-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Quan hệ đối ngoại Việt Nam thời Nhà Lý - Lịch sử ngoại giao Việt Nam | Học viện Ngoại giao Việt Nam
Sau buổi “hoàng hôn triều đại” của nhà Tiền Lê, nội trị bất ổn, ngoại giao gián đoạn thì đã có một vĩ nhân xuất hiện, mang theo một ánh hào quang đầy hứa hẹn để thay thế cho ánh sáng thoi thóp ấy
Môn: Lịch sử ngoại giao Việt Nam (IR.001.02)
Trường: Học viện Ngoại giao
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
00:35 7/8/24
Báo cáo Nhóm Lịch sử ngoại giao thời Nhà Lý
Quan hệ đối ngoại Việt Nam thời Nhà Lý
(1009 – 1225 )
- Sau buổi “hoàng hôn triều đại” của nhà Tiền Lê, nội trị bất ổn, ngoại giao gián
đoạn thì đã có một vĩ nhân xuất hiện, mang theo một ánh hào quang đầy hứa hẹn
để thay thế cho ánh sáng thoi thóp ấy. Ngài là Thái Tổ - Lý Công Uẩn và ánh hào
ấy chính là ánh sáng của nhà Lý, ánh sáng của Rồng vàng - Hoàng Long (dời đô
tới Thăng Long). Mở ra một kỷ nguyên mới cho nội trị cũng như bang giao của
Đại Cồ Việt (sau này là Đai Việt) nói riêng và lịch sử Việt Nam nói chung.
- Ngoại giao thời Lý mang tính kế thừa các hoạt động ngoại giao từ các 3 triều đại
trước như Ngô, Đinh, Tiền Lê mà đặc biệt là từ Tiền Lê và dựa trên những nển tảng
đó để ngày càng phát triển. Nhìn chung những mối quan hệ quan trọng mà nhà Lê
đã duy trì có thể kể đến như Chiêm Thành (Champa), nhà Tống (Trung Quốc).
Ngoài ra các mối quan hệ bang giao cũng đã được củng cố lên một tầm cao mới
khi những mối quan hệ với các nước về nhiều mặt được mở rộng đến một quy mô chưa từng có.
- Dựa vào sử sách, thời kỳ này Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao tương đối rộng
với rất nhiều quốc gia, một số thì được chép không rõ ràng nên hậu thế về sau sẽ có
những nhận thức mơ hồ và những giả thiết như là những sự suy đoán như: Xiêm
La, Trảo Oa, Đề Hi, Lộ Hạc,... Các quốc gia đó là: Bắc – Nam Tống (Trung Quốc),
Liêu – Kim, Tây Hạ, Đại Lí, đế chế Khmer, Chiêm Thành (Champa), Ai Lao, La
Hộc(Lavo), Tam Phật Tề(Srivijaya)…
A. Quan hệ đối ngoại thời nhà Lý với các nước là: 1. V
ới nhà Tống ( thời kì Bắc Tống 960-1127)
Ngay trong năm 1010 khi mới lên ngôi, Lý Thái Tổ đã bắt đầu sai sứ sang nhà
Tống. Sự kiện này mở đầu cho mối quan hệ bang giao trong 2 thế kỷ giữa nhà Lý
với nhà Tống của Trung Quốc. Theo đánh giá của các sử gia, việc tích cực và chủ
động quan hệ với phương Bắc nhằm gián tiếp khẳng định chính thống của nhà Lý
và sự tồn tại của nước Đại Cồ Việt Dưới thời Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông, việc
triều cống nhà Tống diễn ra đều đặn. Mỗi khi Đại Cồ Việt có vua mới, nhà Tống
đều sai sứ sang phong vương. Trong vòng 46 năm thời 3 vị vua đầu tiên của nhà
Lý, sử sách chỉ ghi nhận 3 lần nhà Tống sai sứ sang phong vương cho nhà Lý khi
các vua mới lên ngôi, không có những hoạt động ngoại giao trong thời các vua cai about:blank 1/10 00:35 7/8/24
Báo cáo Nhóm Lịch sử ngoại giao thời Nhà Lý
trị như thời Đinh và Tiền Lê. Sang thời Lý Thánh Tông, năm 1057 nhà Lý sai sứ
sang cống thú lạ cho nhà Tống, bảo là con lân. Vua Tống nghe lời Tư Mã Quang
(sợ không chắc là con lân thì các nước khác chê cười), liền thưởng cho sứ Đại Việt
rồi sai mang con thú về. Lý Thánh Tông giận nhà Tống, cho là phản phúc, năm
1059 bèn mang quân đánh vào Khâm châu để thị uy rồi rút về Sau lần hòa đàm
năm 1060, hoạt động ngoại giao được nối lại. Năm 1067, nhà Tống sai sứ sang gia
phong Lý Thánh Tông làm Nam Bình vương và Khai phủ Nghi đồng tam ty. Điểm
mới đó là lần đầu tiên nhà Tống cử sứ sang Đại Việt không vì việc thay ngôi vua
của nhà Lý. Theo thống kê của Hoàng Xuân Hãn, trong 63 năm đầu thời Lý, nhà
Lý đã cử 23 đoàn sứ bộ sang nhà Tống, trong đó 13 lần với mục đích kết hiếu và tạ
ơn, 3 lần báo tin thắng trận khi vừa đánh Chiêm Thành, 7 lần là các mục đích khác
(báo tang, mừng vua Tống lên ngôi, xin kinh Phật Sang thời Lý Nhân Tông, chỉ ...
vài năm sau khi nhà Lý tiếp nhận chức Giao Chỉ quận vương của vua Tống, chiến
tranh Tống-Lý nổ ra. Sau khi chiến tranh chấm dứt, việc ngoại giao giữa 2 nước
tập trung vào vấn đề đất đai biên giới Tống và Đại Việt. Lê Văn Thịnh – thủ khoa
đầu tiên của Đại Việt năm 1075 – được giao đi đàm phán với nhà Tống, kết quả tới
năm 1084, phần lớn đất đai bị Tống chiếm đóng trong chiến tranh được trả lại cho
Đại Việt. Tiếc đất, vì biết rằng nơi ấy có vàng, người Tống đặt thơ chữ Hán rằng:
"Nhân tham Giao Chỉ tượng/ Khướt thất Quảng Nguyên kim", Nghĩa là "tham voi
Giao Chỉ/ mất vàng Quảng Nguyên" (Quảng Nguyên là những vùng đất nay thuộc
tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn) 2. V
ới nhà Tống ( thời kì Nam Tống 1127-1279)
Từ năm 1127, nhà Tống bị mất phương bắc về tay người Kim, phải chạy xuống
Lâm An (Hàng Châu) đóng đô. Quan hệ ngoại giao giữa nhà Lý với Nam Tống vẫn
được duy trì, thậm chí có lần năm 1156 thời Lý Anh Tông, cống phẩm cho nhà
Tống có giá trị khá lớn. Đổi lại việc nhà Lý giữ quan hệ hữu hảo khi nhà Tống đã
suy, năm 1164 khi sứ thần Doãn Tử Tư, Lý Bang Chính sang Lâm An, vua Tống
Hiếu Tông tiếp đón và ban lệnh đổi tên "Giao Chỉ" thành "An Nam", phong Lý
Anh Tông làm"An Nam quốc vương nhằm “nhắc nhở” về lòng trung thành của nhà
Lý đối “thiên triều” trong bối cảnh đang bị ngoại bang uy hiếp(Kim, Tây Hạ và sau
này là Mông Cổ) nghĩa là trong quan hệ ngoại giao giữa Tống và Việt từ đó, Đại
Việt không còn là một quận mà chính thức được coi là một nước phiên thuộc,
mang tên An Nam điều này phản ánh đúng vì tiềm lực quốc gia và tình hình chính
trị đương thời, là những điều chi phối các hoạt động đối ngoại và hai nước có
nhiều sự qua lại hơn. Từ thế kỉ 13 vì loạn lạc trong nước và cũng bị ngoại bang about:blank 2/10 00:35 7/8/24
Báo cáo Nhóm Lịch sử ngoại giao thời Nhà Lý
quấy phá: năm 1203, 1204, 1205 trong nước loạn lạc liên miên; năm 1203 quân
Chiêm Thành đến cướp phá; liên tiếp 2 năm 1203, 1204 loạn tại vùng ngã ba sông
Đáy và sông Hoàng Long tỉnh Ninh Bình, triều đình mang quân tiếp viện nhưng
không thắng nên việc sang sứ tiến cống nhà Tống không được thực hiện cho tới hết thời Lý (1225).
Các sử gia đã thống kê được trong thời gian tồn tại 216 năm, nhà Lý đã 57 lần sai
sứ sang nhà Tống. Những lần cử sứ sang phương Bắc, nhà Lý đều chọn người có
học thức, có tài ứng đối, biết làm thơ. Các sứ đoàn luôn thể hiện tinh thần tự tôn
dân tộc, giữ thể diện quốc gia 3. Với nhà Kim:
Nhà Kim là một nước lớn mạnh nằm ở miền Bắc của nhà Tống. Quốc gia này có
nhiều hiềm khích, tranh chấp và xung đột đối với Nam Tống. Tuy nhiên nhà Lý đã
vô cùng khéo léo khi thực hiện chính sách đối ngoại với cả hai quốc gia này một
cách khôn khéo. Năm 1168, khi nhà Kim sai sứ giả đến Đại Việt. Lúc đấy sứ giả
của Nam Tống cũng đang có mặt ở nước ta. Nhà Lý đã sắp xếp tiếp đón chu đáo cả
hai sứ giả nhưng không để hai nước gặp mặt nhau. Sự kiện này là minh chứng rõ
nhất thể hiện sự khôn ngoan của nhà Lý đối với cả Nam Tống và nhà Kim. Vốn là
hai quốc gia không đội trời chung nhưng lại đều có mối quan hệ ngoại giao khá
giao hảo đối với Việt Nam 4. Với Chiêm Thành:
Năm 982, sau khi bị vua Lê Đại Hành đánh bại, Chiêm Thành đã tỏ ra thần phục.
Từ thời Tiền Lê đến thời nhà Lý, Chiêm Thành thường xuyên triều cống cho nước
ta. Đặc biệt, trong thời nhà Lý, Chiêm Thành sai sứ sai triều cống khoảng 43 lần.
Vua Chiêm là Jaya Harivarman đã thực hiện chính sách liên hôn bằng cách cho con
gái sang làm cung phi của vua Lý Anh Tông. Thậm chí, vua Suryavarman cũng
đến nước ta để xin được sắc phong, mong muốn nhận được sự công nhận của nhà
Lý. Cuối năm 1077, vua Lý Nhân Tông còn giúp Chiêm Thành đánh thắng Khmer.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa triều Lý với Chiêm Thành ấm lạnh bất thường. Người
Chiêm Thành đã từng mang người sang đánh phá vùng biên giới, quấy rối Nghệ
An 5 lần vào các năm 1132, 1166, 1177, 1203, 1218. Đứng trước sự quấy nhiễu đó,
nhà Lý đã kiên quyết dùng biện pháp quân sự để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Quan
hệ ngoại giao giữa nhà Lý với Chiêm Thành cũng có đôi lúc gián đoạn. Năm 1028,
khi vua Lý Thái Tông mới lên ngôi, từ đó đến 16 năm sau, vua Chiêm không tiến hành triều cống. about:blank 3/10 00:35 7/8/24
Báo cáo Nhóm Lịch sử ngoại giao thời Nhà Lý
Ngoại giao thời Lý có thể được đánh giá là một đường lối ngoại giao rất thành
công. Chính sách ngoại giao thời đại này vừa giữ vững được độc lập, chủ quyền
của nước Đại Việt cũng vừa thể hiện được tư duy, tầm nhìn, chiến lược của các vị
vua nhà Lý. Chính những đường lối đối ngoại độc đáo này vừa là tiền đề vừa là
thành tựu để các thời đại sau có thể kế thừa và phát triển nhằm tạo nên một đất nước phồn thịnh nhất.
5. Với các nước khác:
*) Đại Việt – Chân Lạp (nay là Campuchia): Vừa đấu tranh vừa giao lưu hợp tác.
- Khi nhà Lý thành lập và khi cũng là thời kì vương triều Angkor đang phồn thịnh,
thậm chí hai bên từng đụng độ nhau nhiều lần.
- Chân Lạp cũng là nước cướp phá vùng biên giới của Đại Việt nhiều nhất so với
các nước khác. Nhưng dù vậy, Đại Việt luôn giành thắng lợi.
- Từ khi nhà Lý thành lập, Chân Lạp đã cho sứ sang đặt quan hệ.
- Các sử gia thống kê trong 183 năm (1012-1195), Chân Lạp có 24 lần cử sứ sang
Đại Việt [Đại Việt Sử Ký Toàn Thư]. Trong đó, còn có cả giao lưu tôn giáo, và
trong các dịp lễ của Chân Lạp thì Đại Việt cũng sang mừng và tặng lễ vật.
- Cuối thế kỷ XII sang đầu thế kỷ XIII, cả nhà Lý và Chân Lạp đều bước vào thời kỳ suy yếu.
*) Ai Lao - Đại Việt: Triều cống -> Xung đột.
- Khi nhà Lý thành lập, quan hệ giữa Đại Việt với Lào được sử sách ghi nhận lần
đầu vào năm 1067, Ai Lao dâng vàng bạc, trầm hương,… và các thứ sản vật địa
phương [Nguyễn Quang Ngọc (2010), Vương triều Lý trang 398].
- Việc ngoại giao hai bên không được duy trì thường xuyên. Do sự thù địch giữa
hai bên. Nhà Lý đã nhiều lần cử tướng đi đánh Ai Lao cho những xung đột tại biên
giới vào các năm 1048, 1159, 1183 và đều thắng lợi.
B. Những thành tựu mà nhà Lý đạt được trong công tác đối ngoại:
Những thành tựu và bài học kinh nghiệm trong quan hệ ngoại giao của thời đại
trước thế kỷ X được triều Lý kế thừa, ứng dụng và nâng lên một tầm cao mới. Dù
trong bất cứ thời đại hay triều đại nào thì mục tiêu của đấu tranh ngoại giao đều
nhằm mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ. Nhận thức about:blank 4/10 00:35 7/8/24
Báo cáo Nhóm Lịch sử ngoại giao thời Nhà Lý
được sứ mệnh đặc biệt quan trọng của mình, nhà Lý đã có những chính sách đúng
đắn để bảo vệ và phát triển đất nước phồn vinh.
Chính sách ngoại giao đúng đắn, tích cực, chủ động. Đối với phương Bắc thì mềm
dẻo nhưng kiên quyết, còn đối với phương Nam thì linh hoạt nhưng kiên quyết.
Thực hiện linh hoạt, sáng tạo các chính sách, biện pháp ngoại giao “kiên quyết”,
“biết mình biết ta”, “kiên trì”, “lúc cương lúc nhu”, mềm dẻo có nguyên tắc. Hòa
mục bên trong, hòa hiếu bên ngoài là bản sắc của ngoại giao Việt Nam và “trong
xưng đế, ngoài xưng vương” là một trong những chính sách mà các triều đại phong
kiến nước ta đã vận dụng để xử lý quan hệ của đất nước với nước láng giềng.
Kết hợp sức mạnh tổng hợp của đối nội và đối ngoại bảo vệ đất nước khỏi nguy cơ
xâm lược của giặc ngoại xâm. Lần đầu tiên trong lịch sử vệ quốc của dân tộc, với
Lý Thường Kiệt thì kế sách của ta đã xuất hiện sự phối hợp “vừa đánh vừa đàm”
để bảo vệ độc lập.
Các sử gia cho rằng, ngoài việc thiết lập hòa bình với các nước xung quanh để tạo
ra môi trường ổn định, phát triển kinh tế - xã hội trong nước, các quan hệ ngoại
giao với mật độ lớn thời Lý khẳng định vị thế của nước Đại Việt với các quốc gia
láng giềng (1). Đại Việt chủ trương giữ quan hệ hoà hiếu với tất cả các nước trong
vùng. Với việc thiết lập quan hệ hợp tác từ nước lớn đến nước nhỏ, từ những quốc
gia đất liền đến những quốc gia hải đảo đã thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu rộng
của các đời vua Lý. Tuỳ thế và lực ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, các chính sách
của nhà Lý lại mang những đặc sắc riêng, đây là biện pháp duy trì sự ổn định và là
minh chứng cho sự thiết lập quan hệ ngoại giao với các quốc gia, dân tộc khác.
Chính sự khôn ngoan, khéo léo này đã tránh được những hiểu lầm, những cuộc
chiến không đáng xảy ra, tránh gây tổn hại đến an ninh nước nhà. C. Nét độc đáo:
Trong cuộc đấu tranh chống Tống, thấy nhà Tống chuẩn bị xâm lược quá ráo riết,
nhà Lý quyết định thực hiện một chiến lược khá độc đáo, phá tan kế hoạch của
giặc trên đất giặc: “tiên phát chế nhân” (đem quân ra trước để chặn thế mạnh của
giặc). Khi biết quân Tống đã cùng đường, Lý Thường Kiệt mở đường cho giặc:
“Dùng biện sĩ để bàn hoà, khiến tướng giặc phải buông vũ khí, quân ta đỡ tốn
xương máu mà giữ yên xã tắc”. Ông đưa tin cho địch: “Rút quân về thì giao hảo”.
Đây là nét nghệ thuật vô cùng độc đáo trong đấu tranh của triều Lý “đánh trận
quân sự nhưng kết thúc bằng ngoại giao”. about:blank 5/10 00:35 7/8/24
Báo cáo Nhóm Lịch sử ngoại giao thời Nhà Lý
Trong quá trình kháng chiến nhà Lý đã sử dụng văn học làm đòn phủ đầu và cũng
nhằm để khích lệ tinh thần tướng sĩ. Trước khi tiến quân vào đất Tống, Lý Thường
Kiệt cho truyền “Lệ bố” đi khắp miền Quảng Đông, Quảng Tây. “Lệ bố”- bản hịch
dọc đường (6). Giữa lúc chiến sự đang diễn ra quyết liệt, Lý Thường Kiệt cho đọc
bài thơ khích lệ tướng sĩ: “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư/Tiệt nhiên định phận tại
thiên thư/Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”(7).
Nhà Lý thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo, chủ động cử xứ giả sang Tống,
hàng năm vẫn triều cống và chấp nhận là phiên thần. Với phương Bắc, thời kì này
cũng có một điểm sáng rất quan trọng trong đường lối ngoại giao. Đó là việc nhà
Lý được Trung Quốc thừa nhận là một quốc gia độc lập, thể hiện qua việc năm
1164 vua Lý Anh Tông được thụ phong An Nam quốc
vương - đánh dấu việc chuyển biến về vị thế của Việt Nam trong bang giao với
Trung Quốc (8). Ngoài việc bang giao chính thức còn có các hoạt động buôn bán
nơi biên thuỳ. Sau khi đã đuổi được quân Tống về nước thì lần lượt thu hồi các
vùng đất bị quân Tống chiếm bằng biện pháp đàm phán ngoại giao kết hợp uy hiếp quân sự.
Đến thời nhà Lý, ngoại giao Đại Việt đã phát triển theo hướng đa dạng hơn các
thời đại trước. Chủ trương buôn bán, giao du với nhiều quốc gia, nhiều vùng khác
nhau: Xiêm La, Trảo Oa, Đề Hi, Lộ Hạc, Bắc – Nam Tống, Liêu – Kim, Tây Hạ,
Đại Lí, đế chế Khmer, Chiêm Thành, Ai Lao, La Hộc (Lavo), Tam Phật Tề (Srivijaya)...
D. Nguyên nhân, nguồn gốc và bài học kinh nghiệm để lại của những thành tựu ngoại giao đó:
- Biết dựa vào thế nước, nhất là dựa vào chiến thắng quân sự để hoạch định nên đối
sách tiếp theo với địch với mục tiêu đè bẹp ý chí xâm lược của địch, củng cố thành
quả vừa đạt được và hướng tới những mục tiêu khác. Nhà Lý được hình thành và
tiềm lực ngày càng được củng cố với bằng chứng cụ thể là việc dời đô của Lý
Công Uẩn (1010)- rời thành Hoa Lư mang nặng tính phòng thủ về Đại La thuận lợi
cho phát triển kinh tế đã cho thấy sức mạnh của Đại Việt thời bấy giờ đang trên đà
phát triển. Trong khi đó, nhà Tống đang dần suy yếu, gặp khó khăn về nội trị cũng
như nguy cơ giặc ngoại xâm từ phương Bắc. Dưới triều đại nhà Lý ta đã chứng
kiến sự kiện “ vô tiền khoáng hậu” – nước ta chủ động phát động chiến tranh với
một quốc gia phương Bắc. Từ 1075, sau hai lần bị đại bại ở Ung Khâm Liên (năm
1075) và Bắc sông Như Nguyệt (năm 1077), đối với Đại Việt, thái độ của nhà Tống about:blank 6/10 00:35 7/8/24
Báo cáo Nhóm Lịch sử ngoại giao thời Nhà Lý
có phần kính nể hơn trước, nhà Lý vẫn chủ trương tiếp tục giao hiếu, cứ các phái
đoàn sang cầu phong và cống phương vật, quan hệ Tống-Lý trở nên bình thường.
-Vừa đánh vừa đàm, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao,
chuyển sang đấu tranh ngoại giao đúng lúc đã khiến cho thế lực thù địch sẵn sàng
tiếp nhận. Cụ thể hơn, trong cuộc kháng chiến chống Tống lần Hai, Lý thường Kiệt
sau khi chặn đứng và tiêu diệt quân địch ở phòng tuyến sông Như Nguyệt đã dùng
biện pháp “dùng biện sĩ để bàn hòa. Không nhọc tướng tá, khỏi tốn máu mủ mà
bảo an được tông miếu”. Đề nghị bàn hòa của Lý Thường Kiệt đã mở ra lối thoát
cho Quách Quỳ và Triệu Tiết.
- Do ảnh hưởng của Phật Giáo tác động tới ngoại giao thời Lý với triết lý, tư tưởng
“Từ Bi Hỷ Xả” của giáo lý nhà Phật đã tác động đến chính sách ngoại giao nhà lý,
khiến cho nó trửo nên mềm dẻo, linh hoạt và nhân văn. Chính sách ngoại giao
khôn khéo của nhà Lý trước hết à nhằm bảo vệ và củng cố chính quyền, song việc
đối xử nhân ái với những tù binh chiến tranh xuất phát từ tư tưởng và cái tâm của
người cầm quyền. Đặc biệt, trong giai đoạn này, Phật giáo đã phát triển thành quốc
giáo, hòa quện với tinh thần nhân đạo của dân tộc ta đã làm nên một chính sách
ngoại giao mang bản sắc riêng và đậm tính nhân văn.
- Dù giao hảo với nhiều quốc gia: Chân Lạp, Xiêm, Java,Malaysia,... thông qua
hoạt động buôn bán và trao đổi nhưng triều đình nhà Lý vẫn luôn đề cao cảnh
giác, có những biện pháp quản lý chặt chẽ an ninh, Đại Việt chủ trương hòa hiếu
trong mối quan hệ với các nước trong khu vực
- Đấu tranh kiên trì, sách lược linh hoạt và nhằm vào mục tiêu cụ thể. Vào thời Lý,
nội dung cốt lõi trong chính sách ngoại giao là cứng rắn, kiên quyết. Nội dung đó
được thể hiện trong các cuộc đấu tranh quân sự nhằm bảo về chủ quyền quốc gia,
dân tộc : Các cuộc chiến tranh bảo vệ lãnh thổ ở biên giới, kháng chiến chống quân
Tống xâm lược (1075-1077),... Bên cạnh đó, sự linh hoạt, mềm dẻo với từng chủ
thể ngoại giao cũng được đề cao trong thời kì này.
Tóm lại, do biết đề cao tinh thần tự lập, tự cường, lòng tự tôn dân tộc, củng
cố sức mạnh tiềm lực, phân tích đúng đăn các mặt lợi hại và tương quan lực lượng
giữa ta và nước bạn, nhà Lý đã có những chính sách ngoại giao vô cùng đúng đắn,
tích cực, chủ động. Chính sách ngoại giao thời nhà Lý đã bảo vệ thành quả mà đất
nước ta giành được trên mặt trận quân sự, giữ vững non sông, bờ cõi, chủ quyền
của ông cha ta để lại, đè bẹp ý chí xâm lược của bè lũ phong kiến Phương Bắc, ổn
định hóa đất nước trong một thời gian dài về sau. about:blank 7/10 00:35 7/8/24
Báo cáo Nhóm Lịch sử ngoại giao thời Nhà Lý Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Quang Ngọc (2010) – Vương Triều Lý
2. Đại việt sử ký toàn thư – Ngô Sĩ Liên
3. Kỷ yếu hội thảo khoa học”1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục
5. Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý
6. Trần Minh Trưởng (Chủ biên): Vận dụng sáng tạo và phát triển tư
tưởng, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh trong tình hình mới, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017, tr. 22 - 23
7. Trần Chí Trung, tạp chí Cộng Sản, Bản sắc ngoại giao Việt Nam:
Một vài suy ngẫm nhìn từ lịch sử dân tộc
8. Nguyễn Ngọc Cơ (Chủ biên): Một số vấn đề Lịch sử Việt Nam,
Nxb: Đại học quốc gia Hà Nội
9. Nguyễn Lương Bích, Lược sử ngoại giao Việt
Nam các thời trước, Nxb: Quân đội nhân dân.
10. Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Kế sách giữ nước
thời Lý-Trần, Nxb: Chính trị quốc gia. Chú thích
1. “Lệ bố”: “Lệ” là để ngỏ, “Bố” là tố cáo. Lệ bố là những tờ hịch nói công khai
cho dân chúng biết. Nội dung các lệ bố nhằm mấy điều: 1. Nói rõ mục đích cuộc
hành quân của ta không phải là cướp nước hại dân. 2. Vạch rõ những sai trái, about:blank 8/10 00:35 7/8/24
Báo cáo Nhóm Lịch sử ngoại giao thời Nhà Lý
ngang ngược của triều đình nhà Tống đối với nước ta. 3. Kể tội tể tướng Tống là
Vương An Trạch và triều đình Tống đã dùng “tân pháp” để đàn áp, bóc lột nhân
dân Tống. 4. Nêu cao ý nghĩa cuộc hành quân của ta không phải chỉ vì lợi ích của
ta mà còn vì lợi ích của nhân dân Tống. (Nguyễn Lương Bích, Lược sử ngoại giao
Việt Nam các thời trước).
2. Trước vua Lý Thái Tổ, các dòng họ Đinh - Tiền Lê khi “sứ Tống sang sách
phong tước phong chức Kiểm hiệu thái úy rồi đến chức Tiết độ, độ hô sau mới
phong là Quận vương. Như vậy, triều Lý đã nhanh chóng được triều Bắc Tống thừa
nhận trên phương diện bang giao. Theo Tống sử quyển 488 phần “Giao Chỉ
truyện” còn chép thêm các tước hiệu vua Lý Thái Tổ phụ phong là Kiểm hiệu thái
phó, An Nam đô hộ, Tiết độ quan sát, Sử trí đẳng sứ, Ngự sử đại phu, Thượng trụ
quốc và được ân tứ cho hiệu là Suy thành Thuận hóa công thần. Sử thần Ngô Thì
Sĩ nhận định sự kiện vua Lý được nhà Tống phong làm An Nam quốc vương đã đặt
cơ sở “định vị” vị thế của nhà Lý so với nhà Tống trong hoạt động bang giao trở về
sau bởi lẽ: “Đến họ Đinh, họ Lê kế tiếp các nơi đất ấy, mới lên ngôi xin mệnh lệnh
hoặc gia phong kiểm hiệu Thái sư hoặc Giao Chỉ quận vương, hồi lâu mới tiến
phong Nam Bình Vương, khi mất mới tặng chức Thị trung tước Nam Việt vương.
Các vua triều Lý kế tiếp nhau đều như vậy. Đến bây giờ, có trí khôn phụng mệnh
trời, hết lòng thờ nước lớn, 3 sứ thần đến cửa khuyết, giữ đủ 2 món lễ. Áo mũ và
con người đã thể hiện rõ văn minh trong nước, rất được vua Tống tán thưởng, bèn
đặt tên nước, trao cho tước Chân vương. Về sau các đời kế nhà Tống nổi lên tuy
muốn làm nhỏ đi nhưng không thể thay đổi được”. about:blank 9/10 00:35 7/8/24
Báo cáo Nhóm Lịch sử ngoại giao thời Nhà Lý about:blank 10/10