Quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay | Tiểu luận môn học Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ ra đời trên cơ sở kế thừa những  thành tựu của văn minh nhân loại; một mặt, các ông đã phát triển tư tưởng dân chủ  đã có; mặt khác, bổ sung, phát triển những quan điểm mới phù hợp với lịch sử  đương thời. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
35 trang 2 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay | Tiểu luận môn học Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa

Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ ra đời trên cơ sở kế thừa những  thành tựu của văn minh nhân loại; một mặt, các ông đã phát triển tư tưởng dân chủ  đã có; mặt khác, bổ sung, phát triển những quan điểm mới phù hợp với lịch sử  đương thời. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

14 7 lượt tải Tải xuống
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ ra đời trên sở kế
thừa những thành tựu của văn minh nhân loại; một mặt, các ông đã phát triển
tưởng dân chủ đã có; mặt khác, bổ sung, phát triển những quan điểm mới phù
hợp với lịch sử đương thời. Dân chủ hội chủ nghĩa (XHCN) một trong
những nội dung cơ bản trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa
hội (CNXH). Mục tiêu cao nhất của dân chủ XHCN thiết lập một hội mới
tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản, thiết lập một nền dân chủ cho đông đảo
nhân dân lao động, một nền dân chủ nhân văn, tiến bộ, vì hạnh phúc con người.
Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ
giá trị khoa học, cách mạng thực tiễn to lớn, nền tảng tưởng phương
pháp luận cho công cuộc đổi mới nói chung, trong xây dựng nền dân chủ hội
chủ nghĩa nói riêng Việt Nam. Những thành tựu của công cuộc đổi mới nói
chung xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa nói riêng Việt Nam minh
chứng thực tế cho tính đúng đắn trong quan điểm của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam,
Đảng Cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh đã tiếp thu, phát triển hiện thực
hóa những nguyên tắc yêu cầu tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong xây dựng nhà nước hội chủ nghĩa. Điều đó đã được Đảng Nhà nước
cụ thể hóa trong cương lĩnh chính trị, đường lối, Hiến pháp pháp luật, đặc
biệt hệ thống tưởng dân chủ của C.Mác nói riêng Chủ nghĩa Mác
Lênin nói chung luôn được bổ sung, phát triển hoàn thiện để phù hợp với
thực tiễn sinh động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhà nước dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Với những do trên, tôi chọn “Quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa
Mác - Lênin xây dng nền dân chủhội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay”
làm chủ đề nghiên cứu của tiểu luận môn học Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
2. Giới hạn của tiểu luận
Tiểu luận “Quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin và xây dng
nền dân chủ hội chủ nghĩa việt nam hiện nay Nghiên cứu những quan
3
điểm về dân chủ thời kỳ trước C.Mác Ph.Ăngghen, thời kỳ C.Mác
Ph.Ăngghen, những nội dungbản trong quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ,
từ đó nghiên cứu những vấn đề chung về nền dân chủ hội chủ nghĩa đề
xuất phương hướng, giải pháp xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu trên sở hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về dân chủ. Khái niệm, bản chất, đă _c trưng của nền dân chủ _i
chủ nghĩa Viê _t Nam, xây dựng nền dân chủ hội chủ nghĩa việt nam hiện
nay, bên cạnh đó còn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp phân tích,
tổng hợp, lịch sử, logic, hệ thống cấu trúc, so sánh, thống kê, khảo sát xin ý
kiến chuyên gia.
4. Giá trị, ý nga của tiểu luận
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận góp phần cung cấp sở khoa học để
trên sở các quan điểm về dân chủ thời kỳ trước C.Mác Ph.Ăngghen, thời
kỳ C.Mác Ph.Ăngghen, những nội dung bản trong quan điểm của
V.I.Lênin về dân chủ, từ đó thấy được vấn đề chung về nền dân chủ hội chủ
nghĩa đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng nền dân chủ hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay, góp phần tuyên truyền, xây dựng niềm tin vào vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng nền dân chủ hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
5. Cấu trúc tiểu luận
Cấu trúc tiểu luận gồm: phần mở đầu, nội dung, kết luận danh mục tài
liệu tham khảo.
4
NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ DÂN CHỦ
1. Quan điểm về dân chủ thời kỳ trước C.Mác và Ph.Ăngghen
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của đời sống con người và cộng đồng người. Dân chủ gắn liền với tiến bộ xã
hộisự phát triển của lịch sử qua các thời đại, các chế độ xã hội khác nhau.
Trong hội cộng sản nguyên thủy, con người đã biết “cử ra phế bỏ
người đứng đầu” do quyền sức lực của người dân, nghĩa dân chủ
quyền lực thuộc về nhân dân. Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, khi bắt đầu ngôn ngữ,
chữ viết, con người đã biết cách diễn đạt nội dung dân chủ. Thuật ngữ “dân chủ”
xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ V đến IV trước Công nguyên tại Hy Lạp. Theo
tiếng Hy Lạp, dân chủ được viết , trong đó nghĩa nhânDemokratos Démos
dân nghĩa quyền lực. Theo cách diễn đạt này, dân chủ trong tiếngkratos
Hy Lạp cổ được hiểu sau này được các nhà chính trị dịchnhân dân cai trị
giản lược là hay .quyền lc của nhân dân quyền lc thuộc về nhân dân
Người Lacổ đại cũng biết đến dân chủ, khi các nhà tư tưởng chính trị
La cho rằng quyền lực chính trị xuất phát từ sự đồng thuận của dân chúng,
con người những quyền tự nhiên tất cả chính quyền đều phải tôn trọng.
Mãi đến thời kỳ phục hưng vào thế kỷ thứ XV, Châu Âu xuất hiện những nhà
tưởng lớn, việc cải cách thể chế lại được thúc đẩy. Đặc biệt, đến thời kỳ khai
sáng Châu Âu, thế kỷ thứ XVIII - XIX, những tưởng thực sự dân chủ mới
lại xuất hiện, nhất cống hiến của các triết gia người Pháp. Bước sang thời kỳ
chủ nghĩa bản, quan niệm về dân chủ với những khái niệm “nhân quyền”
“dân chủ”, “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”,... những nội dung này mới được thể
hiện trong đời sống hiện thực; đó là nền dân chủ tư sản.
2. Quan điểm về dân chủ thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen
2.1. Tư tưởng của C.Mác về dân chủ
tưởng của C.Mác về dân chủ - một mốc đặc biệt quan trọng đánh dấu
một giai đoạn mới có tính cách mạng trong nhận thức về dân chủ.
Trước hết, C.Mác đã chỉ ra bản chất của dân chủ với tính chất một chế
độ nhà nước, trong đó nhân dân giữ vai trò trung tâm. Nhân dân sở quyết
định, là lý do tồn tại của chế độ nhà nước dân chủ. Chế độ dân chủ là chế độ nhà
5
nước của nhân dân. Đồng thời, C.Mác vạch trần, phê phán những chế độ nhà
nước phi dân chủ mạo danh dân chủ đó, dân chủ chỉ như một thứ màu
che đậy bản chất bên trongchuyên chế, không đại diện cho quyền lực nào
của nhân dân. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hê-ghen” (năm 1843), C.Mác đã so sánh chỉ ra sự khác biệt về bản chất giữa
chế độ dân chủ với chế độ quân chủ. Ông cho rằng, chế độ quân chủ một chế
độ nhà nước không phản ánh các giá trị dân chủ, thậm chí còn xuyên tạc các giá
trị dân chủ, phản dân chủ. Đó cũng chính sự phê phán trực diện chế độ nhà
nước phong kiến đương thời, khi tôn giáo được coi nền tảng tinh thần của
chế độ chính trị. Đương nhiên, điều khẳng định đây là, chế độ dân chủ không
thể chấp nhận những nguyên tắc thống trị hội trên sở quyền lực của
nhân nhà vua hay quyền lực đại diện cho một thiểu số người giàu, cho được
che chở bởi bất cứ thế lực hay sức mạnh thần quyền nào, bất chấp t do
quyền lực của nhân dân. Trong chế độ quân chủ thì “nhân dân của chế độ nhà
nước”, còn trong chế độ dân chủ thì “chế độ nhà nước của nhân dân”. Đó sự
đối nghịch về bản chất. C.Mác nhấn mạnh, chế độ dân chủ xuất phát từ con
người biến nhà nước thành con người được khách thể hóa. Cũng giống như
tôn giáo không tạo ra con người con người tạo ra tôn giáo, đây cũng vậy,
không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân nhân dân tạo ra chế độ nhà
nước. Nói cách khác, chính con người, chính nhân dân chủ thể tạo ra chế độ
nhà nước dân chủ theo ý chí, nguyện vọng quyền tự do của mình, do đó,
nhà nước dân chủ chỉ biểu hiện ý chí của nhân dân, thể hiện quyền tự do của
đại đa số nhân dân.
Từ nhận thức ràng về vai trò quyết định, chi phối của nhân dân đối với
nhà nước trong chế độ dân chủ, C.Mác giải thích cụ thể hơn sự khác nhau về
quan hệ giữa con người pháp luật trong chế độ dân chủ trong các chế độ
khác (phi dân chủ), rằng: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại
luật pháp, luật pháp tồn tại con người..., trong khi đó thì dưới những hình
thức khác của chế độ nhà nước, con người lại tồn tại được quy định bởi luật
pháp”[2]. thể nói, trong tưởng của C.Mác về dân chủ, nhân dân hòn đá
6
thử vàng, tiêu chí quyết định tính chất dân chủ của chế độ nhà nước. Do đó,
“... chế độ nhà nước, một khi không còn biểu hiện thật sự của ý chí của nhân
dân nữa thì trở thành một cái hữu danh vô thực”[3].
Thứ hai, trong tưởng của C.Mác về dân chủ, sự tham gia chính trị của
nhân dân là yếu tố cốt lõi, quyết định đối với vai trò làm chủ của nhân dân trong
chế độ nhà ớc dân chủ. Sự tham gia chính trị của nhân dân không chỉ nằm
trong chức năng của đại biểu hay đại diện mà còn là ở quyền bầu cử chính trị. Vì
thế, bầu cử liên quan trực tiếp đến mối quan hệ giữa hội công dân với chế độ
chính trị, với tính chất của chế độ nhà nước dân chủ.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen”,
C.Mác nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt của bầu cử chính trị - một dạng bản
của hình thức dân chủ trực tiếp. Ông cho rằng, “Bầu cử quan hệ thực sự của
hội công dân thực sự, vớihội công dân của quyền lập pháp, với yếu tố đại
biểu. Nói cách khác, bầu cử quan hệ trực tiếp, thẳng, không phải chỉ tính
chất đại biểu, đang thực tế tồn tại, của hội công dân với nhà nước chính
trị. vậy, hiển nhiên bầu cử cấu thành lợi ích chính trị quan trọng nhất của
hội công dân thực sự”[4]. Như vậy, khi quyền bầu cử chính trị được thực thi
đầy đủ thì cả người dân đi bầu đại diện được bầu ra đều thể hiện thực chất
nguyên tắc dân chủ chân chính. Kết quả ấy cũng đồng thời xóa đi sự đối lập giữa
“tồn tại công dân” với “tồn tại chính trị”, làm cho hai mặt đó trở nên thống nhất
trong một chế độ dân chủ, chế độ thể chế chính trị của nhân dân, do nhân
dân quyết định và phục vụ cho lợi ích, cho quyền của nhân dân.
Thứ ba, C.Mác giải thích về dân chủ dựa trên sở quy luật vận động,
phát triển của hội, trong đó kinh tế một yếu tố quan trọng. Đây quan
điểm nhất quán, xuất phát từ lập trường duy vật lịch sử, theo C.Mác, dân chủ
luôn gắn liền với sự vận động, phát triển của lịch sử loài người, sản phẩm
phản ánh tính chất các mối quan hệ hội của con người quan trọng nhất
mối quan hệ về kinh tế.
C.Mác cho rằng, nền n chủ sản ch nền dân chủ dành cho thiểu s
bóc lột, tức giai cấp sản dựa trên sự tước đoạt tự do của công nhân nhân
7
dân lao động. Những chiêu bài, như “sản phẩm lao động toàn vẹn”, “nhà nước tự
do”, “vai trò ch mạng duy nhất của giai cấp sản”,... chỉ “một mớ” những
lý luận bao che cho chế độ nhà nước bóc lột của giai cấp tư sản. Một nền dân chủ
chân chính phải nền dân chủ của đa số nhân dân lao động, do đa số nhân dân
làm chủ quyền lực trong hội. u cầu ấy không th thực hiện được trong
hội tư bản chủ nghĩa. Vấn đề mấu chốt ở đây là chỉ khi o có một xã hội mới ra
đời, lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ hội a cao cùng với một quan
hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho sự phát triển kinh tế - xã hội và giải phóng con
người khỏi bóc lột mới thể mang lại một nền dân chủ chân chính thực sự.
hội mới ấy hội cộng sản chủ nghĩa, như C.Mác Ph.Ăng-ghen viết trong
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức(năm 1845): “Trong khuôn khổ của xã hội cộng sản
chủ nghĩa, cái xã hội duy nhất mà trong đó sự phát triển độc đáo và tự do của các
cá nhân không còn là lời nói suông - sự phát triển ấy chính là do mối liên hệ giữa
những cá nhân quyết định, mối liên hệ được biểu hiện một phần trong những tiền
đề kinh tế, một phần trong sự cố kết tất yếu của sự phát triển tự do của tất cả mọi
người, cuối ng trong tính chất phổ biến của hoạt động của các nhân trên
s lực lượng sản xuất hiện có” [5]. hội ấy cũng chính là: “... một liên hợp,
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của
tất cả mọi người”[6], như C.MácPh.Ăng-ghen đã viết trong tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848).
Thứ tư, trong tưởng về dân chủ, C.Mác kế thừa chọn lọc những hạt
nhân hợp lý và những giá trị nhân văntrong quan niệm về dân chủ của nhiều nhà
triết học trước đó, nhất A-ri-xtốt Hê-ghen. Mặc phê phán những quan
niệm sai lầm của Hê-ghen về chế độ nhà nước quân chủ chuyên chế, trong đó
quyền của nhà vua “dựa trên quyền uy thần linh”, về nh tất yếu của đẳng cấp
hội, về sự thần hóa coi quy luật giá trị của hội sản “ánh hào
quang của tính”..., C.Mác lại đánh giá cao kế thừa từ Hê-ghen nhiều
tưởng quan trọng, trong đó có những tư tưởng về dân chủ. Đặc biệt, C.Mác đồng
tình với tưởng của Hê-ghen về sự công bằng trong hội công dân, đánh giá
cao việc Hê-ghen đưa ra sở triết học cho việc xây dựng ban hành các bộ
8
luật, cho quyền công bằng của nhân dân trước pháp luật và cho việc xét xử, cũng
như thực thi các bản án. Trong đó, nhất là tư tưởng của Hê-ghen trong việc kiên
quyết loại bỏ những biểu hiện tiêu cực gây khổ sở cho nhân dân do sự chuyên
quyền những hoạt động bất hợp pháp của nhân ra khỏi các hoạt động của
toàn bộ hệ thống nhà nước.
Nghiên cứu tưởng của C.Mác về dân chủ, thể thấy vấn đề cốt lõi,
trung tâm tự do và vai trò quyền lực của nhân dân. Điều ấy cũng chứa đựng ý
nghĩa nhân văn cao cả khi hướng dân chủ tới mục đích tự do, công bằng và hạnh
phúc cho nhân dân. Ẩn chứa trong tưởng ấy, thể nhận ra ba trụ cột bản
của nền dân chủ theo quan niệm của A-ri-xtốt, đó là tự do, công lý và chủ quyền
của nhân dân.
2.2. Quan điểm của Ph.Ăngghen về dân chủ
Một trong những cống hiến đại của Ph.Ăngghen về luận tưởng
về nguồn gốc nhà nước, bản chất dân chủ, về tiếp cận dân chủ từ góc độ một
hình thức nhà nước. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhiệm
vụ của cách mạng vô sản là sau khi dành được chính quyền, phải biết sử dụng có
hiệu quả quyền lực nhà nước để xây dựng một thiết chế kinh tế, chính trị -
hội mới, ở đó nhân dân lao động từng bước trở thành người chủ của xã hội, đó là
chủ thể tối cao, duy nhất của mọi quyền lực. Mác Ăngghen khẳng định: Giai
cấp sản sau khi giảnh được chính quyền cần: “Tạo ra một chế độ dân chủ
nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền lực thống trị chính trị của giai cấp
vô sản” [10].
Theo Ăngghen, bản chất của dân chủ với tính chất một chế độ nhà
nước, trong đó nhân dân giữ vai trò trung tâm; nhân dân sở quyết định,
do tồn tại của chế độ nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ chế độ nhà nước
của nhân dân.
Ăngghen đánh giá cao sự phát triển của dân chủ từ thấp đến cao, từ dân
chủ chủ nô đến dân chủ sản, sau này đến dân chủ sản (Dân chủhội chủ
nghĩa). Mặc đánh giá cao những giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa
bản đương thời, đó cũng kết quả của quá trình đấu tranh của giai cấp công
9
nhân nhân dân lao động, Ph.Ăngghen cũng khẳng định những mặt trái, hạn
chế của dân chủ sản. Ph.Ăngghen viết: “Chế độ dân chủ, giống như bất kỳ
chính thể nào khác, rốt cuộc cũng sự mâu thuẫn ngay trong bản thân, cũng
sự dối trá, chẳng qua cũng chỉ sự giả dối…Tự do chính trị tự do giả,
chế độ lệ tồi tệ nhất; chỉ vẻ bề ngoài của tự do, thế, chế độ
lệ. Bình đẳng chính trị cũng như vậy, thế chế độ dân chủ cũng như bất kỳ
hình thức quản nào khác, cuối cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại
lâu dài, mâu thuẫn che đậy trong đó tất yếu sẽ bộc lộ ra; hoặc chế độ lệ
thực sự tức chế độ chuyên chế không che đậy; hoặc tự do thực sự bình
đẳng thực sự tức là chủ nghĩa cộng sản” [7].
Như vậy, việc phân tích của Ăngghen về tính chất tạm thời, tính chất nhất
định sẽ bị vượt qua của dân chủ sản đã dẫn đến tưởng về tính tất yếu của
cách mạng sản như một bước hội loài người nhất định phải trải qua
để đi đến một hội dân chủ thực sự. Theo Ph.Ăngghen, bản chất giai cấp của
dân chủ sản dân chủ đối với thiểu số bóc lột và chuyên chính đối với đa số
nhân dân lao động, đó dân chủ giả dối của bản chất lệ, dân chủ thực sự, tự
do bình đẳng thực sự chỉ thể đạt được dưới chủ nghĩa cộng sản. Ph.Ăngghen
cho rằng, hội hội chủ nghĩa Cộng sản chủ nghĩa sẽ tạo ra những điều
kiện cần thiết để thực hiện trên thực tế nguyên tắc: “Sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [11].
Theo Ph.Ăngghen trong giai đoạn thứ nhất của cách mạng hội chủ
nghĩa, giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị, phải “giành lấy dân chủ”.
Người khẳng định chỉ có giành được chính quyền nhà nước, giai cấp vô sản mới
xây dựng phát huy được nền dân chủ hội chủ nghĩa, mới hoàn thành được
sứ mệnh lịch sử là đưa nhân dân, trước hết là nhân dân lao động trở thành người
chủ của xã hội, là chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực.
Trong tưởng của Ph.Ăngghen về dân chủ, sự tham gia chính trị của
nhân dân là yếu tố cốt lõi, quyết định đối với vai trò làm chủ của nhân dân trong
chế độ nhà nước dân chủ. Do đó “Chế độ nhà nước, một khi không còn biểu
hiện thật sự ý chí của nhân dân nữa thì trở thành một cái hữu danh vô thực” [8].
10
Dựa trên lý luận về hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
coi sự phát triển của hội loài người một quá trình lịch sử tự nhiên,
Ph.Ăngghen giải thích, dân chủ dựa trên quy luật vận động phát triển của hội
loài người, trong đó kinh tế một yếu tố quan trọng. Dân chủ luôn gắn liền với
sự phát triển của lịch sử loài người, sản phẩm phản ánh các mối quan hệ
của con người mà quan trọng nhất là quan hệ về kinh tế.
Ph.Ăngghen cho rằng, nền dân chủ sản chỉ nền dân chủ giành cho
thiểu số bóc lột, tức là giai cấp tư sản dựa trên sự tước đoạt tự do của công nhân
nhân dân lao động. Với những tên gọi, chiêu bài như: “Nhà nước phúc lợi
chung”, “nhà nước tự do”, “sản phẩm lao động toàn vẹn”…đã che đậy bản chất
bóc lột của giai cấp sản, nhằm biện hộ cho giai cấp sản, những mâu thuẫn
ngày càng gay gắt giữa tính chất hội hóa của sản xuất quan hệ nhân
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này làm cho các cuộc khủng hoảng
về kinh tế xã hội của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc. Một nền dân chủ chân
chính phải nền dân chủ của đa số nhân dân lao động, do đa số nhân dân lao
động làm chủ quyền lực trong hội. hội mới ấy hội cộng sản chủ
nghĩa, đúng như C.Mác Ph.Ăngghen viết trong tác phẩm Hệ tưởng Đức
(1845): “Trong khuôn khổ của hội cộng sản chủ nghĩa, cái hội duy nhất
trong đó sự phát triển độc đáo tự do của các nhân không còn lời nói
suông – Sự phát triển ấy chínhdo mối liên hệ giữa những cá nhân quyết định,
mối liên hệ được biểu hiện một phần trong những tiền đề kinh tế, một phần
trong sự cố kết tất yếu của sự phát triển tự do của mọi người, và cuối cùng trong
tính chất phổ biến của hoạt động của các nhân, trên sở lực lượng sản xuất
hiện có”[9]. hội ấy chính là: “Một liên hợp trong đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tdo của tất cả mọi người” như C.Mác
và Ph.Ăngghen đã viết trong tuyên ngôn Đảng cộng sản năm 1848 [12].
Nghiên cứu tưởng của Ph.Ăngghen về dân chủ, thể thấy vấn đề cốt
lõi trung tâm tự do coi trọng quyền lực của nhân dân. Điều ấy cũng chứa
đựng ý nghĩa nhân văn cao cả khi hướng dân chủ tới mục đích tự do, công bằng
và hạnh phúc cho nhân dân.
11
Ph.Ăngghen đã phân tích sự xuất hiện của nhà nước, đó sản phẩm của
đấu tranh giai cấp, về bản chất nhà nước quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị về mặt kinh tế nhằm duy trì trật txã hội hiện hành, bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp tầng lớp hội
khác. Điều này theo quy luật lịch sử, giai cấp nắm chính quyền nhà nước phải
giai cấp thống trị về mặt kinh tế, do đó cũng là giai cấp được xã hội thừa nhận
đại biểu chung của xã hội. Trong thời cổ đại, đó là giai cấp chủ nô, thời trung cổ
giai cấp quý tộc phong kiến; trong chủ nghĩa bản đó giai cấp sản
ngày nay, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là giai cấp vô sản. Lịch sử cho thấy, giai
cấp nắm chính quyền nhà nước thực hiện sự thống trị chính trị dưới các hình
thức nhà nước khác nhau. Mỗi kiểu nhà nước tồn tại dưới hình thức nào tùy
thuộc những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa trongngoài nước, tùy thuộc
vào tương quan so sánh lực lượng của các giai cấp trong xã hội. Do vậy, nền dân
chủ các hội chế độ chiếm hữu nhân về liệu sản xuất, cũng có bước
tiến lớn từ chế độ nô lệ đến chế độ phong kiến và nhất là dưới chủ nghĩa tư bản.
Dưới chủ nghĩa tư bản, hình thức nhà nước phổ biến chế độ cộng hòa
dân chủ sản (Cộng hòa tổng thống, cộng hòa nghị viện, cộng hòa hỗn hợp).
Nhà nước tồn tại dưới hình thức này thừa nhận quyền dân chủ của mọi công
dân, tuyên bố quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân cũng như V.I.Lênin đã
nhận xét: Chế độ cộng hòa tư sản “Xét về phương diện phát triển của xã hội trên
toàn thế giới, đều là một bước tiến rất lớn” [35].
Song, khi nhà nướcn tồn tại trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về liệu sản xuất thì quyền lợi thực sự vẫn thuộc về giai cấp sản.
Do vậy, vạch trần bản chất dân chủ dưới chủ nghĩa bản, Ph.Ăngghen khẳng
định: “Người ta tưởng tượng là đã tiến được một bước táo bạo phi thường, nếu h
tự giải thoát khỏi ng tôn ng chế độ quân chủ trở thành những người theo
chế độ cộng hòa dân chủ. Nhưng thực ra, nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy
của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác; điều đó, trong chế độ
cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ” [1].
12
c nhà kinh điển của chủ nga Mác - Phngghen hiểu khái niệmn ch
trước hết với tính ch một khái niệm chính trị, ng để chỉ chế độ n nước.
Ph.Ăngghen không thừa nhận chế độ thị tộc là một thể chế dân chủ đó
chưa phải một chế độ chính trị. Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao giờ
được nêu thành công thức, nhưng vẫn những nguyên tắc bản của thị tộc”.
Ông gọi đây là nền “Dân chủ quân sự”.
Theo C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ có nền dân chủ mới, n chủ vô sản, mới
làm cho nhân n lao động thực sự làm ch hội làm chủ vận mệnh của
mình, kiểu mẫu của dân chủ sản chính Công Pari, một hình thức tổ
chức nhà nước do những người cộng sản nh đạo - một nhà ớc của n, do
dân và vì dân.
Tuy không phải những người đầu tiên bàn về dân chủ nêu lên ước
vọng về một hội dân chủ nhưng C.Mác Ph. Ăngghen, lần đầu tiên chỉ ra
bản chất giai cấp của dân chủ, làm rõ những đóng góp và hạn chế của dân chủ
sản, từ đó tìm ra con đường để xây dựng một nền dân chủ mới - dân chủ vô sản.
3. Những nội dung cơ bản trong quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ
3.1. Dân chủ và chế độ dân chủ
Trong Mười đề cương về chính quyền Xô viết, V.I.Lênin coi dân chủ là tự
do. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Dân chủ tự do, bình đẳng, quyết định của đa
số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa”.
Phát triển tư tưởng của C.Mác Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nhiều lần khẳng
định rằng “chế độ dân chủ” một hình thức nhà nước, một trong những hình
thái của nhà nước. Chế độ dân chủ cũng nhà nước, do đó nhà nước mất đi
thì chế độ dân chủ cũng mất theo.
Những giá trị dân chủ, theo V.I. Lênin, cần được giai cấp công nhân vận
dụng để thực hiện sứ mệnh của mình, trước hết để xây dựng một chính
đảng của giai cấp công nhân.
3.2. Bản chất giai cấp của vấn đề dân chủ
Dân chủ một phạm trù lịch sử mang tính giai cấp khi hội xuất hiện
giai cấp quan hệ giai cấp. Dân chủ luôn mang tính giai cấp chịu sự chi
13
phối của giai cấp cầm quyền. Về thực chất, dân chủ với tư cách là quyền lực của
nhân dân thì các thành quả của dân chủ sự phản ánh những giá trị nhân văn
trong quá trình giải phóng con người. Theo V.I.Lênin, chế độ dân chủ được coi
như một hình thức nhà nước đã mang bản chất giai cấp, thế không thể tách
rời vấn đề nhà nước với vấn đề giai cấp. Dân chủ với tư cách là chế độ nhà nước
gắn trực tiếp với một giai cấp cầm quyền nhất định dựa trên một quan hệ sản
xuất thống trị thì dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp, không bao giờ có thứ
dân chủ thuần túy cho mọi giai cấp. nh giai cấp của dân chủ được phản ánh
trong các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề đặt ra
dân chủ cho giai cấp nào, tầng lớp nào, hạn chế dân chủ chuyên chính với ai.
Mỗi giai cấp giải thích về dân chủ, cả về phương diện thuyết thực tế với
các cách thức mức độ khác nhau, tuỳ lập trường, quan điểm lợi ích của
giai cấp mình.
3.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
V.I. Lênin trình đã trình bày nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ
như sau:
Tổ chức sở đảng trở thành hạt nhân tổ chức bản của Đảng, Tất cả
các quan cấp trên đều thực sự được bầu ra, trách nhiệm báo cáo công tác
thể bị bãi miễn. Tổ chức đảng tổ chức của những công nhân dân chủ -
hội giác ngộ sinh hoạt độc lập. Phải thực hiện bằng được chế độ tự trị của
mọi tổ chức đảng; Cần xóa bỏ và xóa bỏ bằng được sự tranh giành địa bàn, sự lo
sợ “phái” khác; Thống nhất về tổ chức, đồng thời sự đấu tranh thuần túy về
tưởng giữa các trào lưu tưởng dân chủ - hội khác nhau trong nội bộ các
tổ chức đảng; Xác định rệt nguyên nhân tranh 10 luận giữa các trào lưu
tưởng trong đảng điều kiện cần thiết để phát triển đảng một cách lành mạnh,
để giáo dục giai cấp công nhân tránh được sự sai lầm về đường lối. …Thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, theo V.I.Lênin, trong Đảng cần phải thực
hiện kỷ luật chặt chẽ, thống nhất; thực hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số,
cấp dưới phục tùng cấp trên; tổ chức các cấp toàn thể đảng viên của Đảng
14
phải chấp hành nghị quyết đại hội đại biểu của Đảng, phục tùng sự lãnh đạo của
Ban Chấp hành Trung ương.
Như vậy, thể nói, trong quan niệm của V.I.Lênin, nguyên tắc tập trung
dân chủ không chỉ phương pháp tác phong công tác của chính đảng vô sản
cầm quyền, mà trước hết và trên hết, nó chính là chế độ tổ chức và nguyên tắc tổ
chức của đảng.
3.4. Sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội
V.I.Lênin đã phân tích, làm rõ quan điểm về sự thống nhất biện chứng
giữa dân chủ chủ nghĩa hội. V.I.Lênin nói: “Không chế độ dân chủ thì
chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai nghĩa sau đây:
Thứ nhất: giai cấp sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng
hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua
cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ.
Thứ hai: chủ nghĩa hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của
mình sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không
thực hiện được đầy đủ chế độ dân chủ.”
V.I.Lênin đòi hỏi những người cộng sản phải phân biệt sự khác nhau về
nguyên tắc giữa hai giai đoạn đấu tranh dân chủ chủ nghĩa hội, mặc
giữa chúng sự giao kết với nhau. Theo Lênin, giai cấp sản không thể đạt
tới mục tiêu chủ nghĩa hội nếu không thực hiện hoàn toàn triệt để chế độ
dân chủ, nếu không đem những yêu sách dân chủ được đề ra một cách kiên
quyết nhất gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh cách mạng.
tưởng về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin di sản giá cho các
Đảng Cộng sản trong quá trình xây dựng tổ chức Đảng, xây dựng nền dân chủ
vô sảnxây dựng chủ nghĩahội. Các chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề dân chủ là thế giới quan và phương pháp luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủsở ở nước ta hiện nay. Từ
sự phân ch các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ nêu trên,
chúng ta thấy rằng dân chủ xã hội chủ nghĩa là bước phát triển cao nhất trong sự
phát triển của dân chủ, là thành quả của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và
15
xây dựng hội chủ nghĩa, đó có sự kết tinh toàn bộ những giá trị dân chủ đã
đạt được trong lịch sử làm cho dân chủ trở thành một giá trị phổ biến thâm nhập
vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1. Khái niện, bản chất, đă
]
c trưng của nền dân chủ
]
i chủ nghĩa
Viê
]
t Nam
1.1. Khái niê
]
m nền dân chủ
Trong các nghiên cứu khoa học nước ta về vấn đề dân chủ, nền dân chủ
hay chế độ dân chủ hai khái niệm khác nhau cùng bản chất, tuỳ theo từng
trường hợp cụ thể có thể sử dụng thay thế cho phù hợp.
Khái niệm chế độ dân chủ dùng để chỉ thiết chế hội nhằm thực hiện
quyền lực của nhân dân; còn phản ánh trạng thái dân chủkhái niệm nền dân chủ
trong tính chỉnh thể với hệ thống các thiết chế dân chủ được xác lập thực thi
trong hiện thực t kinh tế, chính trị, văn hóa, hội theo mục tiêu thực hiện
quyền lực bảo đảm lợi ích của giai cấp cầm quyền. Theo đó, nền dân chủ
khái niệm phản ánh chỉnh thể hội được tổ chức, vận hành theo các nguyên
tắc, yêu cầu chuẩn mc dân chủ nhằm thc thi quyền lc, bảo đảm lợi ích
của giai cấp cầm quyền và xã hô
@
i.
Với cách một hội hoàn chỉnh, nền dân chủ một phạmchỉnh thể
trù lịch sử, nó có sự ra đời, tồn tại và phát triển trong một giai đoạn nhất định
sẽ mất đi khi trong hội không còn giai cấp. Tính lịch sử của nền dân chủ
còn thể hiện qua quá trình hình thành, phát triển, vận động từ chỗ chưa dân
chủ đến dân chủ, đến tồn tại, phát triển tiêu vong. Chủ nghĩa Mác - Lênin
nêu quá trình phát triển của dân chủ “từ chuyên chế đến dân chủ sản, từ
dân chủ sản đến dân chủ sản, từ dân chủ sản đến không còn dân chủ
chủ nữa” [36]. Do vậy, hình thức của các nền dân chủ đa dạng, chính thể
của mỗi quốc gia không chỉ chịu sự chi phối của thể chế chính trị còn chịu
sự kiềm chế của các điều kiện thực tế của các chính thể khác nhau. Không
16
mô hình dân chủ và chế độ chính trị chung cho mọi quốc gia, dân tộc.
Xét về cấu trúc, được cấu thành bởi nhiều yếu tố, bộ phận, cảnền dân chủ
khía cạnh vật chất, tinh thần, yếu tố kinh tế, chính trị, hội, văn hóa, pháp luật
dân chủ; yếu tố thể chế thiết chế dân chủ; chế, nguyên tắc các giá trị,
chuẩn mực dân chủ... Trong hội giai cấp, nền dân chủ một chỉnh thể
hiện thc trong đó chế độ chính trị, nhà nước, pháp luật dân chủ; sự làm chủ
chi phối giá trị dân chủ của giai cấp thống trị; sự đấu tranh, vươn lên không
ngừng của nhân dân lao động chống lại các biểu hiện phản tiến bộ, phi dân chủ;
sự tồn tại, hoạt động tự chủ, tự quản của các tổ chức chính trị - hội; sự hiện
hữu của các nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực dân chủ phản ánh trạng thái, mức độ
giải phóng con người.
Về bản chất, nền dân chủ được hiểu một chỉnh thể hội trong đó các
giá trị, chuẩn mực, yêu cầu, các nguyên tắc dân chủ được ghi nhận thực thi
trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
Trên nh vc chính trị, bảo đảm các nguyên tắc: tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân, mọi quyền lực mà nhà nướcđều do nhân dân ủy quyền; bầu cử
tự do, ng bằng; hạn chế quyền năng của nhà nước bằng hiến pháp; dân chủ
gắn với pháp luật, được bảo đảm bằng nhà nước pháp quyền; nhà ớc mọi
hoạt động của nhà nước phải đặt ới sự kiểm soát của nhân dân c tổ
chức đại diện; bảo đảm quyền tham gia vào công việc nhà ớc, hội của
người dân; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không hình thành các
thiết chế tổ chức m nguy hại tới lợi ích của nhân dân, cản trở sự phát triển
lành mạnh của đất nước...
Trênnh vc kinh tế,y dựng hn thiện thể chế kinh tế, đặt nền kinh tế
ới sự kiểm st của nn dân, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân
n; chế kinh tế trong đó, mọi người được làm tất cả những pháp luật
không cấm, người lao động việc làm hữu ích, được tham gia o s hữu, quản
ới những hình thức khác nhau và được thhưởng tnh quả lao động xứng đáng;
kết hợp kế hoạch của nhà nước với pt huy mọi tiềm năng kinh tế của người dân,
bảo đảm quyền tchủ,m chcủa doanh nghiệp và người lao động.
17
Trên lĩnh vc hội, thiểu số phục tùng đa số nhưng tôn trọng quyền của
thiểu số; thống nhất trong tính đa dạng các khuynh hướng hội, bảo đảm
quyền được bảo vệ về mặt xã hội của mọi công dân; khắc phục sự khác biệt giữa
các tầng lớp hội, giữa các vùng miền của đất nước; quyền công dân, quyền
con người được bảo đảm bằng pháp lý và được thực thi trên thực tế...
Trên lĩnh vc văn hóa, bảo đảm quyền t do ngôn luận, báo chí, tự do
suy nghĩ, tự do ởng trong hoạt động khoa học, sáng tạo nghệ thuật đời
sống tinh thần nói chung trên sở đường lối chính tr chủ đạo pháp luật
của n nước; hòa giải, hợp tác, khoan dung, đối thoại trong giải quyết các
mâu thuẫn, xung đột hội... dân chủ trong các quan hệ hội, trong ứng xử,
lối sống giữa con người với con người, dân chủ trong mọi thiết chế xã hội, từ
gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị, hội, dân sự, nghề nghiệp... ngày
một sâu sắc và phổ quát...
1.2. Bản chất nền dân chủ xã hô
]
i chủ nghĩa ở Viê
]
t Nam
Nền dân chủ
_
i chủ nghĩa Viê
_
t Nam nền dân ch mang bản chất
giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại.
Bản chất giai cấp công nhân của nền dân chủ
_
i chủ nghĩa Việt
Nam được thể hiện trong mọi lĩnh vực từ chính trị, tưởng, kinh tế, hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng và thực hiện pháp luật đến tổ chức cán
bộ đều phải thể hiện sâu sắc tưởng, quan điểm của giai cấp công nhân. Nền
dân chủ
_
i chủ nghĩa Việt Nam lấy liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đô
_
i ngũ trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhằm
phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động của cả dân tộc;
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân chuyên chính với những hành vi xâm
phạm lợi ích của nhân dân, vi phạm an ninh Tổ quốc. Đây chính là bản chất cốt
lõi nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Viê
_
t Nam.
Tính nhân dân rộng rãi của nền dân chủ
_
i chủ nghĩa nước ta được
thể hiện: Nước cộng hòa
_
i chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ. Mọi
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền hành của bộ máy nhà nước là
của nhân dân giao cho. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân
18
dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; từ nguồn gốc, bản chất, mục đích
tồn tại cũng như sức mạnh của Nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân. Nhà nước
do dân lập nên, do dân bầu ra, dân giám sát bãi miễn. Sức mạnh của Nhà
nước của nền dân chủ
_
i chủ nghĩa Việt Nam khối đại đoàn kết toàn
dân, lấy liên minh công nhân, nông dân trí thức làm nền tảng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: Nước ta nước quyền hành lực lượngdân chủ, mọi
đều ở nơi dân. Dân là chủ và dân làm chủ [34]. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 của
Nhà nước ta hiến định: “Nước Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân nền tảng liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [33] .
Tính dân tộc sâu sắc của nền dân chủ xã hô
_
i chủ nghĩa ở nước ta thể hiện:
Nhà nước và nền dân chủ xã hô
_
i chủ nghĩa ở Việt Nam là kết quả đấu tranh cách
mạng lâu dài, gian khổ của dân tộc Việt Nam do Đảng lãnh đạo; nhân dân các
dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển. Nền tảng của nền dân
chủ hội chủ nghĩa sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Kế thừa, phát huy những truyền thống, bản sắc tốt đẹp của dân tộccon người
Việt Nam về văn hóa, đạo đức, tinh thần, những kinh nghiệm tổ chức cộng đồng
và quản lý xã hội của cha ông để lại.
nh nhân loại của nền dân chủ xã hô
_
i chủ nghĩa nước ta thể h
_
n chỗ:
kế thừa, tiếp thu chọn lọc những giá trị dân chủ của nhân loại, nhất kinh
nghiệm, những giá trị dân chủ tiến bộ mà loài người đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa; kinh tế thị trường định hướng
_
i chủ nghĩa Nhà nước pháp
quyền xã hô
_
i chủ nghĩa với việc bảo đảm quyền công dân, quyền con người là sự
kết tinh sâu sắc, nét những giá trị dân ch của nhân loại trong nền dân chủ
_
i chủ nghĩa ở Việt Nam phù hợp với điều kiện mới của đất nước và thời đại.
Bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc tính nhân loại của
nền dân chủ
_
i chủ nghĩa Việt Nam quan hệ gắn thống nhất hữu
với nhau. của mối quan sở kinh tế - chính trị
_
này đó là sự thống nhất về
lợi ích bản của giai cấp công nhân, của các tầng lớp nhân dân của cả dân
tộc trong hệ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
19
sở tưởng chính trị của sự thống nhất ấy chính chủ nghĩa Mác - Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh với tính cách sở luận, nền tảng tưởng của công
cuộc xây dựng và phát triển nền dân chủ
_
i chủ nghĩa Việt Nam trong bối
cảnh đổi mới. vững chắc cho sự thống nhất đó bản HiếnBảo đảm pháp
pháp năm 2013. Đây là bản Hiến pháp thể hiện sâu sắc mối quan hệ hữu cơ giữa
bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc tính nhân loại của
nền dân chủ xã hô
_
i chủ nghĩa trong điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam.
1.3. Đă
]
c trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa mang đầy đủ các đă
_
c trưng
của nền dân ch hội chủ nghĩa nói chung, vừa những đă
_
c trưng riêng, đă
_
c
thù của dân chủ Viê
_
t Nam, thể hiê
_
n trên các các lĩnh vực của đời sống hội
từ kinh tế, chính trị, văn hóa, hội, từ các mối quan hệ giữa con người với con
người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với nhà nước, với
tổ chức và thể chế hiện hành.
Chủ thể quyền lc: Thuộc về nhân dân, trước hết nhân dân lao động.
Đây đặc trưng cốt lõi của nền dân chủ hội chủ nghĩa nói chung, nền dân
chủ hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Nhân dân chủ thể chân chính của
hội, quyền lực đó được thực hiện thông qua thiết chế chính trị, trong đó Nhà
nước với vai trò “trụ cột” trong bảo quyền lực lợi ích của nhân dân. Đảng
ta khẳng định: “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ
đại diện”
[21].
Nền dân chủ hội chủ nghĩa Việt Nam s gắn kết chặt chẽ giữa
quyền lợi nghĩa vụ, quyền hạn trách nhiệm, cống hiến hưởng thụ của
mọi công dân. Đặc trưng này phản ánh tính công bằng nguyên tắc phân phối
theo lao động trong chế độ hội hội chủ nghĩa nước ta đang xây dựng, từ
đó nâng cao ý thức của người dân trước vận mệnh của đất nước.
Dân chủ đi đôi với chuyên chính, dân chủ gắn với pháp luật, kỷ luật, kỷ
cương hội. Dân chủ hội chủ nghĩa một chế độ chính trị; bảo đảm
quyền làm chủ của đại đa số nhân dân, đồng thời chuyên chính với thiểu số
20
hành động trái ngược với lợi ích của hội, của nhân dân. Hiểu chuyên chính ở
đây, không chỉ chuyên chính với các thế lực thù địch, còn chuyên chính
mạnh mẽ với các bộ phận, phần tử chống lại chế độ, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Thực hiện chuyên chính, kỷ luật, kỷ cương
bảo đảm cho dân chủ được thực hiện tốt hơn giữ vững. Bởi vì: trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa hội nước ta, chưa thể bình đẳng hoàn toàn, đó
sự bình đẳng về chính trị của mọi công dân trước pháp luật bất bình đẳng
với bọn bóc lột và ăn bám...
Nền dân chủ hội chủ nghĩa nước ta có s kế thừa, phát triển các giá
trị dân chủ truyền thống, văn hóa dân tộc và nhân loại. Nền dân chủ hội chủ
nghĩa phủ định biện chứng dân chủsản; tiếp thu và kế thừa, phát triển các giá
trị tinh hoa dân chủ, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Kế thừa chọn lọc những giá trị dân chủ truyền thống dân tộc. Những
giá trị dân chủ thời phong kiến được kế thừa như: Nhà Trần mở “Hội nghị Diên
hồng” bàn cách đánh giặc, với ý chí “Sát thát”. tưởng: “Vua tôi đồng lòng,
cả nước giúp sức”, “khoan thư sức dân làm kế sâu dễ, bền gốc, đó thượng
sách giữ nước”. Quan điểm: “Chiến tranh toàn dân” của Nguyễn Trãi: “Đại quân
tiến đánh, nhân dân làm kế thanh dã”. Đến “Chiến tranh toàn dân, toàn diện, dựa
vào sức mình chính” (Đường lối kháng chiến, kiến quốc trong thời kỳ chống
Pháp); Đến “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
nền dân chủ ngày càng mở rộng, phát huy, hoàn thiện tiến tới t
tiêu vong. Bởi vì, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tồn tại khi còn giai cấp, còn Nhà
nước. Nhưng khi hội tiến đến chủ nghĩa cộng sản, thì không còn giai cấp,
Nhà nước, đảng phái...nó sẽ tiêu vong đi. V.I.Lênin khẳng định: “Trong hội
cộng sản, chế độ dân chủ được cải biến thành tập quán, sẽ tiêu vong đi,
nhưng sẽ không bao giờ một chế độ dân chủ thuần túy cả”. hội lúc đó,
một hội: “Sự phát triển tự do của mỗi người điều kiện cho sự phát triển t
do của tất cả mọi người”.
21
Như vậy, quá trình hình thành, phát triển nền dân chủ hội chủ nghĩa
Viê
_
t Nam đã thể hiện bản chất cách mạng tính ưu việt của chế độ hội chủ
nghĩa. Các đặc trưng của nền dân chủ hội chủ nghĩa nước ta một thể
thống nhất quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa hội, các đặc trưng trên chưa thể hiện đầy đủ; phải tiếp tục xây
dựng, bổ sung hoàn thiện. Đó một quá trình đấu tranh giai cấp gay go,
quyết liệt, phức tạp, lâu dài.
2. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay
2.1 Quá trình hình thành, phát triển của nền dân chủ hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Chế độ dân chủ nhân dân được xác lập sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945. Đến năm 1976, tênớc được đổi thành Cộng hòa hội chủ nghĩa Việt
Nam, nhưng trong các Văn kiện Đảng hầu như chưa sử dụng cụm từ “dân chủ
xã hội chủ nghĩa”. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta thường nêu
quan điểm “xây dựng chế độ làm chủ tập thể hội chủ nghĩa gắn với “nắm
vững chuyên chính sản”; trên thực tế, chưa coi dân chủ hội chủ nghĩa
mục tiêu của công cuộc phát triển đất nước. Bản chất của dân chủ hội chủ
nghĩa, mối quan hệ giữa dân chủ hội chủ nghĩa Nhà nước pháp quyền
hội chủ nghĩa, cũng chưa được xác định ràng. Việc xây dựng nền dân chủ
hội chủ nghĩa, đặc biệt thực hiện dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
hội Việt Nam như thế nào cho phù hợp với đặc điểm kinh tế, hội, văn
hóa, đạo đức của hội Việt Nam, gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật, kỷ
cương cũng chưa được đặt ra một cách cụ thể, thiết thực. Nhiều lĩnh vực liên
quan mật thiết đến dân chủ hội chủ nghĩa như dân sinh, dân trí, dân quyền…
chưa được đặt đúng vị trí giải quyết đúng để thúc đẩy việc xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VI của Đảng (1986) đã đ ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, nhấn mạnh phát huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho phát
triển đất nước. Đại hội khẳng định “trong toàn b hoạt động của nh, Đảng
phải quán triệttưởng “lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ
22
| 1/35

Preview text:

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ ra đời trên cơ sở kế
thừa những thành tựu của văn minh nhân loại; một mặt, các ông đã phát triển tư
tưởng dân chủ đã có; mặt khác, bổ sung, phát triển những quan điểm mới phù
hợp với lịch sử đương thời. Dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một trong
những nội dung cơ bản trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã
hội (CNXH). Mục tiêu cao nhất của dân chủ XHCN là thiết lập một xã hội mới
tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản, thiết lập một nền dân chủ cho đông đảo
nhân dân lao động, một nền dân chủ nhân văn, tiến bộ, vì hạnh phúc con người.
Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ có
giá trị khoa học, cách mạng và thực tiễn to lớn, là nền tảng tư tưởng và phương
pháp luận cho công cuộc đổi mới nói chung, trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa nói riêng ở Việt Nam. Những thành tựu của công cuộc đổi mới nói
chung và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng ở Việt Nam là minh
chứng thực tế cho tính đúng đắn trong quan điểm của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam,
Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã tiếp thu, phát triển và hiện thực
hóa những nguyên tắc và yêu cầu tư tưởng dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Điều đó đã được Đảng và Nhà nước
cụ thể hóa trong cương lĩnh chính trị, đường lối, Hiến pháp và pháp luật, đặc
biệt là hệ thống tư tưởng dân chủ của C.Mác nói riêng và Chủ nghĩa Mác –
Lênin nói chung luôn được bổ sung, phát triển và hoàn thiện để phù hợp với
thực tiễn sinh động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhà nước dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Với những lý do trên, tôi chọn “Quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa
Mác - Lênin và xây dng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay”
làm chủ đề nghiên cứu của tiểu luận môn học Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
2. Giới hạn của tiểu luận
Tiểu luận “Quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin và xây dng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay” Nghiên cứu những quan 3
điểm về dân chủ thời kỳ trước C.Mác và Ph.Ăngghen, thời kỳ C.Mác và
Ph.Ăngghen, những nội dung cơ bản trong quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ,
từ đó nghiên cứu những vấn đề chung về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đề
xuất phương hướng, giải pháp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu trên cơ sở hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về dân chủ. Khái niệm, bản chất, đă _c trưng của nền dân chủ xã hô _i
chủ nghĩa ở Viê _t Nam, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện
nay, bên cạnh đó còn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp phân tích,
tổng hợp, lịch sử, logic, hệ thống cấu trúc, so sánh, thống kê, khảo sát và xin ý kiến chuyên gia.
4. Giá trị, ý nghĩa của tiểu luận
Kết quả nghiên cứu của tiểu luận góp phần cung cấp cơ sở khoa học để
trên cơ sở các quan điểm về dân chủ thời kỳ trước C.Mác và Ph.Ăngghen, thời
kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen, những nội dung cơ bản trong quan điểm của
V.I.Lênin về dân chủ, từ đó thấy được vấn đề chung về nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay, góp phần tuyên truyền, xây dựng niềm tin vào vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
5. Cấu trúc tiểu luận
Cấu trúc tiểu luận gồm: phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. 4 NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ DÂN CHỦ
1. Quan điểm về dân chủ thời kỳ trước C.Mác và Ph.Ăngghen
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của đời sống con người và cộng đồng người. Dân chủ gắn liền với tiến bộ xã
hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, các chế độ xã hội khác nhau.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, con người đã biết “cử ra và phế bỏ
người đứng đầu” là do quyền và sức lực của người dân, nghĩa là dân chủ là
quyền lực thuộc về nhân dân. Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, khi bắt đầu có ngôn ngữ,
chữ viết, con người đã biết cách diễn đạt nội dung dân chủ. Thuật ngữ “dân chủ”
xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ V đến IV trước Công nguyên tại Hy Lạp. Theo
tiếng Hy Lạp, dân chủ được viết là Demokratos, trong đó Démos nghĩa là nhân
dân và kratos nghĩa là quyền lực. Theo cách diễn đạt này, dân chủ trong tiếng
Hy Lạp cổ được hiểu nhân dân cai trị và sau này được các nhà chính trị dịch
giản lược là quyền lc của nhân dân hay quyền lc thuộc về nhân dân.
Người La Mã cổ đại cũng biết đến dân chủ, khi các nhà tư tưởng chính trị
La Mã cho rằng quyền lực chính trị xuất phát từ sự đồng thuận của dân chúng,
con người có những quyền tự nhiên mà tất cả chính quyền đều phải tôn trọng.
Mãi đến thời kỳ phục hưng vào thế kỷ thứ XV, Châu Âu xuất hiện những nhà tư
tưởng lớn, việc cải cách thể chế lại được thúc đẩy. Đặc biệt, đến thời kỳ khai
sáng ở Châu Âu, thế kỷ thứ XVIII - XIX, những tư tưởng thực sự dân chủ mới
lại xuất hiện, nhất là cống hiến của các triết gia người Pháp. Bước sang thời kỳ
chủ nghĩa tư bản, quan niệm về dân chủ với những khái niệm “nhân quyền”
“dân chủ”, “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”,... những nội dung này mới được thể
hiện trong đời sống hiện thực; đó là nền dân chủ tư sản.
2. Quan điểm về dân chủ thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen
2.1. Tư tưởng của C.Mác về dân chủ
Tư tưởng của C.Mác về dân chủ - một mốc đặc biệt quan trọng đánh dấu
một giai đoạn mới có tính cách mạng trong nhận thức về dân chủ.
Trước hết, C.Mác đã chỉ ra bản chất của dân chủ với tính chất là một chế
độ nhà nước, trong đó nhân dân giữ vai trò trung tâm. Nhân dân là cơ sở quyết
định, là lý do tồn tại của chế độ nhà nước dân chủ. Chế độ dân chủ là chế độ nhà 5
nước của nhân dân. Đồng thời, C.Mác vạch trần, phê phán những chế độ nhà
nước phi dân chủ và mạo danh dân chủ mà ở đó, dân chủ chỉ như một thứ màu
mè che đậy bản chất bên trong là chuyên chế, không đại diện cho quyền lực nào
của nhân dân. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hê-ghen” (năm 1843), C.Mác đã so sánh và chỉ ra sự khác biệt về bản chất giữa
chế độ dân chủ với chế độ quân chủ. Ông cho rằng, chế độ quân chủ là một chế
độ nhà nước không phản ánh các giá trị dân chủ, thậm chí còn xuyên tạc các giá
trị dân chủ, phản dân chủ. Đó cũng chính là sự phê phán trực diện chế độ nhà
nước phong kiến đương thời, khi mà tôn giáo được coi là nền tảng tinh thần của
chế độ chính trị. Đương nhiên, điều khẳng định ở đây là, chế độ dân chủ không
thể chấp nhận những nguyên tắc thống trị xã hội trên cơ sở quyền lực của cá
nhân nhà vua hay quyền lực đại diện cho một thiểu số người giàu, cho dù được
che chở bởi bất cứ thế lực hay sức mạnh thần quyền nào, mà bất chấp tự do và
quyền lực của nhân dân. Trong chế độ quân chủ thì “nhân dân của chế độ nhà
nước”, còn trong chế độ dân chủ thì “chế độ nhà nước của nhân dân”. Đó là sự
đối nghịch về bản chất. C.Mác nhấn mạnh, chế độ dân chủ xuất phát từ con
người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa. Cũng giống như
tôn giáo không tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy,
không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà
nước. Nói cách khác, chính con người, chính nhân dân là chủ thể tạo ra chế độ
nhà nước dân chủ theo ý chí, nguyện vọng và quyền tự do của mình, và do đó,
nhà nước dân chủ chỉ là biểu hiện ý chí của nhân dân, thể hiện quyền tự do của đại đa số nhân dân.
Từ nhận thức rõ ràng về vai trò quyết định, chi phối của nhân dân đối với
nhà nước trong chế độ dân chủ, C.Mác giải thích cụ thể hơn sự khác nhau về
quan hệ giữa con người và pháp luật trong chế độ dân chủ và trong các chế độ
khác (phi dân chủ), rằng: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn tại vì
luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người..., trong khi đó thì dưới những hình
thức khác của chế độ nhà nước, con người lại là tồn tại được quy định bởi luật
pháp”[2]. Có thể nói, trong tư tưởng của C.Mác về dân chủ, nhân dân là hòn đá 6
thử vàng, là tiêu chí quyết định tính chất dân chủ của chế độ nhà nước. Do đó,
“... chế độ nhà nước, một khi không còn là biểu hiện thật sự của ý chí của nhân
dân nữa thì trở thành một cái hữu danh vô thực”[3].
Thứ hai, trong tư tưởng của C.Mác về dân chủ, sự tham gia chính trị của
nhân dân là yếu tố cốt lõi, quyết định đối với vai trò làm chủ của nhân dân trong
chế độ nhà nước dân chủ. Sự tham gia chính trị của nhân dân không chỉ nằm
trong chức năng của đại biểu hay đại diện mà còn là ở quyền bầu cử chính trị. Vì
thế, bầu cử liên quan trực tiếp đến mối quan hệ giữa xã hội công dân với chế độ
chính trị, với tính chất của chế độ nhà nước dân chủ.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen”,
C.Mác nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt của bầu cử chính trị - một dạng cơ bản
của hình thức dân chủ trực tiếp. Ông cho rằng, “Bầu cử là quan hệ thực sự của
xã hội công dân thực sự, với xã hội công dân của quyền lập pháp, với yếu tố đại
biểu. Nói cách khác, bầu cử là quan hệ trực tiếp, thẳng, không phải chỉ có tính
chất đại biểu, mà đang thực tế tồn tại, của xã hội công dân với nhà nước chính
trị. Vì vậy, hiển nhiên là bầu cử cấu thành lợi ích chính trị quan trọng nhất của
xã hội công dân thực sự”[4]. Như vậy, khi quyền bầu cử chính trị được thực thi
đầy đủ thì cả người dân đi bầu và đại diện được bầu ra đều thể hiện thực chất
nguyên tắc dân chủ chân chính. Kết quả ấy cũng đồng thời xóa đi sự đối lập giữa
“tồn tại công dân” với “tồn tại chính trị”, làm cho hai mặt đó trở nên thống nhất
trong một chế độ dân chủ, chế độ mà thể chế chính trị là của nhân dân, do nhân
dân quyết định và phục vụ cho lợi ích, cho quyền của nhân dân.
Thứ ba, C.Mác giải thích về dân chủ dựa trên cơ sở quy luật vận động,
phát triển của xã hội, trong đó kinh tế là một yếu tố quan trọng. Đây là quan
điểm nhất quán, xuất phát từ lập trường duy vật lịch sử, theo C.Mác, dân chủ
luôn gắn liền với sự vận động, phát triển của lịch sử loài người, nó là sản phẩm
phản ánh tính chất các mối quan hệ xã hội của con người mà quan trọng nhất là
mối quan hệ về kinh tế.
C.Mác cho rằng, nền dân chủ tư sản chỉ là nền dân chủ dành cho thiểu số
bóc lột, tức là giai cấp tư sản dựa trên sự tước đoạt tự do của công nhân và nhân 7
dân lao động. Những chiêu bài, như “sản phẩm lao động toàn vẹn”, “nhà nước tự
do”, “vai trò cách mạng duy nhất của giai cấp vô sản”,... chỉ là “một mớ” những
lý luận bao che cho chế độ nhà nước bóc lột của giai cấp tư sản. Một nền dân chủ
chân chính phải là nền dân chủ của đa số nhân dân lao động, do đa số nhân dân
làm chủ quyền lực trong xã hội. Yêu cầu ấy không thể thực hiện được trong xã
hội tư bản chủ nghĩa. Vấn đề mấu chốt ở đây là chỉ khi nào có một xã hội mới ra
đời, lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ xã hội hóa cao cùng với một quan
hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho sự phát triển kinh tế - xã hội và giải phóng con
người khỏi bóc lột mới có thể mang lại một nền dân chủ chân chính thực sự. Xã
hội mới ấy là xã hội cộng sản chủ nghĩa, như C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết trong
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (năm 1845): “Trong khuôn khổ của xã hội cộng sản
chủ nghĩa, cái xã hội duy nhất mà trong đó sự phát triển độc đáo và tự do của các
cá nhân không còn là lời nói suông - sự phát triển ấy chính là do mối liên hệ giữa
những cá nhân quyết định, mối liên hệ được biểu hiện một phần trong những tiền
đề kinh tế, một phần trong sự cố kết tất yếu của sự phát triển tự do của tất cả mọi
người, và cuối cùng trong tính chất phổ biến của hoạt động của các cá nhân trên
cơ sở lực lượng sản xuất hiện có” [5]. Xã hội ấy cũng chính là: “... một liên hợp,
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của
tất cả mọi người”[6], như C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã viết trong tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848).
Thứ tư, trong tư tưởng về dân chủ, C.Mác kế thừa có chọn lọc những hạt
nhân hợp lý và những giá trị nhân văntrong quan niệm về dân chủ của nhiều nhà
triết học trước đó, nhất là A-ri-xtốt và Hê-ghen. Mặc dù phê phán những quan
niệm sai lầm của Hê-ghen về chế độ nhà nước quân chủ chuyên chế, trong đó
quyền của nhà vua “dựa trên quyền uy thần linh”, về tính tất yếu của đẳng cấp
xã hội, về sự thần bí hóa và coi quy luật giá trị của xã hội tư sản là “ánh hào
quang của lý tính”..., C.Mác lại đánh giá cao và kế thừa từ Hê-ghen nhiều tư
tưởng quan trọng, trong đó có những tư tưởng về dân chủ. Đặc biệt, C.Mác đồng
tình với tư tưởng của Hê-ghen về sự công bằng trong xã hội công dân, đánh giá
cao việc Hê-ghen đưa ra cơ sở triết học cho việc xây dựng và ban hành các bộ 8
luật, cho quyền công bằng của nhân dân trước pháp luật và cho việc xét xử, cũng
như thực thi các bản án. Trong đó, nhất là tư tưởng của Hê-ghen trong việc kiên
quyết loại bỏ những biểu hiện tiêu cực gây khổ sở cho nhân dân do sự chuyên
quyền và những hoạt động bất hợp pháp của cá nhân ra khỏi các hoạt động của
toàn bộ hệ thống nhà nước.
Nghiên cứu tư tưởng của C.Mác về dân chủ, có thể thấy vấn đề cốt lõi,
trung tâm là tự do và vai trò quyền lực của nhân dân. Điều ấy cũng chứa đựng ý
nghĩa nhân văn cao cả khi hướng dân chủ tới mục đích tự do, công bằng và hạnh
phúc cho nhân dân. Ẩn chứa trong tư tưởng ấy, có thể nhận ra ba trụ cột cơ bản
của nền dân chủ theo quan niệm của A-ri-xtốt, đó là tự do, công lý và chủ quyền của nhân dân.
2.2. Quan điểm của Ph.Ăngghen về dân chủ
Một trong những cống hiến vĩ đại của Ph.Ăngghen về lý luận là tư tưởng
về nguồn gốc nhà nước, bản chất dân chủ, về tiếp cận dân chủ từ góc độ một
hình thức nhà nước. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhiệm
vụ của cách mạng vô sản là sau khi dành được chính quyền, phải biết sử dụng có
hiệu quả quyền lực nhà nước để xây dựng một thiết chế kinh tế, chính trị - xã
hội mới, ở đó nhân dân lao động từng bước trở thành người chủ của xã hội, đó là
chủ thể tối cao, duy nhất của mọi quyền lực. Mác và Ăngghen khẳng định: Giai
cấp vô sản sau khi giảnh được chính quyền cần: “Tạo ra một chế độ dân chủ và
nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền lực thống trị chính trị của giai cấp vô sản” [10].
Theo Ăngghen, bản chất của dân chủ với tính chất là một chế độ nhà
nước, trong đó nhân dân giữ vai trò trung tâm; nhân dân là cơ sở quyết định, là
lý do tồn tại của chế độ nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ là chế độ nhà nước của nhân dân.
Ăngghen đánh giá cao sự phát triển của dân chủ từ thấp đến cao, từ dân
chủ chủ nô đến dân chủ tư sản, sau này đến dân chủ vô sản (Dân chủ xã hội chủ
nghĩa). Mặc dù đánh giá cao những giá trị dân chủ đạt được trong chủ nghĩa tư
bản đương thời, đó cũng là kết quả của quá trình đấu tranh của giai cấp công 9
nhân và nhân dân lao động, Ph.Ăngghen cũng khẳng định những mặt trái, hạn
chế của dân chủ tư sản. Ph.Ăngghen viết: “Chế độ dân chủ, giống như bất kỳ
chính thể nào khác, rốt cuộc cũng là sự mâu thuẫn ở ngay trong bản thân, cũng
là sự dối trá, chẳng qua cũng chỉ là sự giả dối…Tự do chính trị là tự do giả, là
chế độ nô lệ tồi tệ nhất; nó chỉ là vẻ bề ngoài của tự do, và vì thế, nó là chế độ
nô lệ. Bình đẳng chính trị cũng như vậy, vì thế chế độ dân chủ cũng như bất kỳ
hình thức quản lý nào khác, cuối cùng phải tan rã; sự giả dối không thể tồn tại
lâu dài, mâu thuẫn che đậy ở trong đó tất yếu sẽ bộc lộ ra; hoặc là chế độ nô lệ
thực sự tức là chế độ chuyên chế không che đậy; hoặc là tự do thực sự và bình
đẳng thực sự tức là chủ nghĩa cộng sản” [7].
Như vậy, việc phân tích của Ăngghen về tính chất tạm thời, tính chất nhất
định sẽ bị vượt qua của dân chủ tư sản đã dẫn đến tư tưởng về tính tất yếu của
cách mạng vô sản như là một bước mà xã hội loài người nhất định phải trải qua
để đi đến một xã hội dân chủ thực sự. Theo Ph.Ăngghen, bản chất giai cấp của
dân chủ tư sản là dân chủ đối với thiểu số bóc lột và chuyên chính đối với đa số
nhân dân lao động, đó là dân chủ giả dối của bản chất nô lệ, dân chủ thực sự, tự
do bình đẳng thực sự chỉ có thể đạt được dưới chủ nghĩa cộng sản. Ph.Ăngghen
cho rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa – Cộng sản chủ nghĩa sẽ tạo ra những điều
kiện cần thiết để thực hiện trên thực tế nguyên tắc: “Sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” [11].
Theo Ph.Ăngghen trong giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị, phải “giành lấy dân chủ”.
Người khẳng định chỉ có giành được chính quyền nhà nước, giai cấp vô sản mới
xây dựng và phát huy được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mới hoàn thành được
sứ mệnh lịch sử là đưa nhân dân, trước hết là nhân dân lao động trở thành người
chủ của xã hội, là chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực.
Trong tư tưởng của Ph.Ăngghen về dân chủ, sự tham gia chính trị của
nhân dân là yếu tố cốt lõi, quyết định đối với vai trò làm chủ của nhân dân trong
chế độ nhà nước dân chủ. Do đó “Chế độ nhà nước, một khi không còn là biểu
hiện thật sự ý chí của nhân dân nữa thì trở thành một cái hữu danh vô thực” [8]. 10
Dựa trên lý luận về hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên,
Ph.Ăngghen giải thích, dân chủ dựa trên quy luật vận động phát triển của xã hội
loài người, trong đó kinh tế là một yếu tố quan trọng. Dân chủ luôn gắn liền với
sự phát triển của lịch sử loài người, nó là sản phẩm phản ánh các mối quan hệ
của con người mà quan trọng nhất là quan hệ về kinh tế.
Ph.Ăngghen cho rằng, nền dân chủ tư sản chỉ là nền dân chủ giành cho
thiểu số bóc lột, tức là giai cấp tư sản dựa trên sự tước đoạt tự do của công nhân
và nhân dân lao động. Với những tên gọi, chiêu bài như: “Nhà nước phúc lợi
chung”, “nhà nước tự do”, “sản phẩm lao động toàn vẹn”…đã che đậy bản chất
bóc lột của giai cấp tư sản, nhằm biện hộ cho giai cấp tư sản, những mâu thuẫn
ngày càng gay gắt giữa tính chất xã hội hóa của sản xuất và quan hệ tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này làm cho các cuộc khủng hoảng
về kinh tế xã hội của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc. Một nền dân chủ chân
chính phải là nền dân chủ của đa số nhân dân lao động, do đa số nhân dân lao
động làm chủ quyền lực trong xã hội. Xã hội mới ấy là xã hội cộng sản chủ
nghĩa, đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen viết trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức
(1845): “Trong khuôn khổ của xã hội cộng sản chủ nghĩa, cái xã hội duy nhất
mà trong đó sự phát triển độc đáo và tự do của các cá nhân không còn là lời nói
suông – Sự phát triển ấy chính là do mối liên hệ giữa những cá nhân quyết định,
mối liên hệ được biểu hiện một phần trong những tiền đề kinh tế, một phần
trong sự cố kết tất yếu của sự phát triển tự do của mọi người, và cuối cùng trong
tính chất phổ biến của hoạt động của các cá nhân, trên cơ sở lực lượng sản xuất
hiện có”[9]. Xã hội ấy chính là: “Một liên hợp trong đó sự phát triển tự do của
mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” như C.Mác
và Ph.Ăngghen đã viết trong tuyên ngôn Đảng cộng sản năm 1848 [12].
Nghiên cứu tư tưởng của Ph.Ăngghen về dân chủ, có thể thấy vấn đề cốt
lõi trung tâm là tự do và coi trọng quyền lực của nhân dân. Điều ấy cũng chứa
đựng ý nghĩa nhân văn cao cả khi hướng dân chủ tới mục đích tự do, công bằng
và hạnh phúc cho nhân dân. 11
Ph.Ăngghen đã phân tích sự xuất hiện của nhà nước, đó là sản phẩm của
đấu tranh giai cấp, về bản chất nhà nước là quyền lực chính trị của giai cấp
thống trị về mặt kinh tế nhằm duy trì trật tự xã hội hiện hành, bảo vệ lợi ích của
giai cấp thống trị, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp và tầng lớp xã hội
khác. Điều này theo quy luật lịch sử, giai cấp nắm chính quyền nhà nước phải là
giai cấp thống trị về mặt kinh tế, do đó cũng là giai cấp được xã hội thừa nhận là
đại biểu chung của xã hội. Trong thời cổ đại, đó là giai cấp chủ nô, thời trung cổ
là giai cấp quý tộc phong kiến; trong chủ nghĩa tư bản đó là giai cấp tư sản và
ngày nay, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là giai cấp vô sản. Lịch sử cho thấy, giai
cấp nắm chính quyền nhà nước thực hiện sự thống trị chính trị dưới các hình
thức nhà nước khác nhau. Mỗi kiểu nhà nước tồn tại dưới hình thức nào tùy
thuộc những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa trong và ngoài nước, tùy thuộc
vào tương quan so sánh lực lượng của các giai cấp trong xã hội. Do vậy, nền dân
chủ ở các xã hội có chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, cũng có bước
tiến lớn từ chế độ nô lệ đến chế độ phong kiến và nhất là dưới chủ nghĩa tư bản.
Dưới chủ nghĩa tư bản, hình thức nhà nước phổ biến là chế độ cộng hòa
dân chủ tư sản (Cộng hòa tổng thống, cộng hòa nghị viện, cộng hòa hỗn hợp).
Nhà nước tồn tại dưới hình thức này thừa nhận quyền dân chủ của mọi công
dân, tuyên bố quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân cũng như V.I.Lênin đã
nhận xét: Chế độ cộng hòa tư sản “Xét về phương diện phát triển của xã hội trên
toàn thế giới, đều là một bước tiến rất lớn” [35].
Song, khi nhà nước còn tồn tại trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thì quyền lợi thực sự vẫn thuộc về giai cấp tư sản.
Do vậy, vạch trần bản chất dân chủ dưới chủ nghĩa tư bản, Ph.Ăngghen khẳng
định: “Người ta tưởng tượng là đã tiến được một bước táo bạo phi thường, nếu họ
tự giải thoát khỏi lòng tôn sùng chế độ quân chủ và trở thành những người theo
chế độ cộng hòa dân chủ. Nhưng thực ra, nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy
của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác; điều đó, trong chế độ
cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ” [1]. 12
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Ph.Ăngghen hiểu khái niệm dân chủ
trước hết với tính cách là một khái niệm chính trị, dùng để chỉ chế độ nhà nước.
Ph.Ăngghen không thừa nhận chế độ thị tộc là một thể chế dân chủ vì đó
chưa phải là một chế độ chính trị. Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao giờ
được nêu thành công thức, nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của thị tộc”.
Ông gọi đây là nền “Dân chủ quân sự”.
Theo C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ có nền dân chủ mới, dân chủ vô sản, mới
làm cho nhân dân lao động thực sự làm chủ xã hội và làm chủ vận mệnh của
mình, kiểu mẫu của dân chủ vô sản chính là Công xã Pari, một hình thức tổ
chức nhà nước do những người cộng sản lãnh đạo - một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tuy không phải là những người đầu tiên bàn về dân chủ và nêu lên ước
vọng về một xã hội dân chủ nhưng C.Mác và Ph. Ăngghen, lần đầu tiên chỉ ra
bản chất giai cấp của dân chủ, làm rõ những đóng góp và hạn chế của dân chủ tư
sản, từ đó tìm ra con đường để xây dựng một nền dân chủ mới - dân chủ vô sản.
3. Những nội dung cơ bản trong quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ
3.1. Dân chủ và chế độ dân chủ
Trong Mười đề cương về chính quyền Xô viết, V.I.Lênin coi dân chủ là tự
do. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định của đa
số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa”.
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nhiều lần khẳng
định rằng “chế độ dân chủ” là một hình thức nhà nước, một trong những hình
thái của nhà nước. Chế độ dân chủ cũng là nhà nước, do đó nhà nước mà mất đi
thì chế độ dân chủ cũng mất theo.
Những giá trị dân chủ, theo V.I. Lênin, cần được giai cấp công nhân vận
dụng để thực hiện sứ mệnh của mình, mà trước hết là để xây dựng một chính
đảng của giai cấp công nhân.
3.2. Bản chất giai cấp của vấn đề dân chủ
Dân chủ là một phạm trù lịch sử mang tính giai cấp khi xã hội xuất hiện
giai cấp và quan hệ giai cấp. Dân chủ luôn mang tính giai cấp và chịu sự chi 13
phối của giai cấp cầm quyền. Về thực chất, dân chủ với tư cách là quyền lực của
nhân dân thì các thành quả của dân chủ là sự phản ánh những giá trị nhân văn
trong quá trình giải phóng con người. Theo V.I.Lênin, chế độ dân chủ được coi
như là một hình thức nhà nước đã mang bản chất giai cấp, vì thế không thể tách
rời vấn đề nhà nước với vấn đề giai cấp. Dân chủ với tư cách là chế độ nhà nước
gắn trực tiếp với một giai cấp cầm quyền nhất định dựa trên một quan hệ sản
xuất thống trị thì dân chủ bao giờ cũng mang tính giai cấp, không bao giờ có thứ
dân chủ thuần túy cho mọi giai cấp. Tính giai cấp của dân chủ được phản ánh
trong các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết vấn đề đặt ra là
dân chủ cho giai cấp nào, tầng lớp nào, hạn chế dân chủ và chuyên chính với ai.
Mỗi giai cấp giải thích về dân chủ, cả về phương diện lý thuyết và thực tế với
các cách thức và mức độ khác nhau, tuỳ lập trường, quan điểm và lợi ích của giai cấp mình.
3.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
V.I. Lênin trình đã trình bày nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ như sau:
Tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân tổ chức cơ bản của Đảng, Tất cả
các cơ quan cấp trên đều thực sự được bầu ra, có trách nhiệm báo cáo công tác
và có thể bị bãi miễn. Tổ chức đảng là tổ chức của những công nhân dân chủ -
xã hội giác ngộ và sinh hoạt độc lập. Phải thực hiện bằng được chế độ tự trị của
mọi tổ chức đảng; Cần xóa bỏ và xóa bỏ bằng được sự tranh giành địa bàn, sự lo
sợ “phái” khác; Thống nhất về tổ chức, đồng thời có sự đấu tranh thuần túy về
tư tưởng giữa các trào lưu tư tưởng dân chủ - xã hội khác nhau trong nội bộ các
tổ chức đảng; Xác định rõ rệt nguyên nhân tranh 10 luận giữa các trào lưu tư
tưởng trong đảng là điều kiện cần thiết để phát triển đảng một cách lành mạnh,
để giáo dục giai cấp công nhân và tránh được sự sai lầm về đường lối. …Thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, theo V.I.Lênin, trong Đảng cần phải thực
hiện kỷ luật chặt chẽ, thống nhất; thực hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số,
cấp dưới phục tùng cấp trên; tổ chức các cấp và toàn thể đảng viên của Đảng 14
phải chấp hành nghị quyết đại hội đại biểu của Đảng, phục tùng sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của V.I.Lênin, nguyên tắc tập trung
dân chủ không chỉ là phương pháp và tác phong công tác của chính đảng vô sản
cầm quyền, mà trước hết và trên hết, nó chính là chế độ tổ chức và nguyên tắc tổ chức của đảng.
3.4. Sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội
V.I.Lênin đã phân tích, làm rõ quan điểm về sự thống nhất biện chứng
giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin nói: “Không có chế độ dân chủ thì
chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai nghĩa sau đây:
Thứ nhất: giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua
cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ.
Thứ hai: chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của
mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không
thực hiện được đầy đủ chế độ dân chủ.”
V.I.Lênin đòi hỏi những người cộng sản phải phân biệt sự khác nhau về
nguyên tắc giữa hai giai đoạn đấu tranh vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội, mặc dù
giữa chúng có sự giao kết với nhau. Theo Lênin, giai cấp vô sản không thể đạt
tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội nếu không thực hiện hoàn toàn và triệt để chế độ
dân chủ, nếu không đem những yêu sách dân chủ được đề ra một cách kiên
quyết nhất gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh cách mạng.
Tư tưởng về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin là di sản vô giá cho các
Đảng Cộng sản trong quá trình xây dựng tổ chức Đảng, xây dựng nền dân chủ
vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề dân chủ là thế giới quan và phương pháp luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ cơ sở ở nước ta hiện nay. Từ
sự phân tích các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ nêu trên,
chúng ta thấy rằng dân chủ xã hội chủ nghĩa là bước phát triển cao nhất trong sự
phát triển của dân chủ, là thành quả của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa và 15
xây dựng xã hội chủ nghĩa, ở đó có sự kết tinh toàn bộ những giá trị dân chủ đã
đạt được trong lịch sử làm cho dân chủ trở thành một giá trị phổ biến thâm nhập
vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1. Khái niện, bản chất, đă ]c trưng của nền dân chủ xã hô ]i chủ nghĩa ở Viê ]t Nam
1.1. Khái niê ]m nền dân chủ
Trong các nghiên cứu khoa học ở nước ta về vấn đề dân chủ, nền dân chủ
hay chế độ dân chủ là hai khái niệm khác nhau có cùng bản chất, tuỳ theo từng
trường hợp cụ thể có thể sử dụng thay thế cho phù hợp.
Khái niệm chế độ dân chủ dùng để chỉ thiết chế xã hội nhằm thực hiện
quyền lực của nhân dân; còn khái niệm nền dân chủ phản ánh trạng thái dân chủ
trong tính chỉnh thể với hệ thống các thiết chế dân chủ được xác lập và thực thi
trong hiện thực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội theo mục tiêu thực hiện
quyền lực và bảo đảm lợi ích của giai cấp cầm quyền. Theo đó, nền dân chủ là
khái niệm phản ánh chỉnh thể xã hội được tổ chức, vận hành theo các nguyên
tắc, yêu cầu và chuẩn mc dân chủ nhằm thc thi quyền lc, bảo đảm lợi ích
của giai cấp cầm quyền và xã hô @i.
Với tư cách là một chỉnh thể
hội hoàn chỉnh, nền dân chủ là một phạm
trù lịch sử, vì nó có sự ra đời, tồn tại và phát triển trong một giai đoạn nhất định
và sẽ mất đi khi trong xã hội không còn giai cấp. Tính lịch sử của nền dân chủ
còn thể hiện qua quá trình hình thành, phát triển, vận động từ chỗ chưa có dân
chủ đến có dân chủ, đến tồn tại, phát triển và tiêu vong. Chủ nghĩa Mác - Lênin
nêu rõ quá trình phát triển của dân chủ là “từ chuyên chế đến dân chủ tư sản, từ
dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản, từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ
chủ nữa” [36]. Do vậy, hình thức của các nền dân chủ là đa dạng, vì chính thể
của mỗi quốc gia không chỉ chịu sự chi phối của thể chế chính trị mà còn chịu
sự kiềm chế của các điều kiện thực tế của các chính thể khác nhau. Không có 16
mô hình dân chủ và chế độ chính trị chung cho mọi quốc gia, dân tộc.
Xét về cấu trúc, nền dân chủ được cấu thành bởi nhiều yếu tố, bộ phận, cả
khía cạnh vật chất, tinh thần, yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, pháp luật
dân chủ; yếu tố thể chế và thiết chế dân chủ; cơ chế, nguyên tắc và các giá trị,
chuẩn mực dân chủ... Trong xã hội có giai cấp, nền dân chủ là một chỉnh thể
hiện thc trong đó có chế độ chính trị, nhà nước, pháp luật dân chủ; sự làm chủ
và chi phối giá trị dân chủ của giai cấp thống trị; sự đấu tranh, vươn lên không
ngừng của nhân dân lao động chống lại các biểu hiện phản tiến bộ, phi dân chủ;
sự tồn tại, hoạt động tự chủ, tự quản của các tổ chức chính trị - xã hội; sự hiện
hữu của các nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực dân chủ phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người.
Về bản chất, nền dân chủ được hiểu là một chỉnh thể xã hội trong đó các
giá trị, chuẩn mực, yêu cầu, các nguyên tắc dân chủ được ghi nhận và thực thi
trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
Trên lĩnh vc chính trị, bảo đảm các nguyên tắc: tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân, mọi quyền lực mà nhà nước có đều do nhân dân ủy quyền; bầu cử
tự do, công bằng; hạn chế quyền năng của nhà nước bằng hiến pháp; dân chủ
gắn với pháp luật, được bảo đảm bằng nhà nước pháp quyền; nhà nước và mọi
hoạt động của nhà nước phải đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân và các tổ
chức đại diện; bảo đảm quyền tham gia vào công việc nhà nước, xã hội của
người dân; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không hình thành các
thiết chế tổ chức làm nguy hại tới lợi ích của nhân dân, cản trở sự phát triển
lành mạnh của đất nước...
Trên lĩnh vc kinh tế, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặt nền kinh tế
dưới sự kiểm soát của nhân dân, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân
dân; có cơ chế kinh tế trong đó, mọi người được làm tất cả những gì pháp luật
không cấm, người lao động có việc làm hữu ích, được tham gia vào sở hữu, quản lý
dưới những hình thức khác nhau và được thụ hưởng thành quả lao động xứng đáng;
kết hợp kế hoạch của nhà nước với phát huy mọi tiềm năng kinh tế của người dân,
bảo đảm quyền tự chủ, làm chủ của doanh nghiệp và người lao động. 17
Trên lĩnh vc xã hội, thiểu số phục tùng đa số nhưng tôn trọng quyền của
thiểu số; thống nhất trong tính đa dạng các khuynh hướng xã hội, bảo đảm
quyền được bảo vệ về mặt xã hội của mọi công dân; khắc phục sự khác biệt giữa
các tầng lớp xã hội, giữa các vùng miền của đất nước; quyền công dân, quyền
con người được bảo đảm bằng pháp lý và được thực thi trên thực tế...
Trên lĩnh vc văn hóa, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do
suy nghĩ, tự do tư tưởng trong hoạt động khoa học, sáng tạo nghệ thuật và đời
sống tinh thần nói chung trên cơ sở đường lối chính trị chủ đạo và pháp luật
của nhà nước; hòa giải, hợp tác, khoan dung, đối thoại trong giải quyết các
mâu thuẫn, xung đột xã hội... dân chủ trong các quan hệ xã hội, trong ứng xử,
lối sống giữa con người với con người, dân chủ trong mọi thiết chế xã hội, từ
gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị, xã hội, dân sự, nghề nghiệp... ngày
một sâu sắc và phổ quát...
1.2. Bản chất nền dân chủ xã hô ]i chủ nghĩa ở Viê ]t Nam
Nền dân chủ xã hô _i chủ nghĩa ở Viê _t Nam là nền dân chủ mang bản chất
giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại.
Bản chất giai cấp công nhân của nền dân chủ xã hô _i chủ nghĩa ở Việt
Nam được thể hiện trong mọi lĩnh vực từ chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng và thực hiện pháp luật đến tổ chức cán
bộ đều phải thể hiện sâu sắc tư tưởng, quan điểm của giai cấp công nhân. Nền
dân chủ xã hô _i chủ nghĩa ở Việt Nam lấy liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đô _i ngũ trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo nhằm
phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc;
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và chuyên chính với những hành vi xâm
phạm lợi ích của nhân dân, vi phạm an ninh Tổ quốc. Đây chính là bản chất cốt
lõi nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Viê _t Nam.
Tính nhân dân rộng rãi của nền dân chủ xã hô _i chủ nghĩa ở nước ta được
thể hiện: Nước cộng hòa xã hô _i chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ. Mọi
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền hành của bộ máy nhà nước là
của nhân dân giao cho. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân 18
dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; từ nguồn gốc, bản chất, mục đích
tồn tại cũng như sức mạnh của Nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân. Nhà nước
do dân lập nên, do dân bầu ra, dân giám sát và bãi miễn. Sức mạnh của Nhà
nước và của nền dân chủ xã hô _i chủ nghĩa ở Việt Nam là khối đại đoàn kết toàn
dân, lấy liên minh công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ, mọi quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân. Dân là chủ và dân làm chủ [34]. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 của
Nhà nước ta hiến định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân
dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [33] .
Tính dân tộc sâu sắc của nền dân chủ xã hô _i chủ nghĩa ở nước ta thể hiện:
Nhà nước và nền dân chủ xã hô _i chủ nghĩa ở Việt Nam là kết quả đấu tranh cách
mạng lâu dài, gian khổ của dân tộc Việt Nam do Đảng lãnh đạo; nhân dân các
dân tộc bình đẳng, đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển. Nền tảng của nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Kế thừa, phát huy những truyền thống, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và con người
Việt Nam về văn hóa, đạo đức, tinh thần, những kinh nghiệm tổ chức cộng đồng
và quản lý xã hội của cha ông để lại.
Tính nhân loại của nền dân chủ xã hô _i chủ nghĩa ở nước ta thể hiê _n ở chỗ:
kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những giá trị dân chủ của nhân loại, nhất là kinh
nghiệm, những giá trị dân chủ tiến bộ mà loài người đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa; kinh tế thị trường định hướng xã hô _i chủ nghĩa và Nhà nước pháp
quyền xã hô_i chủ nghĩa với việc bảo đảm quyền công dân, quyền con người là sự
kết tinh sâu sắc, rõ nét những giá trị dân chủ của nhân loại trong nền dân chủ xã
hô _i chủ nghĩa ở Việt Nam phù hợp với điều kiện mới của đất nước và thời đại.
Bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại của
nền dân chủ xã hô _i chủ nghĩa ở Việt Nam có quan hệ gắn bó thống nhất hữu cơ
với nhau. Cơ sở kinh tế - chính trị của mối quan hê _ này đó là sự thống nhất về
lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của các tầng lớp nhân dân và của cả dân
tộc trong hệ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 19
sở tư tưởng chính trị của sự thống nhất ấy chính là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh với tính cách là cơ sở lý luận, nền tảng tư tưởng của công
cuộc xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hô _i chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối
cảnh đổi mới. Bảo đảm pháp lý vững chắc cho sự thống nhất đó là bản Hiến
pháp năm 2013. Đây là bản Hiến pháp thể hiện sâu sắc mối quan hệ hữu cơ giữa
bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại của
nền dân chủ xã hô _i chủ nghĩa trong điều kiện hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam.
1.3. Đă ]c trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa mang đầy đủ các đă _c trưng
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung, vừa có những đă _c trưng riêng, đă _c
thù của dân chủ ở Viê _t Nam, thể hiê _n trên các các lĩnh vực của đời sống xã hội
từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, từ các mối quan hệ giữa con người với con
người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với nhà nước, với
tổ chức và thể chế hiện hành.
Chủ thể quyền lc: Thuộc về nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Đây là đặc trưng cốt lõi của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói chung, nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Nhân dân là chủ thể chân chính của
xã hội, quyền lực đó được thực hiện thông qua thiết chế chính trị, trong đó Nhà
nước với vai trò là “trụ cột” trong bảo quyền lực và lợi ích của nhân dân. Đảng
ta khẳng định: “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện” [21].
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có s gắn kết chặt chẽ giữa
quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ của
mọi công dân. Đặc trưng này phản ánh tính công bằng và nguyên tắc phân phối
theo lao động trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang xây dựng, từ
đó nâng cao ý thức của người dân trước vận mệnh của đất nước.
Dân chủ đi đôi với chuyên chính, dân chủ gắn với pháp luật, kỷ luật, kỷ
cương xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ chính trị; nó bảo đảm
quyền làm chủ của đại đa số nhân dân, đồng thời chuyên chính với thiểu số có 20
hành động trái ngược với lợi ích của xã hội, của nhân dân. Hiểu chuyên chính ở
đây, không chỉ chuyên chính với các thế lực thù địch, mà còn chuyên chính
mạnh mẽ với các bộ phận, phần tử chống lại chế độ, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Thực hiện chuyên chính, kỷ luật, kỷ cương
bảo đảm cho dân chủ được thực hiện tốt hơn và giữ vững. Bởi vì: trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chưa thể có bình đẳng hoàn toàn, mà đó
là sự bình đẳng về chính trị của mọi công dân trước pháp luật và bất bình đẳng
với bọn bóc lột và ăn bám...
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta có s kế thừa, phát triển các giá
trị dân chủ truyền thống, văn hóa dân tộc và nhân loại. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa phủ định biện chứng dân chủ tư sản; tiếp thu và kế thừa, phát triển các giá
trị tinh hoa dân chủ, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân.
Kế thừa có chọn lọc những giá trị dân chủ truyền thống dân tộc. Những
giá trị dân chủ thời phong kiến được kế thừa như: Nhà Trần mở “Hội nghị Diên
hồng” bàn cách đánh giặc, với ý chí “Sát thát”. Tư tưởng: “Vua tôi đồng lòng,
cả nước giúp sức”, “khoan thư sức dân làm kế sâu dễ, bền gốc, đó là thượng
sách giữ nước”. Quan điểm: “Chiến tranh toàn dân” của Nguyễn Trãi: “Đại quân
tiến đánh, nhân dân làm kế thanh dã”. Đến “Chiến tranh toàn dân, toàn diện, dựa
vào sức mình là chính” (Đường lối kháng chiến, kiến quốc trong thời kỳ chống
Pháp); Đến “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Là nền dân chủ ngày càng mở rộng, phát huy, hoàn thiện và tiến tới t
tiêu vong. Bởi vì, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa tồn tại khi còn giai cấp, còn Nhà
nước. Nhưng khi xã hội tiến đến chủ nghĩa cộng sản, thì không còn giai cấp,
Nhà nước, đảng phái...nó sẽ tiêu vong đi. V.I.Lênin khẳng định: “Trong xã hội
cộng sản, chế độ dân chủ được cải biến và thành tập quán, sẽ tiêu vong đi,
nhưng sẽ không bao giờ là một chế độ dân chủ thuần túy cả”. Xã hội lúc đó, là
một xã hội: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”. 21
Như vậy, quá trình hình thành, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Viê _t Nam đã thể hiện bản chất cách mạng và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ
nghĩa. Các đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một thể
thống nhất quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, các đặc trưng trên chưa thể hiện đầy đủ; phải tiếp tục xây
dựng, bổ sung và hoàn thiện. Đó là một quá trình đấu tranh giai cấp gay go,
quyết liệt, phức tạp, lâu dài.
2. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay
2.1 Quá trình hình thành, phát triển của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chế độ dân chủ nhân dân được xác lập sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945. Đến năm 1976, tên nước được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, nhưng trong các Văn kiện Đảng hầu như chưa sử dụng cụm từ “dân chủ
xã hội chủ nghĩa”. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta thường nêu
quan điểm “xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa” gắn với “nắm
vững chuyên chính vô sản”; trên thực tế, chưa coi dân chủ xã hội chủ nghĩa là
mục tiêu của công cuộc phát triển đất nước. Bản chất của dân chủ xã hội chủ
nghĩa, mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, cũng chưa được xác định rõ ràng. Việc xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, đặc biệt là thực hiện dân chủ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam như thế nào cho phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội, văn
hóa, đạo đức của xã hội Việt Nam, gắn với hoàn thiện hệ thống pháp luật, kỷ
cương cũng chưa được đặt ra một cách cụ thể, thiết thực. Nhiều lĩnh vực liên
quan mật thiết đến dân chủ xã hội chủ nghĩa như dân sinh, dân trí, dân quyền…
chưa được đặt đúng vị trí và giải quyết đúng để thúc đẩy việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VI của Đảng (1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước, nhấn mạnh phát huy dân chủ để tạo ra một động lực mạnh mẽ cho phát
triển đất nước. Đại hội khẳng định “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ 22