











Preview text:
lOMoAR cPSD| 61096931
Khái niệm: Quan hệ hai bên trong quan hệ lao động là sự tương tác giữa một bên
là người lao động (đại diện người lao động) còn một bên là người sử dụng lao động
(đại diện người sử dụng lao động).
Ví dụ: bạn A nhân viên pha chế (người lao động) làm thêm tại quán caffe (người
sử dụng lao động) Bản chất:
• là sự tương tác trực tiếp giữa người sử dụng lao động và người lao động hoặc
đại diện của mỗi hai bên trong hoạt động lao động ở cấp ngành, cấp doanh nghiệp
• cơ chế hai bên với việc thực hiện đúng và có hiệu quả việc hướng dẫn, tạo điều
kiện thúc đẩy QHLĐ phát triển hài hòa, ổn định và tiến bộ, đảm bảo quyền, lợi
ích trực tiếp của người lao động và doanh nghiệp
• Sự vận hành cơ chế hai bên sẽ cải thiện một cách tích cực mối quan hệ tương
tác tay đôi giữ người sử dụng lao động và người lao động,
Ví dụ: bạn A đi làm, hoàn thành công việc đầy đủ, dọn rửa quán gọn gàng sạch sẽ,
tuân thủ mọi yêu cầu quán đưa ra.Cuối tháng quán trả lương cho bạn công với tiền
thưởng doanh số tại quán . Đặc điểm:
• chỉ có 2 bên tham gia là người lao động và người sử dụng lao động .
• tương tác giữa 2 bên là độc lập, không có sự can thiệp của bên t3.
• cơ chế 2 bên được giải quyết bằng những đặc thù (tùy ngành hoạt động). mqh
của 2 bên trong cơ chế tương đối và bình đẳng .
Ví dụ: khi quán (người sử dụng lao động) xảy ra bất cứ vde gì giữa bạn A (người
lao động), cả 2 bên sẽ tôn trọng và đưa ra cách giải quyết tố (giải pháp giữa 2 người ) Vai trò:
• đảm bảo quyền lợi của người lao động đối với người sử dụng lao động.
• hỗ trợ phát huy năng lực của người lao động .
• đảm bảo sự hài hòa trong môi trường làm việc .
• đảm bảo sự phát triển ổn định của của doanh nghiệp .
Ví dụ: đến làm ở quán bạn A sẽ đượng hưởng những quyền lợi đặc biệt và riêng đối
với nhân viên, và quán cx cam kết với những chính sách thỏa đáng thích hợp giúp lOMoAR cPSD| 61096931
tạo điều kiện cho bạn A học và làm việc tại quán. Những chính sách nằm trong
thỏa thuận của 2 bên khi cả 2 bàn giao và nhận công việc .
Điều kiện để cơ chế hai bên vận hành hiệu quả :
• có khuôn khổ, quy định rõ ràng cụ thể, có hiệu lực cao .
• môi trường hoạt động là thị trường lao động ng lao động và ng sử dụng lđ ràng
buộc bằng mqh làm thuê .
• các đại diện của mỗi tổ chức phải tích cự để bảo vệ quyền lợi và lợi ích cho bên mình .
• có và cần sự tồn tại và hiệu lực cao của tổ chức trung gian như tòa án lao động
(tổ chức hòa giải lao động).
Ví dụ: trong những chính sách quán đưa ra sẽ có những quy định rõ ràng. Về hình
thức sẽ chặt chẽ khắt khe theo từng cấp độ (tính nghiêm trọng của công việc). Và
nếu có vấn đề nghiêm trọng xảy ra tại nơi làm việc bạn A (người lao động) sẽ phải
đối mặt với những hình phạt thích đáng như bồi thường thiệt hại hay sẽ cần triệu
tập và mời bên thứ 3 can thiệp (tòa xét xử, tổ chức hòa giải lao động). lOMoAR cPSD| 61096931
SỰ PHỐI HỢP GIỮA CƠ CHẾ 2 BÊN VÀ 3 BÊN.
• Nguyên nhân
- Quan hệ lao động rất phức tạp cả về nội dung lẫn phạm vi ảnh hưởng.
- Do vậy, bên cạnh những vấn đề chung (có ảnh hưởng lớn, rộng rãi và lâu dài) phải
giải quyết bằng cơ chế 3 bên, cũng có những vấn đề cụ thể hơn không cần sự tham
gia trực tiếp của Chính phủ.
- Các quy luật kinh tế khách quan đòi hỏi sự vận động tương đối độc lập của hai lực
lượng cơ bản trên thị trường lao động (là cung, là cầu về lao động).
- Để thị trường lao động vận hành linh hoạt, khai thác hiệu quả các nguồn lực của đất
nước, Chính phủ cần tạo ra các điều kiện rộng rãi để cung và cầu lao động trực tiếp
tương tác với nhau để xác định giá cả (tiền lương), chất lượng hàng hóa sức lao động
và điều kiện lao động.
- Trong bối cảnh toàn cầu hóa, môi trường kinh tế xã hội của mỗi quốc gia ngày
càng có nhiều biến động khó lường.=> Điều này làm nảy sinh các vấn đề mới ảnh
hưởng đến quyền lợi của các bên đòi hỏi có nhiều cơ chế xử lý khác nhau.
- Những xu hướng thay đổi vai trò của Chính phủ trong phát triển kinh tế xã hội. Trong
cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Chính phủ can thiệp trực tiếp, triệt để vào các vấn đề của quan hệ lao động.
+Những nước trước kia áp dụng mô hình này có xu hướng giảm bớt sự can thiệp
hành chính của Chính phủ nhường chỗ cho sự tương tác tay đôi giữa người lao động
và ngưới sử dụng lao động.
+ Trong khi ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển đề cao vai trò của “
bàn tay vô hình” trong thị trường lao động ngày nay lại có xu hướng tăng cường vai
trò của Chính phủ trong việc kế hoạch hóa thị trường lao động. Do vậy, sự tham gia
của Chính phủ vào quan hệ lao dộngđang ngày càng tăng làm cho cơ chế ba bên phát huy tác dụng.
+ “Bàn tay vô hình” là một phép ẩn dụ cho các lực lượng vô hình di chuyển nền kinh
tế thị trường tự do. Thông qua lợi ích cá nhân và tự do sản xuất và tiêu dùng, lợi ích
tốt nhất của toàn xã hội được thực hiện. Tác động qua lại liên tục của các áp lực cá
nhân đối với cung và cầu thị trường gây ra sự chuyển động tự nhiên của giá cả và dòng chảy thương mại.
Như vậy, cần có sự phối cơ chế 2 và 3 bên để đáp ứng nhu cầu của thị
trường lao động, để giải quyết các vấn đề trong quan hệ lao động.
Ví dụ về “bàn tay vô hình” của chính phủ lOMoAR cPSD| 61096931
VD1: Một doanh nghiệp nhỏ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt.
Để định vị tốt nhất trên thị trường, doanh nghiệp nhỏ quyết định sẽ đầu tư
vào nguyên liệu chất lượng cao hơn cho quy trình sản xuất cũng như giảm
giá. mặc dù doanh nghiệp nhỏ có thể làm như vậy vì lợi ích tốt nhất của công
ty (tức là để thúc đẩy doanh số bán hàng và chiếm thị phần), nhưng bàn tay
vô hình đang hoạt động vì thị trường hiện có khả năng tiếp cận với hàng hóa
chất lượng cao hơn nhưng giá cả phải chăng hơn.
VD2: Nếu để cánh lái buôn tự cạnh tranh với nhau, thị trường sẽ vận hành 1
cách suôn sẻ như thể có 1 bàn tay vô hình dẫn dắt. Nếu có ng bán hàng rẻ
hơn bạn, khách sẽ tự động mua của họ, do đó bạn sẽ phải hạ giá hoặc bán thứ khác tốt hơn lOMoAR cPSD| 61096931 1. Sự thống nhất
- Cấp độ tương tác: Cấp Trung ương, địa phương – cấp ngành, doanh nghiệp
- Nội dung giải quyết: định hướng chủ trương chính sách – vấn đề cụ thể tại nơi làm việc.
- Kết quả đạt được: là hành lang pháp lý – cơ sở nảy sinh các vấn đề
- Cơ chế ba bên và cơ chế hai bên không xung khắc mà thống nhất với nhau.
- Cấp độ cơ chế: Cơ chế ba bên hoạt động chủ yếu ở cấp Chính phủ và địa
phương.(Trong khi cơ chế hai bên chủ yếu hoạt động ở cấp doanh nghiệp và cấp ngành).
- Vấn đề quan tâm: Cơ chế ba bên giải quyết các vấn đề về định hướng chính sách
liên quan đến lao động trong khi cơ chế hai bên giải quyết cụ thể của doanh nghiệp, của ngành.
- Kết quả đạt được: Kết quả của cơ chế ba bên là hành lang pháp lý, là khuôn khổ
cho sự tương tác cơ chế hai bên. Trong khi sự tương tác tay đôi ở cấp doanh
nghiệp và cấp ngành là cơ sở nảy sinh các vấn đề mà cơ chế ba bên phải giải
quyết. Một cơ chế hai bên lành mạnh cũng góp phần vào thành công của cơ chế ba bên.
- Một cơ chế ba bên tốt, không thể thay cơ chế hai bên mà là điều kiện nâng cao
hiệu quả vận hành của cơ chế hai bên. Cơ chế ba bên hoạt động càng hiệu quả,
các cuộc thương lượng ở cấp ngành, cấp doanh nghiệp càng dễ dàng đạt được
sự thống nhất. Ngược lại, cơ chế hai bên tốt sẽ nâng cao hiệu quả cơ chế ba bên.
Sau đó bằng việc thực hiện quyền tự do liên kết các tổ chức của cả phía NLĐ
và NSDLĐ được hình thành ở tầm quốc gia, đại diện của tổ chức này cùng với
đại diện của Chính phủ có mối quan hệ với nhau để cùng bàn bạc và giải quyết
những vấn đề có liên quan trong lĩnh vực lao động và xã hội. Trên cơ sở và
khuôn khổ của mối quan hệ này hình thành một cơ chế mang tính pháp lí quốc
tế, đó là cơ chế ba bên. 2. Mâu thuẫn
- Sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào các vấn đề thuộc phạm vi giải quyết lOMoAR cPSD| 61096931 giữa hai bên.
- Lựa chọn tổ chức đại diện không phù hợp, thiếu chức năng đại diện.
- Thiếu sự quyết đoán của Nhà nước.
- Thiếu sự tham gia của các tổ chức cơ bản khi xây dựng các chính sách về QHLD
Những mâu thuẫn có thể xảy ra giữa hai cơ chế :
- Quan hệ lao động rất phức tạp cả về nội dung lẫn phạm vi ảnh hưởng. Do vậy , bên
cạnh những vấn đề chung phải giải quyết bằng cơ chế ba bên , cũng có những vấn
đề cụ thể hơn không cần sự tham gia trực tiếp của chính phủ.
- Sự can thiệp quá sâu của Chính phủ vào các vấn đề vốn thuộc phạm vi giải quyết của
cơ chế hai bên. Điều này gây trở ngại thêm cho doanh nghiệp khi giải quyết các vấn đề.
- Trong một số trường hợp thì sự phối hợp giữa hai cơ chế lại gây ra trở ngại cho
doanh nghiệp như ở những phạm vi khác nhau , từng trường hợp mà không có sự kết
hợp giữa 2 cơ chế vẫn đề sẽ được giải quyết tốt nhất. lOMoAR cPSD| 61096931
A.Sự phối hợp của mối quan hệ 2 bên và 3 bên trong QHLĐ
1. Đưa ra lại khái niệm
- Cơ chế hai bên là sự tham gia thương lượng, thỏa ước trực tiếp của hai bên
tham gia là người lao động và người sủ dụng lao động. Chính phủ không tham
gia trực tiếp vào hoạt động này nhưng hoạt động của cơ chế hai bên lại không
tách biệt khỏi chính phủ hoạt động dựa trên khuôn khổ luật pháp và những
chính sách , quy định do chính phủ đề ra.
- Cơ chế ba bên là sự tương tác tích cực của Chính phủ , người sử dụng lao
động và người lao động (qua các đại diện của họ).
- Cơ chế ba bên và cơ chế hai bên không xung khắc mà thống nhất với nhau,
tương hỗ lẫn nhau trong QHLĐ. Sự phối hợp đó được thể hiện trên tất cả các mặt
Tất cả các cấp QHLĐ có mối quan hệ chặt chẽ tạo nên tính liên thông và
thống nhất của toàn hệ thống QHLĐ => kết luận của phần trên 2. Sự phối hợp
- Về cấp độ của cơ chế, nếu cơ chế ba bên hoạt động chủ yếu ở cấp quốc gia,
cấp khu vực và quốc tế thì cơ chế hai bên chủ yếu hoạt động ở cấp doanh nghiệp và cấp ngành.
- Về vấn đề quan tâm, nếu cơ chế ba bên giải quyết các vấn đề về định hướng
chính sách, liên quan đến lao động, tiêu chuẩn lao động chung thì cơ chế hai
bên giải quyết các vấn đề cụ thể của doanh nghiệp, của ngành. Cả hai cơ chế
đều vận hành trong vòng tròn pháp luật, có sự phối hợp chặt chẽ với nhau
Như vậy, một cơ chế lành mạnh cũng góp phần vào thành công của cơ chế
còn lại. Một cơ chế ba bên tốt, không thể thay thế cơ chế hai bên mà là điều
kiện nâng cao hiệu quả vận hành của cơ chế hai bên. Cơ chế ba bên hoạt
động càng hiệu quả, các cuộc thương lượng ở cấp ngành, cấp doanh nghiệp
(cơ chế 2 bên) càng dễ dàng đạt được sự thống nhất. Ngược lại cơ chế hai
bên tốt sẽ nâng cao hiệu quả của cơ chế ba bên. => Kết luận tổng
B. Liên hệ thực tế
Cuộc đình công của gần 6.000 công nhân Công ty TNHH Viet Glory ở Nghệ An
Theo đó, sau giờ cơm trưa ngày 2/10, hàng nghìn công nhân Công ty TNHH lOMoAR cPSD| 61096931
Viet Glory tập trung tại nhà để xe là đồng loạt ra về, không làm việc ca
chiều. Khi sự việc xảy ra, Liên đoàn Lao động huyện Diễn Châu cùng các cơ
quan chức năng của huyện đã có mặt, nắm bắt tâm tư, thu thập ý kiến của người lao động.
Công nhân tập trung trước cổng công ty sáng ngày 3/10. Ảnh: CSCC Sau khi
làm việc riêng với đại diện công nhân, tổ chức công đoàn đã ghi nhận 8
nhóm kiến nghị của người lao động và chuyển tới lãnh đạo công ty, trong đó
hai nội dung chính là tăng lương cơ bản và xem xét lại mức khoán sản phẩm.
Còn lại là các nội dung liên quan đến lợi ích người lao động khác như chế độ
độc hại, thai sản, phạt tiền chuyên cần, thời gian họp, thái độ của quản lý, cơ chế chấm công…
Ngay trong ngày 2/10, Công ty TNHH Viet Glory đã có thông báo trả lời các
kiến nghị gửi người lao động. Cụ thể, lãnh đạo công ty cho biết, theo quy
định, mức lương tối thiểu vùng mà Công ty TNHH VietGlory phải trả cho
công nhân là 3.640.000 đồng/tháng. Hiện tại, công ty đã trả cho công nhân là
4.130.000 đồng/tháng, cao hơn mức quy định. lOMoAR cPSD| 61096931
Về vấn đề sản lượng, công ty không giải thích rõ mà chỉ đưa ra giải thích rõ
ràng mà chỉ đưa ra phương án mang tính giải quyết tình thế: Để động viên
tinh thần của cán bộ công nhân viên đồng thời tăng thu nhập đảm bảo đời
sống người lao động, công ty quyết định tăng thưởng sản lượng cho toàn bộ
cán bộ công nhân viên nhà máy ngày 1/10/2023.
Đoàn liên ngành đối thoại trực tiếp, vận động công nhân đi làm trở lại sáng ngày 4/10. Ảnh: Diệu Hoa
Một số kiến nghị liên quan đến thái độ làm việc của cán bộ quản lý, máy
chấm công, thời gian họp... được công ty tiếp thu và điều chỉnh. Công ty
cũng hứa sẽ xem xét, giải quyết 2 kiến nghị tăng số lượng người được tính
phụ cấp độc hại, tăng phụ cấp độc hại và thưởng tháng 13 trong thời gian tới.
Trong thông báo này, Ban giám đốc công ty cũng yêu cầu tất cả công nhân đi
làm trở lại vào sáng 3/10. Những công nhân không đến làm việc sẽ xử lý lOMoAR cPSD| 61096931
theo quy định của pháp luật và công ty, những công nhân nghỉ tự do 5 ngày
trong tháng sẽ bị sa thải.
Sau thông báo này, những ngày sau đó, công nhân Công ty TNHH Viet
Glory vẫn tiếp tục tập trung trước cổng công ty mà không quay lại nhà
xưởng để làm việc. Ngày 4/10, đoàn liên ngành có đại diện Liên đoàn Lao
động tỉnh Nghệ An, Sở LĐ-TB&XH cùng các cơ quan, ban, ngành liên quan
có mặt, trực tiếp đối thoại với công nhân và nắm bắt các nguyện vọng công
nhân. Đoàn cũng đã kêu gọi các công nhân sớm trở lại làm việc để đảm bảo
tiền lương và thu nhập cho người lao động cũng như duy trì hoạt động sản xuất của công ty.
Đoàn liên ngành làm việc với lãnh đạo Công ty TNHH Viet Glory. Ảnh: CSCC
Kết luận buổi làm việc ngày 4/10, đoàn công tác đề nghị công ty, Liên đoàn Lao
động huyện, phòng Lao động - thương binh và Xã hội huyện Diễn Châu phối
hợp để ban hành thông báo kết quả làm việc, tuyên truyền đến công nhân nội
dung thông báo và vận động công nhân sớm trở lại làm việc. Đồng thời, sau khi
ổn định tình hình, UBND huyện Diễn Châu cần thành lập đoàn kiểm tra liên
ngành tổ chức kiểm tra toàn diện việc thực hiện pháp luật lao động tại công ty TNHH Viet Glory. lOMoAR cPSD| 61096931 Phân tích
- Nguyên nhân: Bất mãn về hai nội dung chính là tăng lương cơ bản và xem
xét lại mức khoán sản phẩm. Còn lại là các nội dung liên quan đến lợi ích
người lao động khác như chế độ độc hại, thai sản, phạt tiền chuyên cần, thời
gian họp, thái độ của quản lý, cơ chế chấm công… - Biểu hiện:
+ Sau giờ cơm trưa ngày 2/10, hàng nghìn công nhân Công ty TNHH Viet
Glory tập trung tại nhà để xe là đồng loạt ra về, không làm việc ca chiều.
+ Ban giám đốc công ty yêu cầu tất cả công nhân đi làm trở lại vào sáng 3/10.
Những công nhân không đến làm việc sẽ xử lý theo quy định của pháp luật và
công ty, những công nhân nghỉ tự do 5 ngày trong tháng sẽ bị sa thải. Sau
thông báo này, những ngày sau đó, công nhân Công ty TNHH Viet Glory vẫn
tiếp tục tập trung trước cổng công ty mà không quay lại nhà xưởng để làm việc.
- Giải quyết đình công:
+ Một số kiến nghị liên quan đến thái độ làm việc của cán bộ quản lý, máy
chấm công, thời gian họp... được công ty tiếp thu và điều chỉnh. Công ty cũng
hứa sẽ xem xét, giải quyết 2 kiến nghị tăng số lượng người được tính phụ cấp
độc hại, tăng phụ cấp độc hại và thưởng tháng 13 trong thời gian tới. + Ngày
4/10, đoàn liên ngành có đại diện Liên đoàn Lao động tỉnh Nghệ An, Sở LĐ-
TB&XH cùng các cơ quan, ban, ngành liên quan có mặt, trực tiếp đối thoại
với công nhân và nắm bắt các nguyện vọng công nhân. Đoàn cũng đã kêu gọi
các công nhân sớm trở lại làm việc để đảm bảo tiền lương và thu nhập cho
người lao động cũng như duy trì hoạt động sản xuất của công ty. + Sau khi đối
thoại với công nhân, đoàn công tác đã đối thoại với chủ doanh nghiệp về
những kiến nghị, tâm tư của người lao động. Kết luận buổi làm việc ngày 4/10,
đoàn công tác đề nghị công ty, Liên đoàn Lao động huyện, phòng Lao động -
thương binh và Xã hội huyện Diễn Châu phối hợp để ban hành thông báo kết
quả làm việc, tuyên truyền đến công nhân nội dung thông báo và vận động
công nhân sớm trở lại làm việc. Đồng thời, sau khi ổn định tình hình, UBND lOMoAR cPSD| 61096931
huyện Diễn Châu cần thành lập đoàn kiểm tra liên ngành tổ chức kiểm tra toàn
diện việc thực hiện pháp luật lao động tại công ty TNHH Viet Glory.
=> Qua đây ta thấy cơ chế 3 bên đã được vận dụng trong lao động, nó tồn
tại để tham gia, can thiêp ̣ phòng ngừa, giải quyết tranh chấp, đình công, đòi
tiền lương, thời gian trong lĩnh vực lao động. Cụ thể trong ví dụ là Nhà nước
đã thể hiên vai tṛ ò của mình là dâp t ̣ắt đình công tạm thời và giải quyết các
vấn đề liên quan đến lợi ích của NLĐ & NSDLĐ thông qua đối thoại 2 bên
dưới sự theo dõi của đại diên pḥ ía Nhà nước tại cấp địa phương, tỉnh.
- Khi cơ chế 2 bên là người lao động (tổ chức đại diện cho NLĐ) và chủ
người lao động (tổ chức đại diện cho NSDLĐ) không giải quyết được các vấn
đề tranh chấp mà NSDLĐ ở đây lại là doanh nghiệp nước ngoài thì càng cần
có sự can thiệp của bên thứ ba là nhà nước.
- Do có sự điều tiết và can thiệp của cơ chế 3 bên tạo điều kiện thuân lợi để
hài hòa cơ chế 2 bên, quan hệ lao động lành mạnh hơn, thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế. Cụ thể là sự có mặt của phía Nhà nước là công an giao
thông cùng với chính quyền địa phương và Liên đoàn Lao động cấp huyện, tỉnh.
Nguồn: Đình công tại Công ty TNHH Viet Glory: Mối lo từ 'tiền lệ xấu' | Báo Nghệ An điện tử (baonghean.vn) KẾT LUẬN
Như vậy, bên cạnh cơ chế 2 bên thì cơ chế ba bên ra đời như là một hiện
tượng tự nhiên khi nền kinh tế thị trường phát triển đến một mức độ nhất định.
Kinh tế thị trường càng phát triển, dân chủ xã hội càng được tôn trọng và bảo
đảm... thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế ba bên tồn tại và phát triển.
Chúng ta có thể thấy mặc dù có sự mâu thuẫn tồn tại ở cơ chế 2 bên và cơ chế
3 bên, nhưng sự phối hợp của 2 cơ chế lại đem lại những hiệu quả bất ngờ.Sự
vận dụng phối hợp 2 cơ chế hiện nay ở Việt Nam vẫn đang còn mới mẻ. Nhưng
nếu chúng ta vượt qua được những trở ngại trong quá trình phối hợp và vận
hành cả 2 cơ chế thì chúng ta sẽ từng bước làm chủ và phát triển sự tương tác
này cho nền kinh tế mạnh mẽ hơn trong tương lai.