


















Preview text:
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn chủ đề tiểu luận
Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ ra đời trên cơ sở kế
thừa những thành tựu của văn minh nhân loại; một mặt, các ông đã phát triển
tư tưởng dân chủ đã có; mặt khác, bổ sung, phát triển những quan điểm mới
phù hợp với lịch sử đương thời. Dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một
trong những nội dung cơ bản trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội (CNXH). Mục tiêu cao nhất của dân chủ XHCN là thiết lập một
xã hội mới tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản, thiết lập một nền dân chủ cho
đông đảo nhân dân lao động, một nền dân chủ nhân văn, tiến bộ, vì hạnh phúc con người.
Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ
có giá trị khoa học, cách mạng và thực tiễn to lớn, là nền tảng tư tưởng và
phương pháp luận cho công cuộc đổi mới nói chung, trong xây dựng nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng ở Việt Nam. Những thành tựu của công cuộc
đổi mới nói chung và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng ở Việt
Nam là minh chứng thực tế cho tính đúng đắn trong quan điểm của các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ. Trong điều kiện lịch sử cụ thể
của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã tiếp thu, phát
triển và hiện thực hóa những nguyên tắc và yêu cầu tư tưởng dân chủ của chủ
nghĩa Mác - Lênin trong xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Điều đó đã
được Đảng và Nhà nước cụ thể hóa trong cương lĩnh chính trị, đường lối,
Hiến pháp và pháp luật, đặc biệt là hệ thống tư tưởng dân chủ của C.Mác nói
riêng và Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung luôn được bổ sung, phát triển và
hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn sinh động trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội và nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Với những lý do trên, tôi chọn “Quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa
Mác - Lênin và xây d ng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện
nay” làm chủ đề nghiên cứu của tiểu luận môn học Lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
2. Giới hạn của tiểu luận
Tiểu luận “Quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin và xây
d ng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay” Nghiên cứu những quan
NỘI DUNG I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ
DÂN CHỦ 1. Quan điểm về dân chủ thời kỳ trước C.Mác và Ph.Ăngghen
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội phức tạp gắn liền với sự tồn tại
và phát triển của đời sống con người và cộng đồng người. Dân chủ gắn liền
với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, các chế độ xã hội khác nhau.
Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, con người đã biết “cử ra và phế bỏ
người đứng đầu” là do quyền và sức lực của người dân, nghĩa là dân chủ là
quyền lực thuộc về nhân dân. Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, khi bắt đầu có ngôn
ngữ, chữ viết, con người đã biết cách diễn đạt nội dung dân chủ. Thuật ngữ
“dân chủ” xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ V đến IV trước Công nguyên tại
Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, dân chủ được viết là Demokratos, trong đó
Démos nghĩa là nhân dân và kratos nghĩa là quyền lực. Theo cách diễn đạt
này, dân chủ trong tiếng Hy Lạp cổ được hiểu nhân dân cai trị và sau này
được các nhà chính trị dịch giản lược là quyền l c của nhân dân hay quyền
l c thuộc về nhân dân.
Người La Mã cổ đại cũng biết đến dân chủ, khi các nhà tư tưởng chính
trị La Mã cho rằng quyền lực chính trị xuất phát từ sự đồng thuận của dân
chúng, con người có những quyền tự nhiên mà tất cả chính quyền đều phải
tôn trọng. Mãi đến thời kỳ phục hưng vào thế kỷ thứ XV, Châu Âu xuất hiện
những nhà tư tưởng lớn, việc cải cách thể chế lại được thúc đẩy. Đặc biệt, đến
thời kỳ khai sáng ở Châu Âu, thế kỷ thứ XVIII - XIX, những tư tưởng thực
sự dân chủ mới lại xuất hiện, nhất là cống hiến của các triết gia người Pháp.
Bước sang thời kỳ chủ nghĩa tư bản, quan niệm về dân chủ với những khái
niệm “nhân quyền” “dân chủ”, “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái”,... những nội
dung này mới được thể hiện trong đời sống hiện thực; đó là nền dân chủ tư sản.
2. Quan điểm về dân chủ thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen
2.1. Tư tưởng của C.Mác về dân chủ
Tư tưởng của C.Mác về dân chủ - một mốc đặc biệt quan trọng đánh
dấu một giai đoạn mới có tính cách mạng trong nhận thức về dân chủ.
Trước hết, C.Mác đã chỉ ra bản chất của dân chủ với tính chất là một
chế độ nhà nước, trong đó nhân dân giữ vai trò trung tâm. Nhân dân là cơ sở
quyết định, là lý do tồn tại của chế độ nhà nước dân chủ. Chế độ dân chủ là chế độ nhà
nước của nhân dân. Đồng thời, C.Mác vạch trần, phê phán những chế độ nhà
nước phi dân chủ và mạo danh dân chủ mà ở đó, dân chủ chỉ như một thứ
màu mè che đậy bản chất bên trong là chuyên chế, không đại diện cho quyền
lực nào của nhân dân. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp
quyền của Hê-ghen” (năm 1843), C.Mác đã so sánh và chỉ ra sự khác biệt về
bản chất giữa chế độ dân chủ với chế độ quân chủ. Ông cho rằng, chế độ quân
chủ là một chế độ nhà nước không phản ánh các giá trị dân chủ, thậm chí còn
xuyên tạc các giá trị dân chủ, phản dân chủ. Đó cũng chính là sự phê phán
trực diện chế độ nhà nước phong kiến đương thời, khi mà tôn giáo được coi
là nền tảng tinh thần của chế độ chính trị. Đương nhiên, điều khẳng định ở
đây là, chế độ dân chủ không thể chấp nhận những nguyên tắc thống trị xã
hội trên cơ sở quyền lực của cá nhân nhà vua hay quyền lực đại diện cho một
thiểu số người giàu, cho dù được che chở bởi bất cứ thế lực hay sức mạnh
thần quyền nào, mà bất chấp tự do và quyền lực của nhân dân. Trong chế độ
quân chủ thì “nhân dân của chế độ nhà nước”, còn trong chế độ dân chủ thì
“chế độ nhà nước của nhân dân”. Đó là sự đối nghịch về bản chất. C.Mác
nhấn mạnh, chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành
con người được khách thể hóa. Cũng giống như tôn giáo không tạo ra con
người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy, không phải chế độ nhà
nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước. Nói cách khác,
chính con người, chính nhân dân là chủ thể tạo ra chế độ nhà nước dân chủ
theo ý chí, nguyện vọng và quyền tự do của mình, và do đó, nhà nước dân
chủ chỉ là biểu hiện ý chí của nhân dân, thể hiện quyền tự do của đại đa số nhân dân.
Từ nhận thức rõ ràng về vai trò quyết định, chi phối của nhân dân đối
với nhà nước trong chế độ dân chủ, C.Mác giải thích cụ thể hơn sự khác nhau
về quan hệ giữa con người và pháp luật trong chế độ dân chủ và trong các chế
độ khác (phi dân chủ), rằng: “Dưới chế độ dân chủ, không phải con người tồn
tại vì luật pháp, mà luật pháp tồn tại vì con người..., trong khi đó thì dưới
những hình thức khác của chế độ nhà nước, con người lại là tồn tại được quy
định bởi luật pháp”[2]. Có thể nói, trong tư tưởng của C.Mác về dân chủ, nhân dân là hòn đá lOMoAR cPSD| 61197966
thử vàng, là tiêu chí quyết định tính chất dân chủ của chế độ nhà nước. Do
đó, “... chế độ nhà nước, một khi không còn là biểu hiện thật sự của ý chí của
nhân dân nữa thì trở thành một cái hữu danh vô thực”[3].
Thứ hai, trong tư tưởng của C.Mác về dân chủ, sự tham gia chính trị
của nhân dân là yếu tố cốt lõi, quyết định đối với vai trò làm chủ của nhân
dân trong chế độ nhà nước dân chủ. Sự tham gia chính trị của nhân dân không
chỉ nằm trong chức năng của đại biểu hay đại diện mà còn là ở quyền bầu cử
chính trị. Vì thế, bầu cử liên quan trực tiếp đến mối quan hệ giữa xã hội công
dân với chế độ chính trị, với tính chất của chế độ nhà nước dân chủ.
Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê-
ghen”, C.Mác nhấn mạnh đến vai trò đặc biệt của bầu cử chính trị - một dạng
cơ bản của hình thức dân chủ trực tiếp. Ông cho rằng, “Bầu cử là quan hệ
thực sự của xã hội công dân thực sự, với xã hội công dân của quyền lập pháp,
với yếu tố đại biểu. Nói cách khác, bầu cử là quan hệ trực tiếp, thẳng, không
phải chỉ có tính chất đại biểu, mà đang thực tế tồn tại, của xã hội công dân
với nhà nước chính trị. Vì vậy, hiển nhiên là bầu cử cấu thành lợi ích chính
trị quan trọng nhất của xã hội công dân thực sự”[4]. Như vậy, khi quyền bầu
cử chính trị được thực thi đầy đủ thì cả người dân đi bầu và đại diện được bầu
ra đều thể hiện thực chất nguyên tắc dân chủ chân chính. Kết quả ấy cũng
đồng thời xóa đi sự đối lập giữa “tồn tại công dân” với “tồn tại chính trị”, làm
cho hai mặt đó trở nên thống nhất trong một chế độ dân chủ, chế độ mà thể
chế chính trị là của nhân dân, do nhân dân quyết định và phục vụ cho lợi ích, cho quyền của nhân dân.
Thứ ba, C.Mác giải thích về dân chủ dựa trên cơ sở quy luật vận động,
phát triển của xã hội, trong đó kinh tế là một yếu tố quan trọng. Đây là quan
điểm nhất quán, xuất phát từ lập trường duy vật lịch sử, theo C.Mác, dân chủ
luôn gắn liền với sự vận động, phát triển của lịch sử loài người, nó là sản
phẩm phản ánh tính chất các mối quan hệ xã hội của con người mà quan trọng
nhất là mối quan hệ về kinh tế.
C.Mác cho rằng, nền dân chủ tư sản chỉ là nền dân chủ dành cho thiểu
số bóc lột, tức là giai cấp tư sản dựa trên sự tước đoạt tự do của công nhân và nhân lOMoAR cPSD| 61197966
dân lao động. Những chiêu bài, như “sản phẩm lao động toàn vẹn”, “nhà nước
tự do”, “vai trò cách mạng duy nhất của giai cấp vô sản”,... chỉ là “một mớ”
những lý luận bao che cho chế độ nhà nước bóc lột của giai cấp tư sản. Một
nền dân chủ chân chính phải là nền dân chủ của đa số nhân dân lao động, do
đa số nhân dân làm chủ quyền lực trong xã hội. Yêu cầu ấy không thể thực
hiện được trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Vấn đề mấu chốt ở đây là chỉ khi
nào có một xã hội mới ra đời, lực lượng sản xuất phát triển đến mức độ xã
hội hóa cao cùng với một quan hệ sản xuất tiến bộ mở đường cho sự phát
triển kinh tế - xã hội và giải phóng con người khỏi bóc lột mới có thể mang
lại một nền dân chủ chân chính thực sự. Xã hội mới ấy là xã hội cộng sản chủ
nghĩa, như C.Mác và Ph.Ăng-ghen viết trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”
(năm 1845): “Trong khuôn khổ của xã hội cộng sản chủ nghĩa, cái xã hội duy
nhất mà trong đó sự phát triển độc đáo và tự do của các cá nhân không còn là
lời nói suông - sự phát triển ấy chính là do mối liên hệ giữa những cá nhân
quyết định, mối liên hệ được biểu hiện một phần trong những tiền đề kinh tế,
một phần trong sự cố kết tất yếu của sự phát triển tự do của tất cả mọi người,
và cuối cùng trong tính chất phổ biến của hoạt động của các cá nhân trên cơ
sở lực lượng sản xuất hiện có” [5]. Xã hội ấy cũng chính là: “... một liên hợp,
trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”[6], như C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã viết trong tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848).
Thứ tư, trong tư tưởng về dân chủ, C.Mác kế thừa có chọn lọc những
hạt nhân hợp lý và những giá trị nhân văntrong quan niệm về dân chủ của
nhiều nhà triết học trước đó, nhất là A-ri-xtốt và Hê-ghen. Mặc dù phê phán
những quan niệm sai lầm của Hê-ghen về chế độ nhà nước quân chủ chuyên
chế, trong đó quyền của nhà vua “dựa trên quyền uy thần linh”, về tính tất
yếu của đẳng cấp xã hội, về sự thần bí hóa và coi quy luật giá trị của xã hội
tư sản là “ánh hào quang của lý tính”..., C.Mác lại đánh giá cao và kế thừa từ
Hê-ghen nhiều tư tưởng quan trọng, trong đó có những tư tưởng về dân chủ.
Đặc biệt, C.Mác đồng tình với tư tưởng của Hê-ghen về sự công bằng trong
xã hội công dân, đánh giá cao việc Hê-ghen đưa ra cơ sở triết học cho việc
xây dựng và ban hành các bộ lOMoAR cPSD| 61197966
luật, cho quyền công bằng của nhân dân trước pháp luật và cho việc xét xử,
cũng như thực thi các bản án. Trong đó, nhất là tư tưởng của Hê-ghen trong
việc kiên quyết loại bỏ những biểu hiện tiêu cực gây khổ sở cho nhân dân do
sự chuyên quyền và những hoạt động bất hợp pháp của cá nhân ra khỏi các
hoạt động của toàn bộ hệ thống nhà nước.
Nghiên cứu tư tưởng của C.Mác về dân chủ, có thể thấy vấn đề cốt lõi,
trung tâm là tự do và vai trò quyền lực của nhân dân. Điều ấy cũng chứa đựng
ý nghĩa nhân văn cao cả khi hướng dân chủ tới mục đích tự do, công bằng và
hạnh phúc cho nhân dân. Ẩn chứa trong tư tưởng ấy, có thể nhận ra ba trụ cột
cơ bản của nền dân chủ theo quan niệm của A-ri-xtốt, đó là tự do, công lý và
chủ quyền của nhân dân.
2.2. Quan điểm của Ph.Ăngghen về dân chủ
Một trong những cống hiến vĩ đại của Ph.Ăngghen về lý luận là tư
tưởng về nguồn gốc nhà nước, bản chất dân chủ, về tiếp cận dân chủ từ góc
độ một hình thức nhà nước. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin, nhiệm vụ của cách mạng vô sản là sau khi dành được chính quyền,
phải biết sử dụng có hiệu quả quyền lực nhà nước để xây dựng một thiết chế
kinh tế, chính trị - xã hội mới, ở đó nhân dân lao động từng bước trở thành
người chủ của xã hội, đó là chủ thể tối cao, duy nhất của mọi quyền lực. Mác
và Ăngghen khẳng định: Giai cấp vô sản sau khi giảnh được chính quyền cần:
“Tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo ra quyền
lực thống trị chính trị của giai cấp vô sản” [10].
Theo Ăngghen, bản chất của dân chủ với tính chất là một chế độ nhà
nước, trong đó nhân dân giữ vai trò trung tâm; nhân dân là cơ sở quyết định,
là lý do tồn tại của chế độ nhà nước dân chủ, chế độ dân chủ là chế độ nhà nước của nhân dân.
Ăngghen đánh giá cao sự phát triển của dân chủ từ thấp đến cao, từ dân
chủ chủ nô đến dân chủ tư sản, sau này đến dân chủ vô sản (Dân chủ xã hội
chủ nghĩa). Mặc dù đánh giá cao những giá trị dân chủ đạt được trong chủ
nghĩa tư bản đương thời, đó cũng là kết quả của quá trình đấu tranh của giai cấp công lOMoAR cPSD| 61197966
nhân và nhân dân lao động, Ph.Ăngghen cũng khẳng định những mặt trái, hạn
chế của dân chủ tư sản. Ph.Ăngghen viết: “Chế độ dân chủ, giống như bất kỳ
chính thể nào khác, rốt cuộc cũng là sự mâu thuẫn ở ngay trong bản thân,
cũng là sự dối trá, chẳng qua cũng chỉ là sự giả dối…Tự do chính trị là tự do
giả, là chế độ nô lệ tồi tệ nhất; nó chỉ là vẻ bề ngoài của tự do, và vì thế, nó
là chế độ nô lệ. Bình đẳng chính trị cũng như vậy, vì thế chế độ dân chủ cũng
như bất kỳ hình thức quản lý nào khác, cuối cùng phải tan rã; sự giả dối không
thể tồn tại lâu dài, mâu thuẫn che đậy ở trong đó tất yếu sẽ bộc lộ ra; hoặc là
chế độ nô lệ thực sự tức là chế độ chuyên chế không che đậy; hoặc là tự do
thực sự và bình đẳng thực sự tức là chủ nghĩa cộng sản” [7].
Như vậy, việc phân tích của Ăngghen về tính chất tạm thời, tính chất
nhất định sẽ bị vượt qua của dân chủ tư sản đã dẫn đến tư tưởng về tính tất
yếu của cách mạng vô sản như là một bước mà xã hội loài người nhất định
phải trải qua để đi đến một xã hội dân chủ thực sự. Theo Ph.Ăngghen, bản
chất giai cấp của dân chủ tư sản là dân chủ đối với thiểu số bóc lột và chuyên
chính đối với đa số nhân dân lao động, đó là dân chủ giả dối của bản chất nô
lệ, dân chủ thực sự, tự do bình đẳng thực sự chỉ có thể đạt được dưới chủ
nghĩa cộng sản. Ph.Ăngghen cho rằng, xã hội xã hội chủ nghĩa – Cộng sản
chủ nghĩa sẽ tạo ra những điều kiện cần thiết để thực hiện trên thực tế nguyên
tắc: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người” [11].
Theo Ph.Ăngghen trong giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị, phải “giành lấy dân
chủ”. Người khẳng định chỉ có giành được chính quyền nhà nước, giai cấp
vô sản mới xây dựng và phát huy được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mới
hoàn thành được sứ mệnh lịch sử là đưa nhân dân, trước hết là nhân dân lao
động trở thành người chủ của xã hội, là chủ thể tối cao và duy nhất của mọi quyền lực.
Trong tư tưởng của Ph.Ăngghen về dân chủ, sự tham gia chính trị của
nhân dân là yếu tố cốt lõi, quyết định đối với vai trò làm chủ của nhân dân
trong chế độ nhà nước dân chủ. Do đó “Chế độ nhà nước, một khi không còn
là biểu hiện thật sự ý chí của nhân dân nữa thì trở thành một cái hữu danh vô thực” [8]. lOMoAR cPSD| 61197966
Dựa trên lý luận về hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên,
Ph.Ăngghen giải thích, dân chủ dựa trên quy luật vận động phát triển của xã
hội loài người, trong đó kinh tế là một yếu tố quan trọng. Dân chủ luôn gắn
liền với sự phát triển của lịch sử loài người, nó là sản phẩm phản ánh các mối
quan hệ của con người mà quan trọng nhất là quan hệ về kinh tế.
Ph.Ăngghen cho rằng, nền dân chủ tư sản chỉ là nền dân chủ giành cho
thiểu số bóc lột, tức là giai cấp tư sản dựa trên sự tước đoạt tự do của công
nhân và nhân dân lao động. Với những tên gọi, chiêu bài như: “Nhà nước
phúc lợi chung”, “nhà nước tự do”, “sản phẩm lao động toàn vẹn”…đã che
đậy bản chất bóc lột của giai cấp tư sản, nhằm biện hộ cho giai cấp tư sản,
những mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa tính chất xã hội hóa của sản xuất và
quan hệ tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này làm cho
các cuộc khủng hoảng về kinh tế xã hội của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu
sắc. Một nền dân chủ chân chính phải là nền dân chủ của đa số nhân dân lao
động, do đa số nhân dân lao động làm chủ quyền lực trong xã hội. Xã hội mới
ấy là xã hội cộng sản chủ nghĩa, đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen viết trong
tác phẩm Hệ tư tưởng Đức (1845): “Trong khuôn khổ của xã hội cộng sản
chủ nghĩa, cái xã hội duy nhất mà trong đó sự phát triển độc đáo và tự do của
các cá nhân không còn là lời nói suông – Sự phát triển ấy chính là do mối liên
hệ giữa những cá nhân quyết định, mối liên hệ được biểu hiện một phần trong
những tiền đề kinh tế, một phần trong sự cố kết tất yếu của sự phát triển tự
do của mọi người, và cuối cùng trong tính chất phổ biến của hoạt động của
các cá nhân, trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện có”[9]. Xã hội ấy chính là:
“Một liên hợp trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người” như C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết trong
tuyên ngôn Đảng cộng sản năm 1848 [12].
Nghiên cứu tư tưởng của Ph.Ăngghen về dân chủ, có thể thấy vấn đề
cốt lõi trung tâm là tự do và coi trọng quyền lực của nhân dân. Điều ấy cũng
chứa đựng ý nghĩa nhân văn cao cả khi hướng dân chủ tới mục đích tự do,
công bằng và hạnh phúc cho nhân dân. lOMoAR cPSD| 61197966
Ph.Ăngghen đã phân tích sự xuất hiện của nhà nước, đó là sản phẩm
của đấu tranh giai cấp, về bản chất nhà nước là quyền lực chính trị của giai
cấp thống trị về mặt kinh tế nhằm duy trì trật tự xã hội hiện hành, bảo vệ lợi
ích của giai cấp thống trị, trấn áp sự phản kháng của các giai cấp và tầng lớp
xã hội khác. Điều này theo quy luật lịch sử, giai cấp nắm chính quyền nhà
nước phải là giai cấp thống trị về mặt kinh tế, do đó cũng là giai cấp được xã
hội thừa nhận là đại biểu chung của xã hội. Trong thời cổ đại, đó là giai cấp
chủ nô, thời trung cổ là giai cấp quý tộc phong kiến; trong chủ nghĩa tư bản
đó là giai cấp tư sản và ngày nay, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là giai cấp vô
sản. Lịch sử cho thấy, giai cấp nắm chính quyền nhà nước thực hiện sự thống
trị chính trị dưới các hình thức nhà nước khác nhau. Mỗi kiểu nhà nước tồn
tại dưới hình thức nào tùy thuộc những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa
trong và ngoài nước, tùy thuộc vào tương quan so sánh lực lượng của các giai
cấp trong xã hội. Do vậy, nền dân chủ ở các xã hội có chế độ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, cũng có bước tiến lớn từ chế độ nô lệ đến chế độ
phong kiến và nhất là dưới chủ nghĩa tư bản.
Dưới chủ nghĩa tư bản, hình thức nhà nước phổ biến là chế độ cộng hòa
dân chủ tư sản (Cộng hòa tổng thống, cộng hòa nghị viện, cộng hòa hỗn hợp).
Nhà nước tồn tại dưới hình thức này thừa nhận quyền dân chủ của mọi công
dân, tuyên bố quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân cũng như V.I.Lênin đã
nhận xét: Chế độ cộng hòa tư sản “Xét về phương diện phát triển của xã hội
trên toàn thế giới, đều là một bước tiến rất lớn” [35].
Song, khi nhà nước còn tồn tại trên cơ sở chế độ chiếm hữu tư nhân tư
bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thì quyền lợi thực sự vẫn thuộc về giai cấp
tư sản. Do vậy, vạch trần bản chất dân chủ dưới chủ nghĩa tư bản, Ph.Ăngghen
khẳng định: “Người ta tưởng tượng là đã tiến được một bước táo bạo phi
thường, nếu họ tự giải thoát khỏi lòng tôn sùng chế độ quân chủ và trở thành
những người theo chế độ cộng hòa dân chủ. Nhưng thực ra, nhà nước chẳng
qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp
khác; điều đó, trong chế độ cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong
chế độ quân chủ” [1]. lOMoAR cPSD| 61197966
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Ph.Ăngghen hiểu khái niệm
dân chủ trước hết với tính cách là một khái niệm chính trị, dùng để chỉ chế độ nhà nước.
Ph.Ăngghen không thừa nhận chế độ thị tộc là một thể chế dân chủ vì
đó chưa phải là một chế độ chính trị. Tự do, bình đẳng, bác ái, tuy chưa bao
giờ được nêu thành công thức, nhưng vẫn là những nguyên tắc cơ bản của thị
tộc”. Ông gọi đây là nền “Dân chủ quân sự”.
Theo C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ có nền dân chủ mới, dân chủ vô sản, mới
làm cho nhân dân lao động thực sự làm chủ xã hội và làm chủ vận mệnh của
mình, kiểu mẫu của dân chủ vô sản chính là Công xã Pari, một hình thức tổ
chức nhà nước do những người cộng sản lãnh đạo - một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Tuy không phải là những người đầu tiên bàn về dân chủ và nêu lên ước
vọng về một xã hội dân chủ nhưng C.Mác và Ph. Ăngghen, lần đầu tiên chỉ
ra bản chất giai cấp của dân chủ, làm rõ những đóng góp và hạn chế của dân
chủ tư sản, từ đó tìm ra con đường để xây dựng một nền dân chủ mới - dân chủ vô sản.
3. Những nội dung cơ bản trong quan điểm của V.I.Lênin về dân chủ
3.1. Dân chủ và chế độ dân chủ
Trong Mười đề cương về chính quyền Xô viết, V.I.Lênin coi dân chủ
là tự do. V.I.Lênin nhấn mạnh: “Dân chủ là tự do, là bình đẳng, là quyết định
của đa số; còn có gì cao hơn tự do, bình đẳng, quyết định của đa số nữa”.
Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin nhiều lần
khẳng định rằng “chế độ dân chủ” là một hình thức nhà nước, một trong
những hình thái của nhà nước. Chế độ dân chủ cũng là nhà nước, do đó nhà
nước mà mất đi thì chế độ dân chủ cũng mất theo.
Những giá trị dân chủ, theo V.I. Lênin, cần được giai cấp công nhân
vận dụng để thực hiện sứ mệnh của mình, mà trước hết là để xây dựng một
chính đảng của giai cấp công nhân.
3.2. Bản chất giai cấp của vấn đề dân chủ
Dân chủ là một phạm trù lịch sử mang tính giai cấp khi xã hội xuất hiện
giai cấp và quan hệ giai cấp. Dân chủ luôn mang tính giai cấp và chịu sự chi lOMoAR cPSD| 61197966
phối của giai cấp cầm quyền. Về thực chất, dân chủ với tư cách là quyền lực
của nhân dân thì các thành quả của dân chủ là sự phản ánh những giá trị nhân
văn trong quá trình giải phóng con người. Theo V.I.Lênin, chế độ dân chủ
được coi như là một hình thức nhà nước đã mang bản chất giai cấp, vì thế
không thể tách rời vấn đề nhà nước với vấn đề giai cấp. Dân chủ với tư cách
là chế độ nhà nước gắn trực tiếp với một giai cấp cầm quyền nhất định dựa
trên một quan hệ sản xuất thống trị thì dân chủ bao giờ cũng mang tính giai
cấp, không bao giờ có thứ dân chủ thuần túy cho mọi giai cấp. Tính giai cấp
của dân chủ được phản ánh trong các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp
nhằm giải quyết vấn đề đặt ra là dân chủ cho giai cấp nào, tầng lớp nào, hạn
chế dân chủ và chuyên chính với ai. Mỗi giai cấp giải thích về dân chủ, cả về
phương diện lý thuyết và thực tế với các cách thức và mức độ khác nhau, tuỳ
lập trường, quan điểm và lợi ích của giai cấp mình.
3.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
V.I. Lênin trình đã trình bày nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ như sau:
Tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân tổ chức cơ bản của Đảng, Tất cả
các cơ quan cấp trên đều thực sự được bầu ra, có trách nhiệm báo cáo công
tác và có thể bị bãi miễn. Tổ chức đảng là tổ chức của những công nhân dân
chủ xã hội giác ngộ và sinh hoạt độc lập. Phải thực hiện bằng được chế độ tự
trị của mọi tổ chức đảng; Cần xóa bỏ và xóa bỏ bằng được sự tranh giành địa
bàn, sự lo sợ “phái” khác; Thống nhất về tổ chức, đồng thời có sự đấu tranh
thuần túy về tư tưởng giữa các trào lưu tư tưởng dân chủ - xã hội khác nhau
trong nội bộ các tổ chức đảng; Xác định rõ rệt nguyên nhân tranh 10 luận
giữa các trào lưu tư tưởng trong đảng là điều kiện cần thiết để phát triển đảng
một cách lành mạnh, để giáo dục giai cấp công nhân và tránh được sự sai lầm
về đường lối. …Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, theo V.I.Lênin, trong
Đảng cần phải thực hiện kỷ luật chặt chẽ, thống nhất; thực hiện nguyên tắc
thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên; tổ chức các cấp và toàn
thể đảng viên của Đảng lOMoAR cPSD| 61197966
phải chấp hành nghị quyết đại hội đại biểu của Đảng, phục tùng sự lãnh đạo của
Ban Chấp hành Trung ương.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của V.I.Lênin, nguyên tắc tập
trung dân chủ không chỉ là phương pháp và tác phong công tác của chính
đảng vô sản cầm quyền, mà trước hết và trên hết, nó chính là chế độ tổ chức
và nguyên tắc tổ chức của đảng.
3.4. Sự thống nhất biện chứng giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội
V.I.Lênin đã phân tích, làm rõ quan điểm về sự thống nhất biện chứng
giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin nói: “Không có chế độ dân chủ
thì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai nghĩa sau đây:
Thứ nhất: giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông
qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ.
Thứ hai: chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của
mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không
thực hiện được đầy đủ chế độ dân chủ.”
V.I.Lênin đòi hỏi những người cộng sản phải phân biệt sự khác nhau
về nguyên tắc giữa hai giai đoạn đấu tranh vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội,
mặc dù giữa chúng có sự giao kết với nhau. Theo Lênin, giai cấp vô sản không
thể đạt tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội nếu không thực hiện hoàn toàn và triệt
để chế độ dân chủ, nếu không đem những yêu sách dân chủ được đề ra một
cách kiên quyết nhất gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh cách mạng.
Tư tưởng về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lênin là di sản vô giá cho
các Đảng Cộng sản trong quá trình xây dựng tổ chức Đảng, xây dựng nền dân
chủ vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác -
Lênin về vấn đề dân chủ là thế giới quan và phương pháp luận chỉ đạo hoạt
động thực tiễn xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ cơ sở ở
nước ta hiện nay. Từ sự phân tích các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về dân chủ nêu trên, chúng ta thấy rằng dân chủ xã hội chủ nghĩa là bước phát
triển cao nhất trong sự phát triển của dân chủ, là thành quả của quá trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa và lOMoAR cPSD| 61197966
xây dựng xã hội chủ nghĩa, ở đó có sự kết tinh toàn bộ những giá trị dân chủ
đã đạt được trong lịch sử làm cho dân chủ trở thành một giá trị phổ biến thâm
nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1. Khái niện, bản chất, đăc ] trưng của nền dân chủ xã hôi ] chủ nghĩa ở Viêt Nam]
1.1. Khái niêm nền dân chủ ]
Trong các nghiên cứu khoa học ở nước ta về vấn đề dân chủ, nền dân
chủ hay chế độ dân chủ là hai khái niệm khác nhau có cùng bản chất, tuỳ theo
từng trường hợp cụ thể có thể sử dụng thay thế cho phù hợp.
Khái niệm chế độ dân chủ dùng để chỉ thiết chế xã hội nhằm thực hiện
quyền lực của nhân dân; còn khái niệm nền dân chủ phản ánh trạng thái dân
chủ trong tính chỉnh thể với hệ thống các thiết chế dân chủ được xác lập và
thực thi trong hiện thực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội theo mục tiêu
thực hiện quyền lực và bảo đảm lợi ích của giai cấp cầm quyền. Theo đó, nền
dân chủ là khái niệm phản ánh chỉnh thể xã hội được tổ chức, vận hành theo
các nguyên tắc, yêu cầu và chuẩn m c dân chủ nhằm th c thi quyền l c,
bảo đảm lợi ích của giai cấp cầm quyền và xã hôi.@
Với tư cách là một chỉnh thể xã hội hoàn chỉnh, nền dân chủ là một
phạm trù lịch sử, vì nó có sự ra đời, tồn tại và phát triển trong một giai đoạn
nhất định và sẽ mất đi khi trong xã hội không còn giai cấp. Tính lịch sử của
nền dân chủ còn thể hiện qua quá trình hình thành, phát triển, vận động từ
chỗ chưa có dân chủ đến có dân chủ, đến tồn tại, phát triển và tiêu vong. Chủ
nghĩa Mác - Lênin nêu rõ quá trình phát triển của dân chủ là “từ chuyên chế
đến dân chủ tư sản, từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản, từ dân chủ vô sản
đến không còn dân chủ chủ nữa” [36]. Do vậy, hình thức của các nền dân chủ
là đa dạng, vì chính thể của mỗi quốc gia không chỉ chịu sự chi phối của thể
chế chính trị mà còn chịu sự kiềm chế của các điều kiện thực tế của các chính thể khác nhau. Không có lOMoAR cPSD| 61197966
mô hình dân chủ và chế độ chính trị chung cho mọi quốc gia, dân tộc.
Xét về cấu trúc, nền dân chủ được cấu thành bởi nhiều yếu tố, bộ phận,
cả khía cạnh vật chất, tinh thần, yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, pháp
luật dân chủ; yếu tố thể chế và thiết chế dân chủ; cơ chế, nguyên tắc và các
giá trị, chuẩn mực dân chủ... Trong xã hội có giai cấp, nền dân chủ là một
chỉnh thể hiện th c trong đó có chế độ chính trị, nhà nước, pháp luật dân chủ;
sự làm chủ và chi phối giá trị dân chủ của giai cấp thống trị; sự đấu tranh,
vươn lên không ngừng của nhân dân lao động chống lại các biểu hiện phản
tiến bộ, phi dân chủ; sự tồn tại, hoạt động tự chủ, tự quản của các tổ chức
chính trị - xã hội; sự hiện hữu của các nguyên tắc, giá trị, chuẩn mực dân chủ
phản ánh trạng thái, mức độ giải phóng con người.
Về bản chất, nền dân chủ được hiểu là một chỉnh thể xã hội trong đó
các giá trị, chuẩn mực, yêu cầu, các nguyên tắc dân chủ được ghi nhận và
thực thi trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
Trên lĩnh v c chính trị, bảo đảm các nguyên tắc: tất cả quyền lực thuộc
về nhân dân, mọi quyền lực mà nhà nước có đều do nhân dân ủy quyền; bầu
cử tự do, công bằng; hạn chế quyền năng của nhà nước bằng hiến pháp; dân
chủ gắn với pháp luật, được bảo đảm bằng nhà nước pháp quyền; nhà nước
và mọi hoạt động của nhà nước phải đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân và
các tổ chức đại diện; bảo đảm quyền tham gia vào công việc nhà nước, xã hội
của người dân; mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; không hình thành
các thiết chế tổ chức làm nguy hại tới lợi ích của nhân dân, cản trở sự phát
triển lành mạnh của đất nước...
Trên lĩnh v c kinh tế, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặt nền
kinh tế dưới sự kiểm soát của nhân dân, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính
đáng của nhân dân; có cơ chế kinh tế trong đó, mọi người được làm tất cả
những gì pháp luật không cấm, người lao động có việc làm hữu ích, được
tham gia vào sở hữu, quản lý dưới những hình thức khác nhau và được thụ
hưởng thành quả lao động xứng đáng; kết hợp kế hoạch của nhà nước với
phát huy mọi tiềm năng kinh tế của người dân, bảo đảm quyền tự chủ, làm
chủ của doanh nghiệp và người lao động. lOMoAR cPSD| 61197966
Trên lĩnh v c xã hội, thiểu số phục tùng đa số nhưng tôn trọng quyền
của thiểu số; thống nhất trong tính đa dạng các khuynh hướng xã hội, bảo
đảm quyền được bảo vệ về mặt xã hội của mọi công dân; khắc phục sự khác
biệt giữa các tầng lớp xã hội, giữa các vùng miền của đất nước; quyền công
dân, quyền con người được bảo đảm bằng pháp lý và được thực thi trên thực tế...
Trên lĩnh v c văn hóa, bảo đảm quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do
suy nghĩ, tự do tư tưởng trong hoạt động khoa học, sáng tạo nghệ thuật và đời
sống tinh thần nói chung trên cơ sở đường lối chính trị chủ đạo và pháp luật
của nhà nước; hòa giải, hợp tác, khoan dung, đối thoại trong giải quyết các
mâu thuẫn, xung đột xã hội... dân chủ trong các quan hệ xã hội, trong ứng xử,
lối sống giữa con người với con người, dân chủ trong mọi thiết chế xã hội, từ
gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị, xã hội, dân sự, nghề nghiệp... ngày
một sâu sắc và phổ quát...
1.2. Bản chất nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa ở Viê]t Nam]
Nền dân chủ xã hôi_ chủ nghĩa ở Viêt_ Nam là nền dân chủ mang bản
chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại.
Bản chất giai cấp công nhân của nền dân chủ xã hôi_ chủ nghĩa ở Việt
Nam được thể hiện trong mọi lĩnh vực từ chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng và thực hiện pháp luật đến tổ chức
cán bộ đều phải thể hiện sâu sắc tư tưởng, quan điểm của giai cấp công nhân.
Nền dân chủ xã hôi_ chủ nghĩa ở Việt Nam lấy liên minh giai cấp công nhân
