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất đầu thấp; phân phối, lưu
thông nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp,
mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân
dân lao động còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra nhiều nơi nơi nghiêm
trọng”. Có thể thấy Đại hội đã đồng thời chỉ ra những mặt yếu kém, những khó khăn gay
gắt của đất nước do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra.
Nhìn chung, Đảng chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề
ra bản ổn định nh hình kinh tế - hội, ổn định đời sống nhân dân. Không đánh
giá thấp những nguyên nhân khách quan, Đại hội cũng nghiêm khắc nêu rõ, nguyên nhân
chủ quan của tình hình khó khăn, khủng hoảng là do những sai lầm, khuyết điểm trong sự
lãnh đạo, quản lý của Đảng Nhà ớc. Đại hội nhận định trong những năm 1976 -
1980, trên thực tế, chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có
đủ các tiền đề cần thiết; vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác cải tạo hội ch
nghĩa; chậm đổi mới chế quản kinh tế không còn phù hợp. Trong những năm 1981
- 1985, Đảng chưa cụ thể hóa đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên
quyết khắc phục chủ quan, nóng vội và bảo thủ, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo
hội chủ nghĩa quản kinh tế, lại phạm sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực
phân phối, lưu thông, đã buông lỏng chuyên chính sản trong quản kinh tế - hội,
trong đấu tranh tư tưởng, văn hóa, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại
thâm độc của kẻ thù. “Những sai lầm nói trên sai lầm nghiêm trọng về chủ trương,
chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược về tổ chức thực hiện”. Khuynh hướng tưởng
chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ
quan, duy ý chí, lối suy nghĩ hành động giản đơn, nóng vội, khuynh hướng buông
lỏng trong quản kinh tế - hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối nguyên
tắc của Đảng. Đó những biểu hiện của tưởng tiểu sản vừa tả khuynh, vừa hữu
khuynh. “Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, hội bắt nguồn từ những
khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng”.
Trên sở thực tiễn cách mạng của 10 năm vừa qua, Đại hội rút ra bốn bài học
kinh nghiệm lớn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong điều kiện
đảng cầm quyền, phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng nhân dân; tiến
hành thường xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa khắc phục chủ nghĩa quan liêu. Mỗi đảng
lOMoARcPSD| 47206521
7
viên cộng sản phải thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và
khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ng của quần
chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm
suy yếu sức mạnh của Đảng.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến
được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức
đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật
đặc thù của chủ nghĩa hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương ớng phát triển chung
của xã hội.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều
kiện mới. Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, chúng ta phải đặc biệt coi trọng
kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế, các yếu tố truyền thống thời đại, sử dụng tốt mọi
khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế khoa học, kỹ thuật với bên
ngoài để phục vcông cuộc xây dựng chủ nghĩa hội luôn luôn làm tròn nghĩa vụ
quốc tế của mình đối với các nước anh em và bầu bạn.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm
quyền nh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng hội chủ nghĩa. Để bảo đảm cho
Đảng ta làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó, vấn đề cấp bách tăng ờng sức chiến
đấu và nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng
Trên sở phân tích, đánh giá tình nh đất nước, tự phê bình về những sai lầm
khuyết điểm, đổi mới tư duy, nhận thức rõ hơn về những quy luật khách quan của thời kỳ
quá độ, kế thừa những thành tựu kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc
những m đầu khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều m tòi, khảo nghiệm từ thực
tiễn, Ðại hội đra đường lối đổi mới toàn diện, trước hết đổi mới về kinh tế với năm
mục tiêu cơ bản được đề ra:
(1) Sản xuất đủ tiêu dùng tích luỹ trước mắt đáp ng nhu cầu cấp bách
vàthiết yếu của hội, dần ổn định tiền n cải thiện một ớc đời sống vật chất văn
hoá của nhân dân đảm bảo ăn no, mặc ấm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu: nhà ở bảo vệ sức
khoẻ đi lại học hành, ... Yêu cầu tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế để đủ sức tiếp nhận
đưa vào tái sản xuất mở rộng vay vốn và viện trợ của nước ngoài.
(2) Bước đầu tạo ra một cấu kinh tế hợp nhằm phát triển sản xuất Tính
hợplý của cấu kinh tế trước hết cấu ngành kinh tế phải phù hợp với quy luật về
lOMoARcPSD| 47206521
8
sự phát triển của các ngành sản xuất vật chất, phù hợp khả năng của đất nước sự phân
công lao động hợp tác quốc tế. cấu kinh tế ấy phải đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định, hướng vào việc thực hiện 3 chương trình
kinh tế lớn: Lương thực - thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
(3) Xây dựng hoàn thiện quan hệ sản xuất mới phù hợp với nh chất
trìnhđộ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố các thành phần kinh tế hội chủ nghĩa
bao gồm kinh tế quốc doanh kinh tế tập thể, làm cho các thành phần kinh tế XHCN
giữ vai trò chi phối nền kinh tế, tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm, thu nhập của người lao động và tích luỹ cho sự nghiệp CNH. Hình thành đồng bộ
hệ thống mới về quản lý kinh tế.
(4) Tạo ra chuyển biến tốt về mặt hội. Trước hết giải quyết một phần
quátrình việc làm cho người lao động đàm bảo về bản phân phối theo lao động.
Thực hiện công bằng xã hội phù hợp điều kiện cụ thể nước ta. Thực hiện nguyên tắc mọi
người sống và làm việc theo pháp luật.
(5) Đảm bảo nhu cầu cùng cổ quốc phòng, Quốc phòng an ninh được xây
dựngvà củng cngày càng vững mạnh đảm bảo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây
dựng kinh tế. Cùng cổ thế trận bảo vệ tổ quốc cả về quốc phòng và an ninh.
Đổi mới về chính sách đối ngoại góp phần giữ vững hoà bình Đông Dương, Đông
Nam Á thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ chủ nghĩa hội, tăng cường tình hữu nghĩ hợp tác toàn diện
với Liên các ớc hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc
lợi ích của nhân dân hai nước, hoà bình Đông Nam Á trên thế giới. Về huy động
sức mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động, thực hiện khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường
hiệu lực quản của Nhà nước điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực lượng to lớn
của quần chúng.
Đổi mới về lãnh đạo, trong công tác xây dựng Đảng, Đại hội xác định, để chuyển
biến tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới duy, trước hết là
duy kinh tế; đổi mới tchức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo
công tác. Nâng cao chất lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng,
tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng nhiệm vụ quan trọng, vừa bản, vừa cấp bách
của công tác xây dựng Đảng. Đi đôi với việc xác định đúng chức năng, nhiệm vụ quản
của các cấp, các ngành, phải đổi mới cấu tổ chức bộ máy quản lý, xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý.
Đánh giá:
lOMoARcPSD| 47206521
9
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) có ý nghĩa lịch sử
trọng đại, mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, đánh dấu một bước ngoặt phát triển trong
sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa hội ở nước ta. Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ
thực tiễn đối mới tư duy luận nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ và về chủ nghĩa xã
hội, những quy luật khách quan đang vận dụng trong thời kỳ quá độ, Đại hội VI của Đảng
đã mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, sâu sắc mọi lĩnh vực của nền kinh
tế, được các kỳ Đại hội sau này và các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương của Đảng kế
thừa, bổ sung, cụ thể hóa và phát triển.
1.1.2.2. Đại hội VII (1991)
Hoàn cảnh lịch sử:
- Thế giới:
Sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa hội Liên Đông Âu,
sự chống phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng
sản, những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa
xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên
thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân Việt Nam. Tuy vậy vào thời điểm này một thuận lợi quan trọng đối với Việt Nam
công cuộc cải cách của Trung Quốc đang giành được những thành tựu quan trọng.
- Trong nước:
Sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế - hội những
chuyển biến tích cực, đã đạt được một số thành tựu nhất định, đó là: Tình hình chính trị
của đất nước ổn định; Nền kinh tế có những bước phát triển đã đạt được những tiến bộ
rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của 3 chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo chế thị trường sự quản của Nhà
nước, huy động được nguồn lực sản xuất của hội, tốc độ lạm phát được kiềm chế, đời
sống của một bộ phận nhân dân đã được cải thiện; Nền dân chủ của nhân dân ngày càng
được phát huy; Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Từng bước
phá thế bị bao vây về kinh tế chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường
thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Song vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng, đất nước ta cũng phải đương đầu với nhiều
yếu kém khó khăn: Đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - hội, nhiều vấn
đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết như lạm phát cao, lao động thiếu việc
làm, nhiều sở sản xuất đình đốn kéo dài. Số lao động thiếu việc làm tăng. Chế độ lương
bất hợp lý. Tốc độ dân số còn quá cao; tình trạng vi phạm dân chủ còn nhiều; văn hoá
hội có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, bất công trong xã
lOMoARcPSD| 47206521
10
hội tăng thêm, an ninh trật tự và an toàn xã hội còn phức tạp, vẫn còn nhân tố gây mất ổn
định chính trị, bộ máy nhà nước, Đảng các đoàn thể nhân dân cồng kềnh, quan liêu,
hoạt động kém hiệu quả.
=> Bối cảnh đặt ra cho Đại hội VII một nhiệm vụ hết sức nặng nề phải đề ra
đường lối để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nội dung:
Tại Đại hội VII của Đảng năm 1991, từ thực tiễn sau 5 năm thực hiện công cuộc
đổi mới, cả thành công chưa thành công, Đại hội VII của Đảng đã nêu lên 5 kinh
nghiệm bước đầu về tiến hành công cuộc đổi mới:
Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, hợp sự
kiên định về nguyên tắc chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy
cảm nắm bắt cái mới, trong đó nhấn mạnh: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu chủ
nghĩa xã hội mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm
đúng đắn về chủ nghĩa hội, bằng những hình thức, bước đi biện pháp thích hợp.
Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến
thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo hội. Đảng phải tự đổi
mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp. Đổi mới một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống hội. Đồng thời trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng khâu then chốt để tập
trung sức giải quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác lĩnh vực khác. Phải tập trung sức
làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc
làm các nhu cầu hội khác, xây dựng sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa hội,
coi đó điều kiện quan trọng để tiến nh thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị.
Chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp nhạy cảm trong hội,
nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên sở nghiên cứu chuẩn
bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng
không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy
cán bộ, mối quan hgiữa Đảng, Nhà nước các đoàn thể nhân dân, bởi đó điều
kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ.
Ba là, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai
trò quản của Nhà nước về kinh tế - hội. Để hạn chế và khắc phục những hậu quả tiêu
cực của kinh tế thị trường, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất
lOMoARcPSD| 47206521
11
tốt đẹp của chủ nghĩa hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản về kinh tế -
hội bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền giáo dục và các công cụ
khác.
Bốn là, chúng ta khẳng định tiếp tục phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ
hội chủ nghĩa, nhưng để phát huy dân chủ đúng hướng đạt kết quả thì quá trình đó phải
được lãnh đạo tốt, bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị, hội nói chung.
Năm là, trong quá trình đổi mới, phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện
giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện
đường lối đổi mới; tăng cường tổng kết thực tiễn không ngừng hoàn chỉnh luận về
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta, trong đó nhấn mạnh: Công cuộc đổi mới
càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận thức về chủ
nghĩa hội con đường xây dựng chnghĩa hội. Chỉ tăng ờng tổng kết thực
tiễn, phát triển luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động
và sáng tạo, bớt được sai lầm và những bước đi quanh co, phức tạp.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qđộ lên chủ nghĩa hội đã đánh
giá tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam và nêu lên năm bài học kinh nghiệm lớn: (1)
nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc chủ nghĩa hội; (2) sự nghiệp cách mạng của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (3) không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; (4) kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; (5) sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng nhân tố hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa hội Việt Nam. Cương lĩnh xác định sáu đặc trưng bản của nhà
nước hội chủ nghĩa: (1) Do nhân dân lao động làm chủ; (2) một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu; (3) nền n hóa tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc; (4) Con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, điều kiện phát triển toàn diện nhân; (5) Các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; (6) quan hệ hữu nghị
và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ớc ta là một quá trình lâu dài,
phải trải qua nhiều chặng đường. Do vậy, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa hội
bảo vệ Tổ quốc cần nắm vững bảy phương hướng cơ bản sau: (1) Xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh công nhân - nông dân - trí
lOMoARcPSD| 47206521
12
thức làm nền tảng lãnh đạo. (2) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất ớc
theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển mội nền nông nghiệp toàn diện nhiệm vụ
trung tâm nhằm từng bước xây dựng sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa hội, không
ngừng nâng cao năng suất lao dộng hội cải thiện đời sống nhân dân. (3) Thiết lập
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng hoá về hình
thức sở hữu, phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất. (4) Phát triển liền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo chế thị trường
sự quản của Nhà nước. (5) Tiến hành ch mạng hội chủ nghĩa trên lĩnh vực
tưởng và văn hoá làm cho thế giới quan Mác - Lênin tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
giữ vị trí chđạo trong đời sống tinh thần hội. Kế thừa, phát huy những truyền thống
văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. (6) Thực hiện chính sách
đại đoàn kết dân tộc, củng cố mở rộng Mặt trận dân tộc thng nhất. Thực hiện chính
sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước. (7) Xây dựng chủ nghĩa
xã hội bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nâng cao tinh
thần cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân n, nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam
một bộ phận tổ chức lãnh đạo hệ thống đó. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Cương lĩnh chỉ rõ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là “xây dựng xong về cơ bản
những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn
hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh”. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 là mốc đánh dấu sự
phát triển tư duy chính trị của Đảng ta, thể hiện nhận thức sâu sắc về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, về công cuộc đổi mới.
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là: "đưa đất ớc thoát khỏi
khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo
kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh, tạo
điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) đến năm 2000 tăng khoảng gấp đôi so với năm 1990".
Quan điểm chỉ đạo, phát triển kinh tế-xã hội theo con đường củng cố độc lập dân
tộc y dựng chủ nghĩa hội nước ta quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh,
tiến lên hiện đại trong một hội nhân dân làm chủ, nhân ái, văn hoá, kỷ cương,
xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
lOMoARcPSD| 47206521
13
phúc. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, với nhiều dạng sở hữu hình
thức tổ chức kinh doanh, vận động theo chế thị trường sự quản của Nhà nước.
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển con người, do con người, giải phóng
sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi nhân, mỗi tập thể lao động của cả
cộng đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự
lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất
nước. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu
nhập hợp pháp.
Đại hội thông qua Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng, khẳng định vai
trò lãnh đạo của Đảng gắn liền với việc xây dựng và thực hiện Cương lĩnh, Chiến lược
công cuộc đổi mới đất nước. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) gồm
146 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng thư của Đảng. Đại hội VII cột
mốc mới trong tiến trình cách mạng Việt Nam, đánh dấu bước trưởng thành của Đảng ta.
Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa hội phù hợp với đặc
điểm của Việt Nam những giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -
hội, đặt squyết định những ớc đi cho sự phát triển mạnh mcủa đất nước. Từ
đó củng cố thêm niềm tin tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công cuộc đổi
mới đất nước.
Đánh giá:
Đại hội VII cột mốc mới trong tiến trình cách mạng Việt nam, đánh dấu bước
trưởng thành của Đảng ta. Đại hội đã thực sự làm tròn trách nhiệm trọng đại lịch sử
đã giao phó, đó là “Đại hội của trí tuệ đổi mới, dân chủ - kỉ cương - đoàn kết”. Đại hội đã
hoạch định con đường quá độ lên CNXH phù hợp với đặc điểm của miền Nam và những
giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đặt cơ sở quyết định những
bước đi tới cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước. Đại hội đã củng cố thêm niềm tin
tưởng của cán bộ, Đảng viên và nhân dân đối với công cuộc đổi mới của đất nước.
Cương lĩnh năm 1991 Chiến lược n định, phát triển kinh tế hội đến năm
2000 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất giữa tưởng với hành động,
tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.
Lần đầu tiên trong lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã một bản
Cương lĩnh toàn diện, khái quát và nêu lên những vấn đề cơ bản trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, hộ, an ninh quốc phòng của đất nước, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta trong công cuộc đổi mới.
lOMoARcPSD| 47206521
14
1.1.2.3. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994)
Hoàn cảnh lịch sử:
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng diễn ra vào tháng 1
năm 1994 trong một bối cảnh lịch sử đầy biến động. Năm 1991 - năm đánh dấu sự sụp đổ
của chế độ XHCN Liên Đông Âu; phong trào cộng sản công nhân quốc tế
khủng hoảng trầm trọng, nhiều Đảng Cộng sản mất vị thế lãnh đạo. Các thế lực thù địch
nhân hội đó đã ra sức tuyên truyền, xuyên tạc; họ cho rằng, chủ nghĩa Mác -nin
đã “lỗi thời” đã diễn ra “sự kết thúc lịch sử” của CNXH. Diễn biến phức tạp của đời
sống chính trị-xã hội thế giới đã tác động rất lớn đến công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ
quốc, định hướng XHCN ở Việt Nam.
trong ớc, mặc công cuộc đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI năm 1986
đã đem lại một số kết quả tích cực, nhưng Việt Nam vẫn chưa thực sự thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - hội. Nền kinh tế còn nhiều hạn chế, năng suất lao động thấp, sở hạ
tầng yếu kém, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Các vấn đề như lạm phát, thất
nghiệp, tham nhũng tệ nạn hội vẫn tồn tại, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững
của đất nước.
Bên cạnh đó, do những khó khăn về kinh tế và ảnh hưởng từ sự sụp đổ của các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, một bộ phận nhân dân hoang mang, thiếu niềm tin
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những thách thức về tư tưởng, sự
dao động trong nhận thức về con đường phát triển của đất nước đặt ra yêu cầu cấp thiết
đối với Đảng trong việc củng cố lòng tin của nhân dân, tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi
mới một cách đúng đắn, hiệu quả hơn.
Nội dung đường lối cụ thể:
Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994) một dấu mốc quan trọng
trong quá trình đổi mới của Việt Nam. Tại hội nghị này, Đảng ta đã khẳng định quyết tâm
đẩy mạnh công cuộc đổi mới xác định rõ chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế. Bối cảnh
lúc bấy giờ đặt ra những thách thức lớn cho đất nước, đặc biệt bốn nguy Đảng
đã chỉ ra: nguy tụt hậu về kinh tế, nguy cơ chệch hướng hội chủ nghĩa, nguy
tham nhũng quan liêu, cùng với nguy “diễn biến hòa bình” từ các thế lực thù địch.
Những nguy này mối quan hệ mật thiết tác động lẫn nhau, làm cho yêu cầu hội
nhập kinh tế trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Vào đầu thập niên 1990, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn chuyển đổi,
với xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, năng suất lao động thấp sức cạnh tranh
chưa cao. Nhận thức rõ vấn đề này, Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII đã nhấn mạnh chủ
lOMoARcPSD| 47206521
15
trương đẩy mạnh ng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với hội nhập kinh tế quốc tế. Hội
nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 1/1994) đã nhấn mạnh việc phát triển công nghiệp,
công nghệ theo hướng hiện đại xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh để đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ mới. Đây một chiến lược quan trọng nhằm cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mục tiêu lâu
dài nâng cao mức sống vật chất tinh thần của nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an
ninh vững chắc, hướng tới một hội dân giàu, nước mạnh, ng bằng, văn minh. Một
trong những nhiệm vụ cốt lõi là xây dựng và phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng
lẫn chất lượng. Giai cấp công nhân trong giai đoạn mới cần bản lĩnh chính trị vững
vàng, giác ngộ về giai cấp, trình độ học vấn tay nghề cao, năng lực tiếp thu
sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu qucao. Đây chính
lực lượng nòng cốt thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện mục
tiêu này, Đảng xác định cần nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý của Nhà nước,
đồng thời phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Bên cạnh đó,
một trong những bước quan trọng trong quá trình hội nhập việc Việt Nam tích cực tham
gia vào các tổ chức kinh tế khu vực thế giới. Cụ thể, Việt Nam gia nhập ASEAN vào
ngày 28/7/1995, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình hội nhập khu vực. Tiếp
đó, Việt Nam tham gia Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) vào năm 1996, cam kết
cắt giảm thuế quan và thúc đẩy thương mại nội khối. Đến ngày 15/11/1998, Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình ơng
(APEC), tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu
thế giới.
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập:
Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) đã đề ra đường lối hội nhập kinh
tế quốc tế nhưng vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhằm tận dụng
hội từ toàn cầu hóa không làm suy yếu vai trò của Nhà nước và nền kinh tế quốc gia.
Đảng xác định rằng hội nhập không chỉ là mở rộng thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài
còn phải đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, duy trì ổn định kinh tế -
hội bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhà nước cần đóng vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế,
đảm bảo sự phát triển bền vững, tránh tình trạng nền kinh tế bị chi phối bởi các yếu tố tư
bản chủ nghĩa hoặc rơi vào sự lệ thuộc từ bên ngoài. Để thực hiện mục tiêu này, Đảng
nhấn mạnh việc phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng bền vững, chú trọng
đến các ngành kinh tế mũi nhọn, đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước để nâng cao
hiệu quả hoạt động đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các thành phần kinh tế trong
khuôn khổ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
lOMoARcPSD| 47206521
16
Bên cạnh đó, Hội nghị cũng đề ra các giải pháp quan trọng nhằm thực hiện quá
trình hội nhập một cách chủ động kiểm soát. Đảng chủ trương mở rộng hợp tác kinh
tế đối ngoại, nhưng sự lựa chọn kỹ lưỡng, tập trung vào các đối tác chiến lược các
lĩnh vực mang lại lợi ích lâu dài, tránh tình trạng phụ thuộc vào một số thị trường lớn.
Cùng với đó, Việt Nam cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển đội ngũ lao
động có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Một yếu tố quan trọng khác là giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo rằng hội nhập
kinh tế không làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo hay gây ra bất ổn trong nước. Đường
lối này không chỉ giúp Việt Nam tận dụng được lợi ích từ hội nhập còn bảo vệ nền
kinh tế trước những biến động toàn cầu, giữ vững định hướng XHCN và đảm bảo sự phát
triển bền vững của đất nước.
- Chống tham nhũng, cải cách kinh tế trong hội nhập:
Nguy cơ tham nhũng, quan liêu lãng phí là một thách thức nghiêm trọng trong
quá trình xây dựng phát triển đất nước. Những hành vi tham nhũng ngày càng diễn
biến phức tạp, tinh vi, len lỏi vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Điều đáng
lo ngại là không chỉ những cán bộ cấp cơ sở mà ngay cả một số lãnh đạo, quản lý cấp cao
cũng thể bị lôi kéo vào vòng xoáy tham nhũng, làm suy giảm lòng tin của nhân dân
vào bộ máy nhà nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không có cơ chế quản
chặt chminh bạch, tham nhũng thể dẫn đến thất thoát nguồn lực, làm suy yếu
hiệu quả hoạt động của nền kinh tế cản trở sự phát triển bền vững của đất nước. Hội
nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) đã đề ra các chủ trương quan trọng nhằm
nâng cao hiệu lực quảnnhà nước, cải cách hành chính tăng cường công tác phòng,
chống tham nhũng. Đảng nhấn mạnh rằng hội nhập kinh tế phải đi đôi với đổi mới chế
quản lý, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, thực hiện công khai, minh bạch
trong quản tài chính tài sản công. Hội nghị cũng đề cao việc tăng cường giám sát,
kiểm tra hoạt động của cán bộ, kiên quyết xử các trường hợp vi phạm, củng cố niềm
tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước. Để thực hiện hiệu quả những chủ trương y, Hội
nghị đã bầu bổ sung 20 ủy viên Trung ương, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, đảm bảo sự chỉ
đạo chặt chẽ trong giai đoạn phát triển mới. Những định hướng quan trọng của Hội nghị
giữa nhiệm kỳ khóa VII đã đặt nền móng cho việc xây dựng một nền kinh tế phát triển
bền vững, gắn liền với bộ máy quản lý nhà nước trong sạch, vững mạnh.
- Hội nhập kinh tế gắn với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc:
Chiến lược “diễn biến hòa bình” một thách thức lớn đối với các ớc đi theo
con đường hội chủ nghĩa, trong đó Việt Nam. Đây không phải cuộc chiến quân
sự trực diện sự thâm nhập tưởng tinh vi, từng bước tác động vào nhận thức của
cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Mục tiêu của các thế lực thù địch
lOMoARcPSD| 47206521
17
làm phai nhạt niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó thúc
đẩy tưởng sản, cổ xúy cho chủ nghĩa bản dẫn đến những biến động chính trị
nhằm lật đổ chế độ XHCN. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nguy này càng trở nên
phức tạp khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế, giao lưu văn a hợp tác với nhiều quốc
gia có chế độ chính trị khác nhau. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994), Đảng
nhấn mạnh rằng Việt Nam không chỉ hội nhập về kinh tế còn cần củng cố trận địa tư
tưởng, nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là thế hệ
trẻ. Điều này thể hiện qua việc tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng H
Chí Minh, đồng thời chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Bên
cạnh đó, Đảng xác định mở rộng quan hệ quốc tế phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau, không để các nước khác chi phối lợi ích quốc gia. Hội nghị cũng nhấn
mạnh nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, ngăn chặn sự xâm nhập của
các trào lưu văn hóa phản động, độc hại. Những chủ trương này không chỉ giúp Việt Nam
tận dụng lợi ích của hội nhập còn đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ con
đường đi lên chủ nghĩa hội, không để đất nước rơi vào tình trạng bị thao túng về
tưởng và chính trị.
1.2. Giai đoạn từ 1996 đến nay
1.2.1. Các quan điểm, chủ trương của Đảng a,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996, thuật ngữ
“hội nhập” bắt đầu được đề cập trong văn kiện của
Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới”. Đây là lần đầu tiên Nghị
quyết của Đảng đề cập đến việc đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục tiêu phục
vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Điều này
đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản trong nhận
thức về nhu cầu cần tích cực, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế.
b, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Đại hội IX năm 2001 của Đảng nhấn mạnh việc “chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
lOMoARcPSD| 47206521
18
bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội Đảng đã đưa ra những
đánh giá bản chất của toàn cầu hoá và cơ hội cũng như thách thức đối với Việt Nam khi
tham gia quá trình này.
- Đảng đã khẳng định, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá
trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng nguồn lực của các thành phần kinh tế, của
toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
- Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh
cạnh tranh, vừa nhiều hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo
và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tượng, vấn đề, trường
hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống
tưởng giản đơn, nôn nóng.
- Ngay trong đại hội, đảng nêu về đặc điểm nền kinh nước ta, từ đó đề ra kế hoạch
và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy
định của các tổ chức kinh tế quốc tế nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi nh
cho các nước đang phát triển các nước nền kinh tế chuyển đổi từ kinh trập trung
bao cấp sang kinh tế thị trường.
- Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh,
quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm
củng cố chủ quyền an ninh đất ớc, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội
nhập để thực hiện ý đồ ''diễn biến hoà bình'' đối với nước ta.
- Đảng cũng chỉ nguy tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khuvực
trên thế giới một trong bốn nguy chúng ta thể tận dụng những hội
hội nhập kinh tế quốc tế mang lại để tránh khỏi nguy này. Trong đại hội Đảng nêu
về con đường đi lên chủ nghĩa hội nước ta bao gồm nhiệm vụ quan trọng cấp bách
là tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Và đánh
giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000), o cáo Chính trị khẳng định
quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành
chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
c, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
Tại Đại hội X năm 2006, Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Sau khi Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào tháng 1/2007, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã ban hành một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO.
lOMoARcPSD| 47206521
19
- Trong bối cảnh và định hướng của đại hội, quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế giai
đoạn tới cần đặt trong bối cảnh thực hiện ơng lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa hội Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011- 2020. Chú trọng
tăng cường, quán triệt nhận thức vhội nhập kinh tế quốc tế trong toàn Đảng, toàn dân.
Phải coi hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế, sự nghiệp của toàn dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng sự quản của Nhà nước. Nhân dân chủ thể của hội nhập,
người được hưởng thành quả và cũng là người chịu tác động từ hội nhập.
- Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế cần gắn kết hơn nữa với quá trình đổi mới kinh
tế - xã hội trong nước để nâng cao hiệu quả và tăng cường sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau vì
mục tiêu phát triển chung. Trên cơ sở đó, cần tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế để góp phần cải thiện đáng kể năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
thúc đẩy tiến trình tái cấu trúc đổi mới hình tăng trưởng, đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao, tạo tiền đề vững chắc
để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau.
- Đảng khẳng định, hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài
hòavới hội nhập trong các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải trọng tâm,
nội dung chính, quan trọng nhất của tiến trình hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế cần
đi trước một bước để tạo sở, thúc đẩy hội nhập và hợp tác trong các lĩnh vực khác. Hội
nhập kinh tế quốc tế phải nhằm thúc đẩy các quan hệ hợp tác song phương, khu vực
đa phương; tiếp tục nâng cao vị trí vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động
xây dựng các quan hệ đối tác mới thực sự mang lại lợi ích quốc gia. Kết hợp chặt chẽ Hội
nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc phòng.
- Đảng nhấn mạnh một lần nữa, hội nhập kinh tế quốc tế công việc của toàn
dân.Nhân dân là chủ thể của hội nhập và được hưởng thành quả từ hội nhập. Mọi cơ chế,
chính sách phải nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, khả năng sáng tạo phát huy
mọi nguồn lực của nhân dân, tạo ra sự đồng thuận cao trong toàn xã hội; phát huy vai trò
của đồng bào ta đang sinh sống nước ngoài vào công cuộc phát triển đất nước tăng
thêm sự gắn bó của đồng bào với Tổ quốc.
d, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Đại hội lần thứ XI năm 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối
ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất quan trọng là
“chủ động tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội
trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện là một phát triển quan trọng về
duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại hội XI. Để cụ thể hóa chủ trương này, ngày 10/4/2013,
Chính trị đã đưa ra các quan điểm, chủ trương về hội nhập
quốc tế. Tiến trình hội nhập

Preview text:

lOMoAR cPSD| 47206521
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
---------🕮--------- BÀI THẢO LUẬN NHÓM 5
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA
Mã lớp học phần: 242_HCMI0131_04
Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Thị Thúy 2025 lOMoAR cPSD| 47206521
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 5 STT Họ và tên Mã Sinh Viên Công việc 67 Nguyễn Hải Nam 22D120143 Nhóm trưởng + Thuyết trình 68
Trần Thị Thúy Nga 22D130154 1.1.1 + 1.1.2.3 69 Triệu Xuân Nghĩa 22D120152 1.2..2.3 + 1.2.3.4 70 Bùi Minh Ngọc 22D120153 2.1.1 71
Trần Thị Bích Ngọc 21D120262 1.3 72 Quách Thị Thảo 22D120157 Slide Nguyên 73
Nguyễn Tuấn Nhân 22D120158 1.2.2.1 + 1.2.2.2 74 Đỗ Gia Phong 22D120167 Thuyết trình 75 Dương Đức Phúc 22D210176 2.2 76 Ngô Thị Kim 22D210185 1.1.2.1 + 1.1.2.2 Phượng 77 Nguyễn Anh Quân 22D120173 Slide 78 Vi Thị Ánh Quyên 22D120175 2.3 79 Lò Văn Tâm 22D120181 1.2.1 80 Phạm Quốc Thành 22D210196 2.1.2 81 Dương Thị Thu 22D130182 Word Thảo 82 Đinh Thị Thảo 22D180208 2.2 1
MỤC LỤC CHƯƠNG I QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Giai đoạn từ 1986 đến 1996
1.1.1 Các quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế lOMoAR cPSD| 47206521
1.1.2 Quá trình tổ chức và chỉ đạo thực hiện
1.2. Giai đoạn từ 1996 đến nay
1.2.1. Các quan điểm, chủ trương của Đảng
1.2.2 Quá trình tổ chức và chỉ đạo thực hiện
1.3 So sánh Sự khác biệt giữa hai giai đoạn
1.3.1 Về bối cảnh lịch sử
1.3.2 Về quan điểm và chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng
CHƯƠNG II CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP 2.1 Thành tựu 2.1.1 Giai đoạn 1986-1996
2.1.2 Giai đoạn 1996 đến nay
2.2 Các vấn đề tồn đọng 2.2.1. Giai đoạn 1986-1996 2.2.2. Giai đoạn 1996-nay
2.3. Đề xuất giải pháp
2.3.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế và nâng cao năng lực thực thi hội nhập
2.3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh và giá trị gia tăng của hàng hóa xuất khẩu
2.3.3. Chủ động ứng phó với biến động khu vực và quốc tế
2.3.4. Nâng cao hiệu quả hội nhập ở cấp độ vi mô và cơ chế giám sát
TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 lOMoAR cPSD| 47206521
CHƯƠNG I QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1. Giai đoạn từ 1986 đến 1996
1.1.1 Các quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế
“Hội nhập” là hành động hoặc quá trình gắn kết các phần tử riêng rẽ với nhau; hợp
chung các bộ phận vào một chỉnh thể (nhất thể, hợp nhất) và kết hợp các thành tố khác
nhau lại (tụ hội, tụ nhóm).
Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với
nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì
mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức
mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc
tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế
nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó.
Hội nhập kinh tế quốc tế được các quốc gia/vùng lãnh thổ thực hiện bằng bảy
phương thức chủ yếu bao gồm: (i) Thỏa thuận thương mại ưu đãi; (ii) Khu vực mậu dịch
tự do; (iii) Hiệp định đối tác kinh tế; (iv) Thị trường chung; (v) Liên minh thuế quan; (vi)
Liên minh kinh tế và tiền tệ; (vii) Diễn đàn hợp tác kinh tế.
Trong đó, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước ta
đã chủ trương tham gia các thể chế kinh tế. Lời kêu gọi trong thư gửi Liên hợp quốc tháng
12/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam
sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: (a). Nước Việt Nam
dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nha kỹ thuật nước ngoài trong
tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; (b) Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân
bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; (c) Việt Nam chấp
nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”.
Từ những năm 1980 đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức được tính
cần thiết và tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế. Đường lối, chủ trương hội nhập kinh tế
của Đảng đã được đề ra nhất quán, không ngừng được hoàn thiện và triển khai tích cực,
phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung trọng tâm
của hội nhập quốc tế. Kể từ năm 1986, các quan điểm, chủ trương của Đảng về hội nhập
kinh tế quốc tế mang tính nhất quán, hệ thống, luôn được cập nhật và mang tính kế thừa qua các kỳ Đại hội.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã đề ra đường lối Đổi mới toàn diện và sâu sắc
mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Sự nghiệp Đổi mới của Việt Nam được tiến hành trong bối
cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc và một cục diện, trật tự thế giới mới đang hình
thành, trong đó các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa đấu tranh vừa hợp tác. Nếu 3 lOMoAR cPSD| 47206521
như tại Đại hội V (1982), Đảng chỉ xác định “Ưu tiên mở rộng sự hợp tác toàn diện giữa
nước ta với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế” thì đến Đại hội Đảng
lần thứ VI (1986), Đảng đã đưa ra chủ trương tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp
tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp
tác quốc tế trong “Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác”; xác định
quan hệ kinh tế quốc tế giai đoạn này không chỉ tập trung vào Liên xô và các nước trong
cùng hệ thống xã hội chủ nghĩa mà phải mở rộng quan hệ với các nước thứ ba, các nước
công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi. Trên cơ sở quan điểm đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI và Nghị quyết số 13-NQ/TW, (tháng 5/1998) của Bộ Chính trị, Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) khẳng định: Kiên trì đường lối độc lập, tự chủ,
tranh thủ thời gian và điều kiện thuận lợi để từng bước ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội, với phương châm tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, tham gia tích cực vào phân công
lao động quốc tế, trên cơ sở hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình và “chuyển
mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chính sang quan hệ chính trị - kinh tế,
mở rộng quan hệ kinh tế phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước” (Phạm Minh An, 2023).
Phát triển tư tưởng đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII (năm 1991) thông qua đã xác định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ với các nước trên tinh thần “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển”. Đây là một cột mốc quan trọng đánh dấu bước khởi đầu của Việt Nam tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ mới. Chính sách đối ngoại với mục tiêu “tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên xã hội chủ
nghĩa... Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính
trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”, Việt Nam đã
đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập của các thế lực thù địch, không ngừng mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại song phương và đa phương sau khi hệ thống xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu tan rã (Hải An, 2016).
1.1.2 Quá trình tổ chức và chỉ đạo thực hiện
1.1.2.1. Đại hội VI (1986)
● Hoàn cảnh lịch sử: - Thế giới: 4 lOMoAR cPSD| 47206521
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội vào tháng 12/1986,
trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang phát triển, xu thế đối thoại trên
thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu. Chính vì vậy, đổi mới đã trở thành xu thế của thời đại.
Mặt khác, hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu đang lâm vào tình trạng kinh tế
- xã hội khủng hoảng, khó khăn nghiêm trọng. Phong trào độc lập dân tộc phát triển mạnh;
phong trào không liên kết trở thành lực lượng chính trị rộng lớn có vai trò ngày càng quan
trọng. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải tổ sự nghiệp xây dựng xã
hội chủ nghĩa với các hình thức và mức độ khác nhau, có nước thành công, có nước thất
bại. Điều này giúp Đảng ta định hướng được con đường đổi mới đúng đắn cho nước nhà. - Trong nước:
Việt Nam đang bị các đế quốc đứng đầu là Mỹ và các thế lực thù địch tìm cách
chống phá hệ thống và nhà nước xã hội chủ nghĩa, bị bao vây cấm vận. Đất nước ta đang
phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu
quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu
thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và
điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Những mất cân đối trong nền kinh tế chậm được thu hẹp;
quan hệ sản xuất của xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế
quốc doanh bị suy yếu. Lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng đều khan hiếm; lạm phát
tăng lên hơn 774% vào năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên
trái phép diễn ra khá phổ biến. Tiêu cực trong xã hội ngày càng phát triển, công bằng xã
hội bị vi phạm; quần chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.
Như vậy, thực trạng đất nước lúc bấy giờ đặt ra một yêu cầu khách quan và bức
thiết là phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, phải có những quyết sách khoa học để ổn định
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, vượt ra khỏi khủng hoảng để tiến lên. ● Nội dung:
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại
hội đánh giá đúng mức những thành tựu đã đạt được trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội nhận định: “Năm năm qua là một đoạn đường đầy thử
thách đối với Đảng và nhân dân ta. Cách mạng nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế và
trong nước có những thuận lợi cơ bản, nhưng cũng có nhiều khó khăn, phức tạp. Thực
hiện những nhiệm vụ và mục tiêu do Đại hội lần thứ V của Đảng đề ra, nhân dân ta anh
dũng phấn đấu, khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại, đã đạt được những thành tựu quan
trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn trong cuộc 5 lOMoAR cPSD| 47206521
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế”. Bên cạnh việc khẳng định những
thành tích đã đạt được, Đại hội cũng đã nhận rõ: “Tình hình kinh tế - xã hội đang có những
khó khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối, lưu
thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có
mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân
dân lao động còn nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm
trọng”. Có thể thấy Đại hội đã đồng thời chỉ ra những mặt yếu kém, những khó khăn gay
gắt của đất nước do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra.
Nhìn chung, Đảng chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề
ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Không đánh
giá thấp những nguyên nhân khách quan, Đại hội cũng nghiêm khắc nêu rõ, nguyên nhân
chủ quan của tình hình khó khăn, khủng hoảng là do những sai lầm, khuyết điểm trong sự
lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Đại hội nhận định trong những năm 1976 -
1980, trên thực tế, chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có
đủ các tiền đề cần thiết; vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác cải tạo xã hội chủ
nghĩa; chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế không còn phù hợp. Trong những năm 1981
- 1985, Đảng chưa cụ thể hóa đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên
quyết khắc phục chủ quan, nóng vội và bảo thủ, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo
xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực
phân phối, lưu thông, đã buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế - xã hội,
trong đấu tranh tư tưởng, văn hóa, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại
thâm độc của kẻ thù. “Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương,
chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện”. Khuynh hướng tư tưởng
chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ
quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng buông
lỏng trong quản lý kinh tế - xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên
tắc của Đảng. Đó là những biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa tả khuynh, vừa hữu
khuynh. “Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những
khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng”.
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng của 10 năm vừa qua, Đại hội rút ra bốn bài học
kinh nghiệm lớn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Trong điều kiện
đảng cầm quyền, phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân; tiến
hành thường xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục chủ nghĩa quan liêu. Mỗi đảng 6 lOMoAR cPSD| 47206521
viên cộng sản phải thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và
khả năng của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần
chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của nhân dân là làm
suy yếu sức mạnh của Đảng.
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật khách quan là điều kiện
bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến
được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức
đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật
đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều
kiện mới. Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, chúng ta phải đặc biệt coi trọng
kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế, các yếu tố truyền thống và thời đại, sử dụng tốt mọi
khả năng mở rộng quan hệ thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học, kỹ thuật với bên
ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và luôn luôn làm tròn nghĩa vụ
quốc tế của mình đối với các nước anh em và bầu bạn.
Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm
quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để bảo đảm cho
Đảng ta làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó, vấn đề cấp bách là tăng cường sức chiến
đấu và nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm
khuyết điểm, đổi mới tư duy, nhận thức rõ hơn về những quy luật khách quan của thời kỳ
quá độ, kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và những năm đầu khi nước nhà thống nhất, trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực
tiễn, Ðại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới về kinh tế với năm
mục tiêu cơ bản được đề ra: (1)
Sản xuất đủ tiêu dùng có tích luỹ trước mắt là đáp ứng nhu cầu cấp bách
vàthiết yếu của xã hội, dần ổn định tiền lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn
hoá của nhân dân đảm bảo ăn no, mặc ấm đáp ứng tốt hơn các nhu cầu: nhà ở bảo vệ sức
khoẻ đi lại học hành, ... Yêu cầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế để đủ sức tiếp nhận và
đưa vào tái sản xuất mở rộng vay vốn và viện trợ của nước ngoài. (2)
Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất Tính
hợplý của cơ cấu kinh tế trước hết là cơ cấu ngành kinh tế phải phù hợp với quy luật về 7 lOMoAR cPSD| 47206521
sự phát triển của các ngành sản xuất vật chất, phù hợp khả năng của đất nước sự phân
công lao động và hợp tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế ấy phải đảm bảo cho nền kinh tế phát
triển cân đối với nhịp độ tăng trưởng ổn định, hướng vào việc thực hiện 3 chương trình
kinh tế lớn: Lương thực - thực phẩm; hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. (3)
Xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và
trìnhđộ phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
bao gồm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, làm cho các thành phần kinh tế XHCN
giữ vai trò chi phối nền kinh tế, có tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng sản
phẩm, thu nhập của người lao động và tích luỹ cho sự nghiệp CNH. Hình thành đồng bộ
hệ thống mới về quản lý kinh tế. (4)
Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội. Trước hết là giải quyết một phần
quátrình việc làm cho người lao động và đàm bảo về cơ bản phân phối theo lao động.
Thực hiện công bằng xã hội phù hợp điều kiện cụ thể nước ta. Thực hiện nguyên tắc mọi
người sống và làm việc theo pháp luật. (5)
Đảm bảo nhu cầu cùng cổ quốc phòng, Quốc phòng an ninh được xây
dựngvà củng cố ngày càng vững mạnh đảm bảo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây
dựng kinh tế. Cùng cổ thế trận bảo vệ tổ quốc cả về quốc phòng và an ninh.
Đổi mới về chính sách đối ngoại góp phần giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông
Nam Á và thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghĩ và hợp tác toàn diện
với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì
lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Về huy động
sức mạnh của quần chúng, Đại hội xác định phải phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động, thực hiện khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường
hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực lượng to lớn của quần chúng.
Đổi mới về lãnh đạo, trong công tác xây dựng Đảng, Đại hội xác định, để chuyển
biến tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy, trước hết là tư
duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và
công tác. Nâng cao chất lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng,
tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách
của công tác xây dựng Đảng. Đi đôi với việc xác định đúng chức năng, nhiệm vụ quản lý
của các cấp, các ngành, phải đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý. ● Đánh giá: 8 lOMoAR cPSD| 47206521
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) có ý nghĩa lịch sử
trọng đại, mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước, đánh dấu một bước ngoặt phát triển trong
sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ
thực tiễn và đối mới tư duy lý luận nhận thức rõ hơn về thời kỳ quá độ và về chủ nghĩa xã
hội, những quy luật khách quan đang vận dụng trong thời kỳ quá độ, Đại hội VI của Đảng
đã mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, sâu sắc mọi lĩnh vực của nền kinh
tế, được các kỳ Đại hội sau này và các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương của Đảng kế
thừa, bổ sung, cụ thể hóa và phát triển.
1.1.2.2. Đại hội VII (1991)
● Hoàn cảnh lịch sử: - Thế giới:
Sự khủng hoảng trầm trọng của chế độ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu,
sự chống phá nhiều phía vào chủ nghĩa xã hội, vào chủ nghĩa Mác – Lênin và Đảng Cộng
sản, những âm mưu và thủ đoạn của các thế lực thù địch quốc tế hòng xoá bỏ chủ nghĩa
xã hội hiện thực và sự hoang mang dao động của một bộ phận những người cộng sản trên
thế giới đã tác động đến tư tưởng và tình cảm của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân
dân Việt Nam. Tuy vậy vào thời điểm này một thuận lợi quan trọng đối với Việt Nam là
công cuộc cải cách của Trung Quốc đang giành được những thành tựu quan trọng. - Trong nước:
Sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội có những
chuyển biến tích cực, đã đạt được một số thành tựu nhất định, đó là: Tình hình chính trị
của đất nước ổn định; Nền kinh tế có những bước phát triển đã đạt được những tiến bộ rõ
rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của 3 chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, huy động được nguồn lực sản xuất của xã hội, tốc độ lạm phát được kiềm chế, đời
sống của một bộ phận nhân dân đã được cải thiện; Nền dân chủ của nhân dân ngày càng
được phát huy; Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Từng bước
phá thế bị bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường
thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Song vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng, đất nước ta cũng phải đương đầu với nhiều
yếu kém và khó khăn: Đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhiều vấn
đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết như lạm phát cao, lao động thiếu việc
làm, nhiều cơ sở sản xuất đình đốn kéo dài. Số lao động thiếu việc làm tăng. Chế độ lương
bất hợp lý. Tốc độ dân số còn quá cao; tình trạng vi phạm dân chủ còn nhiều; văn hoá xã
hội có những mặt tiếp tục xuống cấp. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, bất công trong xã 9 lOMoAR cPSD| 47206521
hội tăng thêm, an ninh trật tự và an toàn xã hội còn phức tạp, vẫn còn nhân tố gây mất ổn
định chính trị, bộ máy nhà nước, Đảng và các đoàn thể nhân dân cồng kềnh, quan liêu,
hoạt động kém hiệu quả.
=> Bối cảnh đặt ra cho Đại hội VII một nhiệm vụ hết sức nặng nề là phải đề ra
đường lối để đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. ● Nội dung:
Tại Đại hội VII của Đảng năm 1991, từ thực tiễn sau 5 năm thực hiện công cuộc
đổi mới, cả thành công và chưa thành công, Đại hội VII của Đảng đã nêu lên 5 kinh
nghiệm bước đầu về tiến hành công cuộc đổi mới:
Một là, phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, hợp sự
kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy
cảm nắm bắt cái mới, trong đó nhấn mạnh: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu chủ
nghĩa xã hội mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có kết quả bằng những quan niệm
đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.
Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến
thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội. Đảng phải tự đổi
mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp. Đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Đồng thời trong mỗi bước đi lại phải xác định đúng khâu then chốt để tập
trung sức giải quyết làm cơ sở đổi mới các khâu khác và lĩnh vực khác. Phải tập trung sức
làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc
làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,
coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị.
Chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy cảm trong xã hội,
nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn
bị rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị dẫn đến sự rối loạn. Nhưng
không vì vậy mà tiến hành chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy
và cán bộ, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều
kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ.
Ba là, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai
trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội. Để hạn chế và khắc phục những hậu quả tiêu
cực của kinh tế thị trường, giữ cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng và phát huy bản chất 10 lOMoAR cPSD| 47206521
tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý về kinh tế - xã
hội bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền giáo dục và các công cụ khác.
Bốn là, chúng ta khẳng định tiếp tục phát huy ngày càng sâu rộng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, nhưng để phát huy dân chủ đúng hướng và đạt kết quả thì quá trình đó phải
được lãnh đạo tốt, có bước đi vững chắc phù hợp với tình hình chính trị, xã hội nói chung.
Năm là, trong quá trình đổi mới, phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát hiện
và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện
đường lối đổi mới; tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó nhấn mạnh: Công cuộc đổi mới
càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều vấn đề mới liên quan đến nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chỉ có tăng cường tổng kết thực
tiễn, phát triển lý luận thì công cuộc đổi mới mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động
và sáng tạo, bớt được sai lầm và những bước đi quanh co, phức tạp.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đánh
giá tổng quát quá trình cách mạng Việt Nam và nêu lên năm bài học kinh nghiệm lớn: (1)
nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; (2) sự nghiệp cách mạng là của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (3) không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn
kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế; (4) kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; (5) sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh đã trình bày xu thế phát triển của thế giới, đặc điểm của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh xác định rõ sáu đặc trưng cơ bản của nhà
nước xã hội chủ nghĩa: (1) Do nhân dân lao động làm chủ; (2) Có một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chủ yếu; (3) Có nền văn hóa tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc; (4) Con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; (5) Các dân tộc
trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; (6) Có quan hệ hữu nghị
và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Cương lĩnh xác định quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài,
phải trải qua nhiều chặng đường. Do vậy, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc cần nắm vững bảy phương hướng cơ bản sau: (1) Xây dựng nhà nước xã
hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh công nhân - nông dân - trí 11 lOMoAR cPSD| 47206521
thức làm nền tảng lãnh đạo. (2) Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước
theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển mội nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ
trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không
ngừng nâng cao năng suất lao dộng xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. (3) Thiết lập
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng hoá về hình
thức sở hữu, phù hợp với sự phát triển lực lượng sản xuất. (4) Phát triển liền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước. (5) Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư
tưởng và văn hoá làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa, phát huy những truyền thống
văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. (6) Thực hiện chính sách
đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Thực hiện chính
sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước. (7) Xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nâng cao tinh
thần cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Cương lĩnh nêu rõ quan điểm về xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là
một bộ phận và là tổ chức lãnh đạo hệ thống đó. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Cương lĩnh chỉ rõ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là “xây dựng xong về cơ bản
những cơ sở kinh tế của CNXH, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn
hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh”. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 là mốc đánh dấu sự
phát triển tư duy chính trị của Đảng ta, thể hiện nhận thức sâu sắc về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, về công cuộc đổi mới.
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là: "đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo
và kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo
điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Tổng sản phẩm trong
nước (GDP) đến năm 2000 tăng khoảng gấp đôi so với năm 1990".
Quan điểm chỉ đạo, phát triển kinh tế-xã hội theo con đường củng cố độc lập dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh,
tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương,
xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh 12 lOMoAR cPSD| 47206521
phúc. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, với nhiều dạng sở hữu và hình
thức tổ chức kinh doanh, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người, giải phóng
sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả
cộng đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự
lực tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất
nước. Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp.
Đại hội thông qua Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi điều lệ Đảng, khẳng định vai
trò lãnh đạo của Đảng gắn liền với việc xây dựng và thực hiện Cương lĩnh, Chiến lược và
công cuộc đổi mới đất nước. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) gồm
146 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Đại hội VII là cột
mốc mới trong tiến trình cách mạng Việt Nam, đánh dấu bước trưởng thành của Đảng ta.
Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc
điểm của Việt Nam và những giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, đặt cơ sở và quyết định những bước đi cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước. Từ
đó củng cố thêm niềm tin tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công cuộc đổi mới đất nước. ● Đánh giá:
Đại hội VII là cột mốc mới trong tiến trình cách mạng Việt nam, đánh dấu bước
trưởng thành của Đảng ta. Đại hội đã thực sự làm tròn trách nhiệm trọng đại mà lịch sử
đã giao phó, đó là “Đại hội của trí tuệ đổi mới, dân chủ - kỉ cương - đoàn kết”. Đại hội đã
hoạch định con đường quá độ lên CNXH phù hợp với đặc điểm của miền Nam và những
giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đặt cơ sở và quyết định những
bước đi tới cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước. Đại hội đã củng cố thêm niềm tin
tưởng của cán bộ, Đảng viên và nhân dân đối với công cuộc đổi mới của đất nước.
Cương lĩnh năm 1991 và Chiến lược ổn định, phát triển kinh tế xã hội đến năm
2000 đã giải đáp đúng đắn vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội; đặt nền tảng đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động,
tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển.
Lần đầu tiên trong lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có một bản
Cương lĩnh toàn diện, khái quát và nêu lên những vấn đề cơ bản trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hộ, an ninh quốc phòng của đất nước, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta trong công cuộc đổi mới. 13 lOMoAR cPSD| 47206521
1.1.2.3. Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994) ● Hoàn cảnh lịch sử:
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng diễn ra vào tháng 1
năm 1994 trong một bối cảnh lịch sử đầy biến động. Năm 1991 - năm đánh dấu sự sụp đổ
của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
khủng hoảng trầm trọng, nhiều Đảng Cộng sản mất vị thế lãnh đạo. Các thế lực thù địch
nhân cơ hội đó đã ra sức tuyên truyền, xuyên tạc; họ cho rằng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin
đã “lỗi thời” và đã diễn ra “sự kết thúc lịch sử” của CNXH. Diễn biến phức tạp của đời
sống chính trị-xã hội thế giới đã tác động rất lớn đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, định hướng XHCN ở Việt Nam.
Ở trong nước, mặc dù công cuộc đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI năm 1986
đã đem lại một số kết quả tích cực, nhưng Việt Nam vẫn chưa thực sự thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội. Nền kinh tế còn nhiều hạn chế, năng suất lao động thấp, cơ sở hạ
tầng yếu kém, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Các vấn đề như lạm phát, thất
nghiệp, tham nhũng và tệ nạn xã hội vẫn tồn tại, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước.
Bên cạnh đó, do những khó khăn về kinh tế và ảnh hưởng từ sự sụp đổ của các
nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, một bộ phận nhân dân hoang mang, thiếu niềm tin
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những thách thức về tư tưởng, sự
dao động trong nhận thức về con đường phát triển của đất nước đặt ra yêu cầu cấp thiết
đối với Đảng trong việc củng cố lòng tin của nhân dân, tiếp tục lãnh đạo công cuộc đổi
mới một cách đúng đắn, hiệu quả hơn.
● Nội dung đường lối cụ thể:
Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994) là một dấu mốc quan trọng
trong quá trình đổi mới của Việt Nam. Tại hội nghị này, Đảng ta đã khẳng định quyết tâm
đẩy mạnh công cuộc đổi mới và xác định rõ chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế. Bối cảnh
lúc bấy giờ đặt ra những thách thức lớn cho đất nước, đặc biệt là bốn nguy cơ mà Đảng
đã chỉ ra: nguy cơ tụt hậu về kinh tế, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ
tham nhũng và quan liêu, cùng với nguy cơ “diễn biến hòa bình” từ các thế lực thù địch.
Những nguy cơ này có mối quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau, làm cho yêu cầu hội
nhập kinh tế trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Vào đầu thập niên 1990, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn chuyển đổi,
với xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, năng suất lao động thấp và sức cạnh tranh
chưa cao. Nhận thức rõ vấn đề này, Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII đã nhấn mạnh chủ 14 lOMoAR cPSD| 47206521
trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với hội nhập kinh tế quốc tế. Hội
nghị Trung ương 7 khóa VII (tháng 1/1994) đã nhấn mạnh việc phát triển công nghiệp,
công nghệ theo hướng hiện đại và xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh để đáp ứng
yêu cầu của thời kỳ mới. Đây là một chiến lược quan trọng nhằm cải biến nước ta thành
một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ và phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mục tiêu lâu
dài là nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an
ninh vững chắc, hướng tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn minh. Một
trong những nhiệm vụ cốt lõi là xây dựng và phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng
lẫn chất lượng. Giai cấp công nhân trong giai đoạn mới cần có bản lĩnh chính trị vững
vàng, giác ngộ về giai cấp, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và
sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Đây chính là
lực lượng nòng cốt thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện mục
tiêu này, Đảng xác định cần nâng cao năng lực lãnh đạo, hiệu quả quản lý của Nhà nước,
đồng thời phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Bên cạnh đó,
một trong những bước quan trọng trong quá trình hội nhập là việc Việt Nam tích cực tham
gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới. Cụ thể, Việt Nam gia nhập ASEAN vào
ngày 28/7/1995, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình hội nhập khu vực. Tiếp
đó, Việt Nam tham gia Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) vào năm 1996, cam kết
cắt giảm thuế quan và thúc đẩy thương mại nội khối. Đến ngày 15/11/1998, Việt Nam trở
thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
(APEC), tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới.
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập:
Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) đã đề ra đường lối hội nhập kinh
tế quốc tế nhưng vẫn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhằm tận dụng cơ
hội từ toàn cầu hóa mà không làm suy yếu vai trò của Nhà nước và nền kinh tế quốc gia.
Đảng xác định rằng hội nhập không chỉ là mở rộng thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài
mà còn phải đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, duy trì ổn định kinh tế - xã
hội và bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhà nước cần đóng vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế,
đảm bảo sự phát triển bền vững, tránh tình trạng nền kinh tế bị chi phối bởi các yếu tố tư
bản chủ nghĩa hoặc rơi vào sự lệ thuộc từ bên ngoài. Để thực hiện mục tiêu này, Đảng
nhấn mạnh việc phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng bền vững, chú trọng
đến các ngành kinh tế mũi nhọn, đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước để nâng cao
hiệu quả hoạt động và đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các thành phần kinh tế trong
khuôn khổ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. 15 lOMoAR cPSD| 47206521
Bên cạnh đó, Hội nghị cũng đề ra các giải pháp quan trọng nhằm thực hiện quá
trình hội nhập một cách chủ động và có kiểm soát. Đảng chủ trương mở rộng hợp tác kinh
tế đối ngoại, nhưng có sự lựa chọn kỹ lưỡng, tập trung vào các đối tác chiến lược và các
lĩnh vực mang lại lợi ích lâu dài, tránh tình trạng phụ thuộc vào một số thị trường lớn.
Cùng với đó, Việt Nam cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển đội ngũ lao
động có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Một yếu tố quan trọng khác là giữ vững ổn định chính trị - xã hội, đảm bảo rằng hội nhập
kinh tế không làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo hay gây ra bất ổn trong nước. Đường
lối này không chỉ giúp Việt Nam tận dụng được lợi ích từ hội nhập mà còn bảo vệ nền
kinh tế trước những biến động toàn cầu, giữ vững định hướng XHCN và đảm bảo sự phát
triển bền vững của đất nước.
- Chống tham nhũng, cải cách kinh tế trong hội nhập:
Nguy cơ tham nhũng, quan liêu và lãng phí là một thách thức nghiêm trọng trong
quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Những hành vi tham nhũng ngày càng diễn
biến phức tạp, tinh vi, len lỏi vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Điều đáng
lo ngại là không chỉ những cán bộ cấp cơ sở mà ngay cả một số lãnh đạo, quản lý cấp cao
cũng có thể bị lôi kéo vào vòng xoáy tham nhũng, làm suy giảm lòng tin của nhân dân
vào bộ máy nhà nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, nếu không có cơ chế quản
lý chặt chẽ và minh bạch, tham nhũng có thể dẫn đến thất thoát nguồn lực, làm suy yếu
hiệu quả hoạt động của nền kinh tế và cản trở sự phát triển bền vững của đất nước. Hội
nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) đã đề ra các chủ trương quan trọng nhằm
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, cải cách hành chính và tăng cường công tác phòng,
chống tham nhũng. Đảng nhấn mạnh rằng hội nhập kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế
quản lý, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, thực hiện công khai, minh bạch
trong quản lý tài chính và tài sản công. Hội nghị cũng đề cao việc tăng cường giám sát,
kiểm tra hoạt động của cán bộ, kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm, củng cố niềm
tin của nhân dân vào bộ máy nhà nước. Để thực hiện hiệu quả những chủ trương này, Hội
nghị đã bầu bổ sung 20 ủy viên Trung ương, kiện toàn bộ máy lãnh đạo, đảm bảo sự chỉ
đạo chặt chẽ trong giai đoạn phát triển mới. Những định hướng quan trọng của Hội nghị
giữa nhiệm kỳ khóa VII đã đặt nền móng cho việc xây dựng một nền kinh tế phát triển
bền vững, gắn liền với bộ máy quản lý nhà nước trong sạch, vững mạnh.
- Hội nhập kinh tế gắn với giữ vững độc lập, tự chủ và bản sắc dân tộc:
Chiến lược “diễn biến hòa bình” là một thách thức lớn đối với các nước đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Đây không phải là cuộc chiến quân
sự trực diện mà là sự thâm nhập tư tưởng tinh vi, từng bước tác động vào nhận thức của
cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Mục tiêu của các thế lực thù địch là 16 lOMoAR cPSD| 47206521
làm phai nhạt niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, vào sự lãnh đạo của Đảng, từ đó thúc
đẩy tư tưởng tư sản, cổ xúy cho chủ nghĩa tư bản và dẫn đến những biến động chính trị
nhằm lật đổ chế độ XHCN. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nguy cơ này càng trở nên
phức tạp khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế, giao lưu văn hóa và hợp tác với nhiều quốc
gia có chế độ chính trị khác nhau. Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994), Đảng
nhấn mạnh rằng Việt Nam không chỉ hội nhập về kinh tế mà còn cần củng cố trận địa tư
tưởng, nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là thế hệ
trẻ. Điều này thể hiện qua việc tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đồng thời chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Bên
cạnh đó, Đảng xác định mở rộng quan hệ quốc tế phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau, không để các nước khác chi phối lợi ích quốc gia. Hội nghị cũng nhấn
mạnh nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, ngăn chặn sự xâm nhập của
các trào lưu văn hóa phản động, độc hại. Những chủ trương này không chỉ giúp Việt Nam
tận dụng lợi ích của hội nhập mà còn đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, không để đất nước rơi vào tình trạng bị thao túng về tư tưởng và chính trị.
1.2. Giai đoạn từ 1996 đến nay
1.2.1. Các quan điểm, chủ trương của Đảng a,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996, thuật ngữ
“hội nhập” bắt đầu được đề cập trong văn kiện của
Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập
với khu vực và thế giới”. Đây là lần đầu tiên Nghị
quyết của Đảng đề cập đến việc đẩy nhanh quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mục tiêu phục
vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Điều này
đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản trong nhận
thức về nhu cầu cần tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
b, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Đại hội IX năm 2001 của Đảng nhấn mạnh việc “chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, 17 lOMoAR cPSD| 47206521
bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đại hội Đảng đã đưa ra những
đánh giá bản chất của toàn cầu hoá và cơ hội cũng như thách thức đối với Việt Nam khi tham gia quá trình này. -
Đảng đã khẳng định, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân; trong quá
trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của
toàn xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. -
Bên cạnh đó, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và
cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo, khôn khéo
và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tượng, vấn đề, trường
hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ, thụ động, vừa phải chống tư
tưởng giản đơn, nôn nóng. -
Ngay trong đại hội, đảng nêu rõ về đặc điểm nền kinh nước ta, từ đó đề ra kế hoạch
và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa đáp ứng các quy
định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh thủ những ưu đãi dành
cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ kinh trập trung
bao cấp sang kinh tế thị trường. -
Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh,
quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, nhằm
củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những mưu toan thông qua hội
nhập để thực hiện ý đồ ' diễn biến hoà bình' đối với nước ta. -
Đảng cũng chỉ rõ nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khuvực
và trên thế giới là một trong bốn nguy cơ và chúng ta có thể tận dụng những cơ hội mà
hội nhập kinh tế quốc tế mang lại để tránh khỏi nguy cơ này. Trong đại hội Đảng nêu rõ
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta bao gồm nhiệm vụ quan trọng cấp bách
là tăng cường mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Và đánh
giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000), Báo cáo Chính trị khẳng định
quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành
chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
c, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
Tại Đại hội X năm 2006, Đảng ta đã nhấn mạnh chủ trương “chủ động và tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Sau khi Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào tháng 1/2007, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã ban hành một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển
nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO. 18 lOMoAR cPSD| 47206521 -
Trong bối cảnh và định hướng của đại hội, quá trình Hội nhập kinh tế quốc tế giai
đoạn tới cần đặt trong bối cảnh thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011- 2020. Chú trọng
tăng cường, quán triệt nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế trong toàn Đảng, toàn dân.
Phải coi hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập kinh tế quốc tế, là sự nghiệp của toàn dân,
dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Nhân dân là chủ thể của hội nhập,
người được hưởng thành quả và cũng là người chịu tác động từ hội nhập. -
Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc tế cần gắn kết hơn nữa với quá trình đổi mới kinh
tế - xã hội trong nước để nâng cao hiệu quả và tăng cường sự thúc đẩy, hỗ trợ lẫn nhau vì
mục tiêu phát triển chung. Trên cơ sở đó, cần tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế để góp phần cải thiện đáng kể năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,
thúc đẩy tiến trình tái cấu trúc và đổi mới mô hình tăng trưởng, đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao, tạo tiền đề vững chắc
để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau. -
Đảng khẳng định, hội nhập kinh tế quốc tế cần được đặt trong mối quan hệ hài
hòavới hội nhập trong các lĩnh vực khác nhưng hội nhập kinh tế quốc tế phải là trọng tâm,
là nội dung chính, quan trọng nhất của tiến trình hội nhập. Hội nhập kinh tế quốc tế cần
đi trước một bước để tạo cơ sở, thúc đẩy hội nhập và hợp tác trong các lĩnh vực khác. Hội
nhập kinh tế quốc tế phải nhằm thúc đẩy các quan hệ hợp tác song phương, khu vực và
đa phương; tiếp tục nâng cao vị trí vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động
xây dựng các quan hệ đối tác mới thực sự mang lại lợi ích quốc gia. Kết hợp chặt chẽ Hội
nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững độc lập tự chủ, an ninh quốc phòng. -
Đảng nhấn mạnh một lần nữa, hội nhập kinh tế quốc tế là công việc của toàn
dân.Nhân dân là chủ thể của hội nhập và được hưởng thành quả từ hội nhập. Mọi cơ chế,
chính sách phải nhằm phát huy tính chủ động, tích cực, khả năng sáng tạo và phát huy
mọi nguồn lực của nhân dân, tạo ra sự đồng thuận cao trong toàn xã hội; phát huy vai trò
của đồng bào ta đang sinh sống ở nước ngoài vào công cuộc phát triển đất nước và tăng
thêm sự gắn bó của đồng bào với Tổ quốc.
d, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Đại hội lần thứ XI năm 2011 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đối
ngoại của Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, trong đó có chủ trương rất quan trọng là
“chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”. Từ “hội nhập kinh tế quốc tế” của các kỳ đại hội
trước, chuyển sang “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện là một phát triển quan trọng về
tư duy đối ngoại của Đảng ta tại Đại hội XI. Để cụ thể hóa chủ trương này, ngày 10/4/2013,
Bô Chính trị đã đưa ra các quan điểm, chủ trương về hội nhập ̣ quốc tế. Tiến trình hội nhập 19