Quan hệ lượng - chất, nhân - quả và thực trạng sinh viên trước xu thế toàn cầu hoá | Tiểu luận môn triết học mác - lênin
Quan hệ lượng - chất, nhân - quả và thực trạng sinh viên trước xu thế toàn cầu hoá | Tiểu luận môn triết học mác - lênin được siêu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuận bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin( LLNL 1105)
Trường: Đại học Kinh Tế Quốc Dân
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoAR cPSD| 23022540
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ ----- oOo ----- TIỂU LUẬN
Môn: Triết học Mác - Lênin
Đề tài: Quan hệ lượng - chất, nhân - quả và thực trạng
sinh viên trước xu thế toàn cầu hoá. Người hướng dẫn : Ths Lê Ngọc Thông
Người thực hiện đề tài : Nguyễn Thị Ngọc Ánh Mã sinh viên : 11236256 Lớp học phần : LLNL1105_ 37 Năm học : 2023-2024
Hà Nội - 2023 1 lOMoAR cPSD| 23022540 MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................3
PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................4
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN TRIẾT
HỌC.................................................................4
1. PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG - CHẤT......................4
2. PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUAN HỆ NGUYÊN NHÂN - KẾT QUẢ......6
II. VẬN DỤNG NGUYÊN LÝ TRIẾT HỌC ĐỂ PHÂN TÍCH, LÀM RÕ
THỰC TRẠNG CỦA SINH VIÊN TRƯỚC XU THẾ TOÀN CẦU HÓA.8
1. TOÀN CẦU HOÁ................................................................................9
1.1. Khái niệm.................................................................................9
1.2. Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu hiện nay..................................9
1.3. Hệ quả của toàn cầu hoá.......................................................10
1.4. Biểu hiện của toàn cầu hoá ở Việt Nam.................................10
1.5. Cơ hội và thách thức của toàn cầu hoá đối với Việt Nam.....11
2. THỰC TRẠNG SINH VIÊN TRƯỚC XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ..............12
3. LIÊN HỆ BẢN THÂN........................................................................18
PHẦN KẾT LUẬN........................................................................................20
LỜI CẢM ƠN................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................22
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
WTO : Tổ chức thương mại thế giới 2 lOMoAR cPSD| 23022540 PHẦN MỞ ĐẦU
Triết học Mác - Lênin có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội và
trong thời đại ngày nay. Trong chương trình học, có sáu cặp phạm trù cơ bản
bao gồm: cái chung - cái riêng, nguyên nhân - kết quả, nội dung - hình thức,
bản chất - hiện tượng, tất nhiên - ngẫu nhiên, khả năng - hiện thực và có ba
quy luạt cơ bản là: quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quy
luật lượng - chất, quy luật phủ định của phủ định.
Trong bài tiểu luận này, chúng ta sẽ đi tìm hiểu về một quy luật và một
cặp phạm trù không kém phần quan trọng, đó chính là quy luật lượng - chất và
quan hệ nhân - quả. Qua đó, có thể làm rõ thực trạng của sinh viên trước xu thế toàn cầu hoá.
Nói đến sinh viên là nói đến một lực lượng không hề nhỏ của xã hội, là
thế hệ mà được đào tạo toàn diện nhất về tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội
và tư duy. Song với làn sóng mạnh mẽ từ xu thế toàn cầu hoá cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến sinh viên ngày nay về cả mặt tích cực và tiêu cực. Vậy nên,
đối tượng nghiên cứu chủ yếu của bài tiểu luận này là sinh viên Việt Nam nói
chung với phạm vi là sinh viên các trường đại học, cao đẳng trong thời gian từ
đầu thế kỉ XXI đến nay. Bài tiểu luận góp phầm làm rõ những cơ sở lý luận
triết học dùng cho việc làm sáng tỏ thực trạng sinh viên Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận triết học
1. Phương pháp luận của quy luật lượng - chất
Về vị trí, quy luật lượng - chất là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật phản ánh về cách thức của sự phát triển. Để hiểu một cách
rõ ràng hơn về quy luật này, trước hết ta đi tìm hiểu xem thế nào là lượng, thế
nào là chất và các khái niệm liên quan đến chúng.
Trong giáo trình “Triết học Mác - Lênin”, khái niệm về “chất” và
“lượng” đã được định nghĩa như sau: “Chất là một phạm trù triết học dùng để
chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng; là sự thống 3 lOMoAR cPSD| 23022540
nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó chứ không phải cái khác”.
Còn “Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật
biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
của sự vật cũng như các thuộc tính của nó”.
Bất kì sự vật, hiện tượng nào tồn tại trên Trái Đất này đều có chất và
lượng. Trong quá trình vận động, phát triển của xã hội, chất và lượng của sự
vật cũng biến đổi. Tuy nhiên, sự thay đổi của chúng không diễn ra độc lập
từng phần mà trái lại có quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Nhưng những
sự thay đổi ấy không phải lúc nào cũng diễn ra đồng thời mà vẫn sẽ có khoảng
giới hạn nhất định để lượng của sự vật có thể biến thiên mà không làm thay
đổi căn bản chất của sự vật đó. Nếu vượt qua khoảng đó thì bản chất của sự
vật sẽ thay đổi, chất cũ mất đi và sẽ khiến chất mới ra đời.
Như vậy, khuôn khổ mà sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất
của sự vật được gọi là “độ”. “Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống
nhất và quy định lẫn nhau giữa lượng và chất; là giới hạn tồn tại của sự vật,
hiện tượng mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về
chất; sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng
khác.” (Theo giáo trình “Triết học Mác - Lênin”).
Tại hai đầu của khoảng giới hạn là những điểm giới hạn hay còn được
gọi là “điểm nút”. Sự thay đổi lượng vượt quá điểm nút thì chất mới sẽ ra đời,
khi đó lượng mới và chất mới sẽ có sự thống nhất với nhau để tạo nên độ mới và điểm nút mới.
Sự biến đổi về bản chất sự vật, hiện tượng do lượng thay đổi mà có
được gọi là bước nhảy, được định nghĩa trong giáo trình như sau: “Bước nhảy
là khái niệm dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật, hiện
tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong
sự biến đổi về lượng”.
Tuy lượng và chất có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau nhưng
chúng lại là hai mặt đối lập vốn có của sự vật, hiện tượng. Và nếu chất tương
đối ổn định thì lượng lại thường xuyên biến đổi. Khi lượng thay đổi đến một
khoảng nào đó thì sẽ đối lập với chất cũ, bị chất cũ kìm hãm. Vậy nên, nó đòi 4 lOMoAR cPSD| 23022540
hỏi phải xóa bỏ độ cũ và lập ra độ mới để lượng có thể thay đổi. Sau khi chất
cũ bị phá bỏ, chất mới được thiết lập sẽ lại tạo ra sự thống nhất giữa hai phạm
trù lượng và chất của sự vật, hiện tượng.
Nội dung cơ bản của quy luật lượng - chất được phát biểu trong giáo
trình như sau: “Mọi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và
lượng, những sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn
tới thay đổi căn bản về chất thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tiếp tục tác
động trở lại duy trì sự thay đổi của lượng”. Thực chất của quy luật trên nói về
mối liên hệ giữa cái cũ và cái mới. Sự vận động, phát triển của xã hội bắt đầu
từ sự thay đổi của lượng. Tuy nhiên, lượng thay đổi từ từ, nhỏ nhặt, rất khó
thấy. Trường hợp lượng thay đổi nhưng vẫn ở trong độ thì chất chưa thay đổi.
Nhưng khi lượng thay đổi tới điểm nút và vượt quá độ thì sẽ phá huỷ cấu trúc
của sự vật và khi đó chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Vậy nên chất cũ mất đi,
lượng được giải phóng sẽ thay đổi với tốc độ, nhịp điệu, quy mô mới (nghĩa là
khi chất mới ra đời sẽ tự thiết lập lượng mới). Quá trình lặp đi lặp lại này tạo thành quy luật.
Từ đó, ta rút ra được ý nghĩa của phương pháp luận là: cần phải xây
dựng và phát triển quan điểm trong liên tục và gián đoạn, đồng thời tránh các
sai lầm. Thứ nhất là xem nhẹ việc tích lũy về lượng, bởi khi đó sự vật cũ
không thể mất đi mà cái mới, cái tiến bộ hơn cũng không thể ra đời để thay
thế. Thứ hai là việc khi đã có điều kiện mà không kiên quyết thực hiện bước
nhảy. Vậy nên trong hoạt động thực tiễn, ta cần chú ý đến các yếu tố như quy
mô và nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa học, không chủ quan,
nóng vội và cần phải có quyết tâm và nghị lực để thực hiện bước nhảy khi cần
thiết để phù hợp với sự phát triển của xã hội. Vì thế, ta cần lựa chọn phương
pháp phù hợp để có thể hiểu rõ bản chất cũng như quy luật của chúng.
2. Phương pháp luận của quan hệ nguyên nhân - kết quả
Quan hệ nguyên nhân - kết quả là một trong những cặp phạm trù triết
học cơ bản phản ánh nhận thức về sự tác động, tương tác giữa các mặt, các 5 lOMoAR cPSD| 23022540
yếu tố hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Trước hết, ta cần tìm hiểu
khái niệm về “nhân” và “quả”, đã được định nghĩa trong giáo trình “Triết học
Mác - Lênin” như sau: Nhân hay nguyên nhân là “phạm trù triết học dùng để
chỉ sự tương tác lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa
các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định”. Còn quả
hay kết quả là “phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự
tương tác giữa các yếu tố mang tính nguyên nhân gây nên”.
Đầu tiên, quan hệ nhân - quả mang tính khởi nguyên (hay còn gọi là
quan hệ sản sinh), tức là nhân có trước, quả sẽ xuất hiện sau do nguyên nhân
là cái sinh ra kết quả. Dù vậy, không phải tất cả các sự việc xảy ra nối tiếp
nhau trong thời gian của các hiện tượng đều là biểu hiện của mối quan hệ
nhân - quả. Vì thế, ta cần phân biệt quan hệ nhân - quả với quan hệ kế tiếp về
mặt thời gian. (Ví dụ, sau ngày là đêm nhưng ta không thể nói ngày là nguyên
nhân, còn đêm là kết quả; bởi vì hiện tượng ngày và đêm sinh ra là do sự vận
động tự quay quanh trục của Trái Đất). Bên cạnh đó, ta cũng cần phân biệt
nguyên nhân và nguyên cớ (nguyên cớ là một sự kiện xảy ra ngay trước kết
quả nhưng không sinh ra kết quả) để tránh nhầm lẫn giữa hai khái niệm này.
Tiếp theo, quan hệ nhân quả mang tính phức tạp bởi nguyên nhân ảnh
hưởng đến kết quả, kết quả lại tác động ngược trở lại nguyên nhân. Và một
nhân có thể tạo ra nhiều quả do điều kiện, hoàn cảnh gây ra: một quả cũng
được tạo bởi nhiều nhân do cấu trúc của quả rất phức tạp nên mỗi nhân chỉ tạo
được một phần của kết quả. Từ đó, dựa vào các yếu tố như: tính chất, cách thể
hiện, tác dung,... mà ta có thể phân loại nguyên nhân thành: nguyên nhân chủ
yếu - thứ yếu, nguyên nhân bên trong - bên ngoài, nguyên nhân trực tiếp gián tiếp,...
Ngoài ra, trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định, nguyên nhân và
kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau. Tức là khi một cặp nhân - quả ở trong các
quan hệ khác nhau thì nguyên nhân và kết quả loại này có thể sẽ chuyển sang
nguyên nhân và kết quả loại khác. Nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn tại và tác
động cùng chiều, cùng hướng trong một sự vật thì chúng sẽ gây ảnh hưởng
cùng chiều đến sự hình thành kết quả, làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn. 6 lOMoAR cPSD| 23022540
Ngược lại nếu những nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác
nhau, thì sẽ cản trở đến việc hình thành kết quả, ngăn kết quả xuất hiện.
Xét về tính chất, nhà triết gia Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh trong tác
phẩm “Biện chứng của tự nhiên” rằng: “hoạt động của con người là hòn đá
thử vàng của tính nhân quả”, vậy nên mối liên hệ nhân - quả có tính khách
quan, phổ biên, tất yếu. Về tính khách quan, mối liên hệ nhân - quả là cái vốn
có của sự vật, hiện tượng nên dù con người có biết hay không thì các sự vật
hiện tượng vẫn tác động lẫn nhau và gây nên những biến đổi nhất định. Trong
đời sống tự nhiên và xã hội, mọi sự vật, hiện tượng xảy ra đều do những
nguyên nhân nhất định; nghĩa là không có hiện tượng nào là không có nguyên
nhân, chỉ có điều nó là nguyên nhân đã được nhận thức hay nguyên nhân chưa
được nhận thức mà thôi. Đây chính là tính phổ biến của mối liên hệ nhân -
quả. Về tính tất yếu của mối liên hệ này, ta có thể hiểu theo nguyên tắc:
nguyên nhân tác động trong những điều kiện, hoàn cảnh giống nhau bao nhiêu
thì kết quả do chúng tạo ra càng giống nhau bấy nhiêu.
Tóm lại, ta rút ra được ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù
nhân - quả là cần xây dựng quan điểm quyết định luận và tránh những quan
điểm sai lầm sau: thứ nhất là quan điểm vô định luận - cho rằng sự vật, hiện
tượng không có nguyên nhân. Thứ hai là quan điểm mục đích luận - cho rằng
sự vật, hiện tượng xuất hiện là do mục đích nào đó. Vậy nên, để có thể nhận
thức rõ ràng một sự vật, hiện tượng ta cần phải tìm hiểu được nguyên nhân
xuất hiện của chúng. Thêm vào đó, ta cũng cần đặt nguyên nhân - kết quả tìm
được trong mối quan hệ nhất định để có thể tìm hiểu kĩ càng, vì trong từng
hoàn cảnh mà nguyên nhân và kết quả có thể đổi chỗ, chuyển hóa lẫn nhau.
Hơn nữa, mỗi sự vật, hiện tượng đều có thể do nhiều nguyên nhân gây ra, vì
vậy trong quá trình nghiên cứu, ta không được vội vã kết luận về nguyên nhân
của một vấn đề. Vì thế, để nâng cao nhận thức cũng như thúc đẩy sự vận động
phát triển xã hội, ta cần lựa chọn cũng như kết hợp nhiều phương pháp phù
hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể, tránh rập khuôn, máy móc theo các
phương pháp đã cũ, lỗi thời. 7 lOMoAR cPSD| 23022540
II. Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ
thực trạng của sinh viên trước xu thế toàn cầu hóa 1. Toàn cầu hoá 1.1. Khái niệm
Toàn cầu hoá là quá trình liên kết toàn cầu về nhiều mặt từ nền kinh tế
đến văn hoá, khoa học, xã hội,… Trong đó, toàn cầu hoá kinh tế có tác động
mạnh mẽ nhất đến mọi mặt của nền kinh tế - xã hội thế giới.
Dưới góc độ của triết học, toàn cầu hóa được nhìn nhận như là một xu
thế vận động, phát triển tất yếu của xã hội loài người theo quy luật chung từ
thấp đến cao, quy luật lượng - chất và mối liên hệ nhân - quả. Vận động xã
hội là hình thức vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thức vận động
này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa con người với con người làm
nền tảng. Theo quan điểm duy vật lịch sử, sự phát triển của xã hội loài người
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau từ thấp đến cao là “một quá trình lịch sử -
tự nhiên”, chịu sự ảnh hưởng của các quy luật khách quan nhất định, trong đó
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là quy luật cơ bản nhất của xã hội loài người.
1.2. Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu hiện nay
Đầu tiên, do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, sự phát triển không
đồng đều về kinh tế, khoa học - kĩ thuật dẫn đến sự khác nhau về điều kiện tái
sản xuất giữa các quốc gia. Vì vậy, quá trình phát triển kinh tế tất yếu dẫn đến
sự phân công lao động. Từ đó, nảy sinh yêu cầu là cần phải tiến hành chuyên
môn hoá và hợp tác hoá lẫn nhau giữa các công ty thuộc các quốc gia khác
nhau. Điều này đòi hỏi phải mở rộng phạm vi trao đổi quốc tế, dẫn tới việc
hình thành và mở rộng của các tổ chức quốc tế. Đây là cơ sở của các mối liên
kết kinh tế - xã hội (xu thế chính của thế giới ngày nay). Tiếp đến, sự đa dạng
về nhu cầu tiêu dùng của mỗi quốc gia (do mỗi quốc gia đều có những lợi thế
riêng về tài nguyên và nguồn lao động hoặc sản xuất những sản phẩm riêng
mà các quốc gia khác không có), do đó thúc đẩy quy mô hợp tác, trao đổi 8 lOMoAR cPSD| 23022540
thương mại ngày càng lớn. Cuối cùng, nhiều vấn đề mang tính toàn cầu đã và
đang xuất hiện, đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa các quốc gia. Vì những lý do
trên mà toàn cầu hoá là một quá trình không thể thiếu và là xu thế tất yếu hiện nay của nhân loại.
1.3. Hệ quả của toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá có cả những hệ quả tích cực lẫn tiêu cực. Trước hết, toàn
cầu hoá thúc đẩy sản xuất phát triển và tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Thêm
vào đó, nó còn đẩy mạnh đầu tư và giúp tăng cường sự hợp tác quốc tế, từ đó
mở ra nhiều cơ hội hơn cho các quốc gia trên thế gới, nhất là các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam. Bên cạnh những hệ quả tích cực, toàn cầu
hoá cũng mang lại hậu quả tiêu cực mà tiêu biểu là làm gia tăng nhanh chóng
khoảng cách giàu nghèo. Nguyên nhân chính của hệ quả này là do khi các
quốc gia biết tận dụng và khai thác có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài (như
vốn, công nghệ, thị trường,…) – cái mà toàn cầu hoá mang lại thì sẽ giàu lên
nhanh chóng và ngược lại nếu không biết nắm bắt và tận dụng cơ hội thì thời
cơ sẽ bị bỏ lỡ, thách thức sẽ trở thành những khó khăn dài hạn rất khó có thể
khắc phục được, là lực cản cho sự phát triển tiếp theo.
1.4. Biểu hiện của toàn cầu hoá ở Việt Nam
Cùng với xu hướng phát triển chung của thế giới, Việt Nam thực hiện
công cuộc đổi mới, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới. Điều
này biểu hiện ở việc nước ta đã bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ từ năm
1995. Bên cạnh đó, nước ta đã và đang tham gia vào các tổ chức liên kết khu
vực và quốc tế như: ASEAN, APEC, WTO,… Biểu hiện của Việt Nam đang
phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá còn thể hiện ở việc thu hút mạnh mẽ
các nguồn đầu tư nước ngoài, ngoại thương phát triển ở tầm cao mới, đồng
thời hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực khác như: văn hoá, khoa học, kĩ thuật,
… và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. 9 lOMoAR cPSD| 23022540
1.5. Cơ hội và thách thức của toàn cầu hoá đối với Việt Nam
Toàn cầu hoá đã tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam trên con đường phát
triển kinh tế - xã hội. Cụ thể, toàn cầu hoá tạo thời cơ giúp Việt Nam mở rộng
quan hệ với nhiều nước để nhận chuyển giao công nghệ, kĩ thuật hiện đại
nhằm rút ngắn thời gian nghiên cứu, thử nghiệm. Toàn cầu hoá là cơ hội để
thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tạo điều kiện cho nước ta tiến hành
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhanh chóng. Việt Nam có cơ hội mở rộng thị
trường ra nước ngoài, mở cửa tạo điều kiện phát huy nội lực, từ đó khai thác
hiệu quả ngoại lực. Khi phát triển theo xu hướng toàn cầu hoá sẽ giúp nước ta
khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên, hình thành nên các vùng sản xuất
hàng hoá. Cuối cùng, toàn cầu hoá thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước
ta theo hướng tích cực, phù hợp với cơ chế thị trường và thúc đẩy quá trình
phân công lao động theo hướng chuyên môn hoá.
Bên cạnh những cơ hội để phát triển thì toàn cầu hoá cũng tạo ra nhiều
khó khăn, thách thức đòi hỏi những biện pháp thiết thực nhất để giải quyết.
Một số khó khăn có thể kể đến như nền kinh tế nước ta chưa phát triển mạnh
và ổn định, sức cạnh tranh còn yếu; trình độ quản lý nhìn chung còn thấp, quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn diễn ra chậm; đã thu hút được vốn
đầu tư nhưng sử dụng còn kém hiệu quả; cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng
như điện, nước, giao thông,… còn nhiều hạn chế; ngân sách đầu tư cho giáo
dục, nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ còn rất thấp,… Nhà nước
cần có những biện pháp thiết thực để giải quyết những vấn đề đang tồn tại,
đưa đất nước phát triển hơn.
2. Thực trạng sinh viên trước xu thế toàn cầu hoá
Xét theo quy luật lượng - chất và mối quan hệ nhân - quả thì ở đây nhân
là xu thế toàn cầu hóa, còn quả chính là những thay đổi theo hướng tích cực
hoặc tiêu cực của sinh viên do toàn cầu hoá mang lại. Lượng chính là thứ mà
ta nhận được hay thay đổi do xu thế toàn cầu hóa ảnh hưởng, chất chính là cái
mới mà sinh viên thay đổi từ trong bản chất của họ. Thực trạng sinh viên
trước xu thế toàn cầu hoá hiện nay có thể hiểu là toàn cầu hoá đã làm thay đổi 10 lOMoAR cPSD| 23022540
những yếu tố có ảnh hưởng đến sinh viên Việt Nam như: điều kiện sống, điều
kiện làm việc, học tập, giao tiếp, văn hoá,… bởi toàn cầu hoá là xu thế khách
quan, tất yếu của nhân loại và đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Việt Nam
đang tích cực hội nhập với thế giới nên ảnh hưởng của toàn cầu hoá đến con
người Việt Nam đã và đang diễn ra, trong đó, sinh viên - một lực lượng xã hội
năng động thể hiện rất rõ nét về ảnh hưởng của toàn cầu hoá theo cả hai mặt: tích cực và tiêu cực.
Về mặt tích cực thì toàn cầu hoá ảnh hưởng đến sinh viên ở hai phương
diện: hoạt động học tập, nghiên cứu và hoạt động rèn luyện phẩm chất đạo
đức, nhân cách của sinh viên. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, toàn cầu hoá làm thay đổi phương thức học tập, nghiên cứu của sinh viên Việt Nam.
Toàn cầu hoá tạo môi trường cho việc học tập, nghiên cứu của sinh viên
diễn ra ngày càng phát triển và được đảm bảo hơn. Vì toàn cầu hoá đã tạo ra
cơ hội cho nước ta thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, kích thích sự phát
triển của kinh tế - xã hội,… từ đó tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao, đảm bảo
kinh phí cho các khoản đầu tư giáo dục. “Theo đó, về việc thực hiện ngân
sách giáo dục năm 2022, báo cáo cho biết: dự toán chi thường xuyên ngành
giáo dục năm 2022 là 275.709 tỉ đồng, chiếm hơn 15% tổng chi ngân sách nhà
nước. Cộng thêm cả chi đầu tư năm 2022, tổng dự toán chi ngân sách cho
ngành giáo dục là hơn 330.717 tỉ đồng, tăng 15,3% so với năm 2021.” (Theo “Báo Thanh niên”)
Toàn cầu hoá truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn
những thành tựu mới về khoa học, công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất
và kinh doanh, đưa kinh nghiệm và kiến thức mới đến từng dân tộc, từng gia
đình, từng người dân một cách nhanh chóng. Nhờ vậy, sinh viện có thể tiếp
cận cũng như cập nhật được nguồn tri thức khổng lồ của nhân loại. Họ có cơ
hội tiếp xúc với nhiều giá trị mới, phù hợp với thời đại và xóa bỏ đi những cái
đã cũ, lỗi thời. Từ đó, trình độ dân trí sẽ được nâng cao, sinh viên trở nên linh
hoạt, năng động và có tư duy sắc bén hơn. 11 lOMoAR cPSD| 23022540
Cùng với xu thế toàn cầu hoá là sự phát trển nhanh chóng của khoa học
- kĩ thuật, đặc biệt là sự ra đời của hệ thống mạng “Internet” và máy vi tính.
Thông qua hai thành tựu quan trọng này mà sự kết nối giữa người với người,
giữa quốc gia với quốc gia được diễn ra một cách thuận lợi hơn. Có thể nói,
toàn cầu hoá thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc, làm cho con
người ở mỗi châu lục ngày càng hiểu biết nhau hơn. Chính điều này đã làm
cho việc học tập, nghiên cứu của sinh viên trở nên dễ dàng hơn khi họ có thể
tra cứu thông tin, kiến thức qua mạng, qua các thư viện điện tử, sách báo điện
tử,… thay vì sách báo như trước đây. Họ còn có nhiều cơ hội để làm quen,
giao lưu, học tập với bạn bè quốc tế, từ đó linh hoạt hơn trong việc lựa chọn
cách thức học tập. Ngày càng nhiều sinh viên lựa chọn con đường đi du học
để mở mang kiến thức một cách trực tiếp và ở lại học tập, tích lũy kinh
nghiệm sau đó về nước ứng dụng những thành tựu khoa học, kĩ thuật mới dã
học được để phát triển đất nước. Bên cạnh đó, ở trong nước xuất hiện ngày
càng nhiều những chương trình đào tạo từ xa, các chương trình liên kết với
nước ngoài,… giúp sinh viên Việt Nam dễ dàng tiếp cận hơn với nền giáo dục
phát triển của thế giới. Không chỉ vậy, nước ta còn rất chào đón du học sinh
các nước sang học tập và làm việc. Số lượng sinh viên là người ngoại quốc tại
Đại học Kinh Tế Quốc Dân nói riêng hay nhiều trường đại học khác ở Việt
Nam ngày càng nhiều, tạo điều kiện giao lưu giữa sinh viên các nước, làm
phong phú hơn những tri thức cho sinh viên Việt Nam.
Ngoài việc tạo điều kiện cho môi trường học tập, nghiên cứu của sinh
viên, toàn cầu hóa còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu, tiếp
thu tinh hoa tri thức của nhân loại, giúp cho sinh viên bổ sung và làm phong
phú hơn vốn kiến thức của bản thân. Thông qua quá trình giao lưu, học tập,
sinh viên Việt Nam có thể tiếp thu, chắt lọc những tinh hoa của kho tàng tri
thức nhân loại, từ đó có những đổi mới về phương pháp cũng như cách thức
học tập, nghiên cứu của bản thân sinh viên để phù hợp và bắt kịp xu thế của
thời đại mới. Cùng với việc tiếp thu tri thức, sinh viên còn có thể quảng bá
văn hóa nước mình cho bạn bè quốc tế để nhiều người biết đến mảnh đất hình
“chữ S” xinh đẹp được thiên nhiên ưu đãi. 12 lOMoAR cPSD| 23022540
Đồng thời, việc hội nhập ngôn ngữ cũng dần trở nên phổ biến, lượng
ngôn ngữ mới mà sinh viên tiếp nhận ngày càng nhiều và họ cũng tích cực
trau dồi thêm cho mình những ngôn ngữ mới như Tiếng Anh, Tiếng Trung,
Tiếng Pháp,… để có thể giao tiếp thuận lợi hơn với bạn bè quốc tế và khám
phá đất nước họ. Vậy nên, những chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế như IELTS,
HSK, TOIEC,… ngày càng được ưu chuộng.
Thứ hai, toàn cầu hoá ảnh hưởng đến hoạt động rèn luyện phẩm chất
đạo đức, nhân cách của sinh viên.
Xu thế toàn cầu hoá không chỉ làm cho kinh tế Việt Nam phát triển mà
nó còn tác động một phần không nhỏ đến hoạt động văn hoá của sinh viên
Việt Nam, nhất là ảnh hưởng đến đạo đức, nhân cách của họ. Với những thay
đổi tích cực về kinh tế, sinh viên ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, của Nhà nước. Họ đã thấy được những đường lối, chính sách đúng đắn,
thiết thực, theo kịp xu thế thời đại và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Chính niềm tin ấy đã tạo cho sinh viên bản lĩnh vững vàng để chống lại những
âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước của kẻ thù. Bên cạnh đó, họ có cơ hội đẻ
thể hiện lòng yêu nước của mình trong thời bình bằng cách học tập, nghiên
cứu, giúp đưa tên tuổi đất nước đến gần hơn với bạn bè quốc tế.
Sinh viên ngày càng tự tin, chủ động hơn trước xu thế toàn cầu hoá, bởi
trong quá trình hội nhập, lối sống phương Tây đã được truyền bá góp phần
giúp cho sinh viên chuyển từ lối sống khép kín, thụ động sang một lối sống
mới năng đọng, cởi mở, dễ dàng thích nghi với thời đại hơn. Khi trở nên tự tin
và chủ động hơn, họ sẽ tham gia nhiệt tình vào các hoạt đông xã hội, nhưng
hoạt độn chung của trường lớp, từ đó tiếp thu được nhiều kiến thức, kinh
nghiệm sống quý báu - những kinh nghiệm ấy sẽ giúp ích cho họ sau này. Đặc
biệt, tự tin trong giao tiếp sẽ giúp sinh viên mở rộng mối quan hệ cá nhân, họ
có thể phát triển toàn diện hơn nhờ vào những mối quan hệ này. Như vậy, toàn
cầu hoá đã mang lại cho sinh viên nhiều ảnh hưởng tích cực, giúp họ có nhiều
cơ hội để phát triển hơn. 13 lOMoAR cPSD| 23022540
Song song với những mặt tích cực thì toàn cầu hoá cũng ảnh hưởng tiêu
cực đến sinh viên Việt Nam ở hai phương diện chủ yếu là phương thức học
tập, nghiên cứu và hoạt động rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách.
Một hệ luỵ không thể không kể đến do toàn cầu hoá mang lại, đó chính
là vấn đề bất bình đẳng xã hội và làm gia tăng nhanh chóng khoảng cách giàu
nghèo. Điều này phần nào cũng ảnh hưởng đến hoạt động học tập của sinh
viên. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin cũng khiến cho sinh
viên trở nên lười biếng, không chịu tìm tòi, học hỏi, do đó sinh ra tâm lý ỉ lại
và thụ động khi họ chỉ biết chờ những bài giải trên mạng hay sử dụng công cụ
AI. Báo điện tử “VTV NEWS” cho rằng: “Việc sử dụng ChatGPT có thể làm
giảm sự sáng tạo và khả năng tư duy của con người, ảnh hưởng tiêu cực đến
quá trình học tập. ChatGPT có thể tạo ra câu trả lời nhanh nhưng không giúp
ích cho xây dựng các kỹ năng giải quyết vấn đề và tư duy phản biện.
ChatGPT có thể trở thành công cụ thúc đẩy gian lận thi cử. Khả năng làm luận
văn của "siêu chatbot" này khiến các chuyên gia trong ngành giáo dục gióng
lên hồi chuông cảnh báo về khả năng sinh viên có thể tận dụng công cụ này để
gian lận trong thi cử, đề xuất quay lại phương án thi trên giấy để đảm bảo tính
công bằng cho tất cả mọi người. Việc lạm dụng AI cũng có thể khiến khả năng
tư duy của con người bị giảm sút rất nhiều.”
Ngày càng nhiều các trường đại học, cao đẳng bị cuốn vào vòng xoáy
của thành tích xã hội, vì thế các thầy cô giáo cũng như không ít sinh viên nảy
sinh suy nghĩ muốn “đi đường tắt”, muốn đạt thành tích cao mà bất chấp dạy
và học theo phương thức nhồi nhét kiến thức. Vậy nên, nhiều sinh viên chỉ
giỏi về mặt lý thuyết nhưng rất yếu trong kĩ năng thực hành cũng như khả
năng thích ứng xã hội. Đó là thực trạng đáng lo ngại ở sinh viên Việt Nam.
“Theo kết quả điều tra của Bộ Giáo dục - Đào tạo, năm 2011 cả nước có đến
63% sinh viên thất nghiệp do thiếu kỹ năng. Trong các nguyên nhân khách
quan làm sinh viên chưa thích ứng với môi trường công việc khi thực tập
được khảo sát, nguyên nhân “nội dung học tập ở nhà trường ít chú trọng thực
hành, mà nặng về lý thuyết” với 49,2% sinh viên lựa chọn.” (Theo “Báo tuổi trẻ”) 14 lOMoAR cPSD| 23022540
Một bộ phận sinh viên coi nhẹ kỷ cương, kỷ luật của nhà trường do tâm
lý coi đồng tiền là vạn năng, mọi thứ đều có thể giải quyết bằng tiền. Đây là
nguyên nhân cho các hành vi lệch chuẩn trong học tập của sinh viên như: nghỉ
học không phép, đi học muộn, đi học hộ, mua bằng, mua điểm,…
Bên cạnh cơ hội được giao lưu, học hỏi về tri thức, một lượng không
nhỏ sinh viên đã có nhu cầu học tập, làm việc ở nước ngoài và không quay về
làm việc trong nước sau khi kết thúc quá trình học tập. Đó được gọi là hiện
tượng “chảy máu chất xám”, hiện tượng này sẽ làm cho Việt Nam thiếu hụt
một lượng lao động có trình độ cao, gây khó khăn cho sự phát triển đất nước.
Việc mở rộng giao lưu, mở cửa hội nhập về kinh tế - xã hội cũng tạo
điều kiện cho các thế lực thù địch xâm nhập vào trong nước ta. Chúng lợi
dụng xu thế toàn cầu hoá để âm mưu truyền bá tư tưởng, lối sống không lành
mạnh đến giới trẻ Việt Nam trong đó có sinh viên - lực lượng quan trọng của
đội ngũ tri thức. Sinh viên sẽ bị lôi kéo vào những con đường vi phạm pháp
luật, gây ảnh hưởng lớn đến việc học tập, nghiên cứu cũng như phẩm chất đạo
đức của họ. Hơn nữa, đối với những sinh viên sính ngoại, Âu hoá, Mỹ hoá, họ
sẽ dễ dàng đánh mất bản sắc dân tộc và sống lối sống trái với thuần phong mĩ tục.
Một thực trạng đáng lo ngại là vấn đề giao tiếp của sinh viên bởi cùng
với lối sống cởi mở hơn nhờ hội nhập toàn cầu thì cách ăn nói của sinh viên
cũng có nhều thay đổi. Bộ phận không nhỏ sinh viên thay vì nói những “lời
hay ý đẹp” thì họ lại nói những ngôn từ vi phạm chuẩn mực, trái với nét đẹp
dân tộc hay những từ lóng mang hàm ý châm biếm, chê bai người khác. Trang
phục giảng đường của sinh viên cũng là một chủ đề nóng khi có nhiều mốt ăn
mặc “thiếu vải”, “trên cao dưới thấp”, những phong cách thời trang “độc” và
“lạ”, hay “phương Tây hoá” làm mất đi vẻ đẹp vốn có của hai từ “sinh viên”.
Tóm lại, đối với sinh viên - lực lượng trí thức tương lai, việc xây dựng
ngay từ đầu lối sống lành mạnh có tính định hướng đúng đắn. Trong bối cảnh
toàn cầu hóa ảnh hưởng đến mọi phương diện của đời sống kinh tế - xã hội
như hiện nay, sinh viên đã bị ảnh hưởng theo cả hai chiều hướng: tích cực và 15 lOMoAR cPSD| 23022540
tiêu cực. Vì vậy, chúng ta cần phải đưa ra nhiều giải pháp thiết thực hơn để
phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực.
Một số giải pháp được đề xuất ví dụ như: Đảng và Nhà nước cần quan
tâm hơn nữa về ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hoá đến giới trẻ nói chung và
sinh viên nói riêng. Bên cạnh đó, các tường đại học, cao đẳng cần chú trọng
hơn trong việc giáo dục phẩm chất đạo đức và nhân cách của sinh viên, thay
đổi phương pháp học tập, nghiên cứu phù hợp để khích thích sự hứng thú với
việc học của sinh viên, nhất là những môn như “Triết học Mác - Lênin”. Và
chính bản thân sinh viên cũng cần tự trau dồi, nâng cao ý thức của bản thân
trước những âm mưu chống phá của kẻ thù xâm lược, lập ra mục tiêu và cố
gắng phấn đấu hết mình vì mục tiêu đó. 3. Liên hệ bản thân
Năm 2023 tôi đã thực hiện bước nhảy từ học sinh cấp 3 trở thành một
sinh viên của trường Đại học Kinh tế Quốc dân - đánh dấu một chất mới ra
đời. Hiện tại, tôi đang là sinh viên lớp 65A. Logistics và quản lý chuỗi cung
ứng thuộc Viện Thương mại và Kinh tế quốc tế. Tôi sinh ra và lớn lên tại tỉnh
Bắc Ninh - một tỉnh thành giáp Hà Nội, vậy nên tỉnh Bắc Ninh cũng có tốc độ
phát triển Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá rất nhanh theo xu thế chung của đất nước và thế giới.
Vì đã từng là một học sinh chuyên Địa nên tôi đã tiếp xúc khá sớm với
khái niệm và những ảnh hưởng của toàn cầu hoá đến đời sống kinh tế - xã hội
của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc quan tâm tới xu thế này
cũng là một cách để tôi có thể định hướng cho tương lai của bản thân.
Theo học tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân - một trong những ngôi
trường hàng đầu Việt Nam về kinh tế, tôi tự ý thức được mình phải cố gắng
hơn trong việc học tập, rèn luyện trau dồi bản thân để có thể tận dụng được
những ảnh hưởng tích cực do toàn cầu hoá mang lại và thay đổi những ảnh
hưởng tiêu cực của toàn cầu hoá. Vì thế cho nên, ngay từ đầu kì học tôi đã đặt
cho mình những mục tiêu cả trong dài hạn và ngắn hạn như: đạt GPA đạt từ 16 lOMoAR cPSD| 23022540
3.2 trở lên, tốt nghiệp trước thời hạn và ra trường với tấm bằng Giỏi hoặc
Xuất sắc, đạt học bổng khuyến khích của trường và các doanh nghiệp, chứng
chỉ IELTS từ 6.0 trở lên,… Bên cạnh đó, tôi cũng trau dồi thêm các kỹ năng
mềm khác thông qua việc tham gia các hoạt động ngoại khoá hay các câu lạc
bộ, tổ đội. Các hoạt động này sẽ giúp tôi có thêm nhiều kinh nghiệm cũng như
rèn luyện kĩ năng giao tiếp, ứng xử và mở rộng các mối quan hệ xã hội. Nhờ
đó mà tôi trở nên tự tin hơn, cởi mở hơn và tìm được những người bạn thân
mới có thể giúp đỡ nhau trong học tập và cuộc sống. Đối với kì thi kết thúc
học kì 1 sắp tới, tôi cũng đang dần ôn tập, tổng hợp lại các kiến thức đã học
để có thể đạt điểm cao nhất, dần tiến tới mục tiêu đã đề ra. 17 lOMoAR cPSD| 23022540 PHẦN KẾT LUẬN
Có thể nói, bất cứ khía cạnh nào của xã hội cũng đều xảy ra theo những
phạm trù, quy luật của triết học. Sự ra đời của chất mới là do sự thay đổi về
lượng khi thực hiện bước nhảy mà có mà kết quả xảy ra là do có những
nguyên nhân ảnh hưởng. Quá trình sẽ lặp đi lặp lại và kéo dài tới vô tận trong
quá trình vận động, phát triển của toàn nhân loại. Sinh viên - những chủ nhân
tương lai của đất nước đã nhận thức được điều đó và không ngừng thay đổi
bản thân để có thể bắt kịp với xu hướng biến đổi nhanh chóng của thế giới.
Sinh viên trước xu thế toàn cầu hoá tuy nhận được nhiều lợi ích nhưng
cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực do nó mang lại. Vậy nên,
Đảng và Nhà nước cần quan tâm sát sao hơn nữa đến công tác đào tạo, giáo
dục thế hệ trẻ, trong đó có sinh viên để cho ra một nguồn nhân lực có trình độ
cao phục vụ cho sự phát triển của đất nước trong thời đại mới. 18 lOMoAR cPSD| 23022540 LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Lê Ngọc Thông nói riêng và toàn bộ
các giảng viên môn Triết học Mác - Lênin nói chung vì đã truyền dạy những
kiến thức hữu ích nhất về môn học này, giúp tôi có thể hiểu hơn về những quy
luật, những phạm trù cơ bản ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày.
Đề tài tiểu luận này không chỉ giúp tôi có thể hiểu sâu hơn về quy luật
lượng - chất và mối liên hệ nhân - quả mà còn nhận thức được tầm quan trọng
của xu thế toàn cầu hoá ảnh hưởng đến sự nghiệp tương lai như thế nào. Qua
bài tiểu luận, tôi cũng rút ra được nhiều bài học và ý thức được mình cần thay
đổi bản thân cho phù hợp với xu thế thời đại hiện nay.
Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên tôi nghiên cứu và viết tiểu luận nên trong
quá trình làm bài sẽ còn nhiều thiếu sót, kính mong thầy sẽ đóng góp những
lời góp ý cụ thể nhất để bài có thể trở nên hoàn thiện hơn.
TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN! 19 lOMoAR cPSD| 23022540
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin 2. Tác hại của ChatGPT
3. Nhân lực trình độ cao nhưng nặng lý thuyết, yéu thực hành
4. Ngân sách đầu tư cho giáo dục năm 2022 20