Quan hệ Việt Nam với ASEAN và quan hệ Việt Nam với Liên Hiệp Quốc | Tiểu luận chính trị học đại cương

ASEAN, lịch sử hình thành và phát triển ASEAN. Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN (từ 1967-1995). Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN ( từ 1992 – nay ). Những mốc thời gian quan trọng trong mối quan hệ Việt Nam và ASEAN từ 1992  tới nay. Hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN trên các lĩnh vực. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ TÀI: QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI ASEAN
VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI LIÊN HỢP QUỐC
Họ và tên: Nguyễn Hồng Phúc
Mã sinh viên: 2056140033
Lớp: Quan hệ quốc tế và Truyền thông toàn cầu (CLC) K40
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS. Phạm Thị Hoa
Hà Nội, tháng 6 năm 2021
Mục lục
Mở đầu..................................................................................................................1
Chương 1: MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ ASEAN......................................2
1.1 ASEAN, lịch sử hình thành và phát triển ASEAN...............................2
1.2 Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN (từ 1967-1995)...............................5
1.3 Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN ( từ 1992 – nay )............................9
1.3.1 Những mốc thời gian quan trọng trong mối quan hệ Việt Nam
ASEAN từ 1992 tới nay...........................................................................9
1.3.2 Hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN trên các lĩnh vực................14
Chương 2: MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ LIÊN HIỆP QUỐC................19
2.1 Liên Hiệp Quốc, lịch sử hình thành và phát triển Liên Hiệp Quốc..19
2.2 Mối quan hệ Việt Nam và Liên Hiệp Quốc.........................................20
2.2.1 Các mốc quan trọng trong mối quan hệ Việt Nam và Liên Hiệp
Quốc. 20
2.2.2 Hợp tác giữa Việt Nam và Liên Hiệp Quốc...............................21
Kết luận...............................................................................................................29
Tài liệu tham khảo.............................................................................................30
Mở đầu
Chính trị Việt Nam đi theo mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa, đơn đảng
trong đó tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là
người lãnh đạo cao nhất trong hệ thống chính trị tại Việt Nam. Hệ thống chính trị
Việt Nam do Đảng Cộng Sản lãnh đạo, được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có tham khảo kinh nghiệm của thế
giới. Mặc dù là theo chế độ đơn đảng, xuất phát từ quá trình phi thực dân hóa,
nhưng không vì vậy mà Việt Nam từ chối các quan hệ quốc tế, ngược lại Việt
Nam cổ vũ quan hệ ngoại giao với thế giới, đặc biệt là các nước láng giếng.
Ngoại giao quốc tế giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển, góp phần giúp hệ thống
chính trị Việt Nam lớn mạnh, chống lại được các thế lực thù địch. Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã nhấn mạnh một trong những
nhiệm vụ của ngành ngoại giao trong giai đoạn mới là chủ động “bảo vệ đất
nước từ sớm, từ xa”.[ CITATION Phạ20 \l 1033 ]
Trong tình hình quốc tế ngày nay, khi quá trình hội nhập ngày càng được
xúc tiến nhanh, ngoại giao quốc tế ngày càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần
nâng cao vị thế quốc tế của đất nước trên thế giới. Cho đến nay, Việt Nam là
thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính
phủ trên thế giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại
Liên hợp quốc, phát huy vai trò thành viên tích cực của phong trào Không liên
kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN ... Những kết quả đạt
được trong mối quan hệ này đã củng cố và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước,
tạo ra thế cơ động và linh hoạt trong quan hệ quốc tế, có lợi cho việc bảo vệ độc
lập tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây dựng đất nước.
1
Từ những lý do trên, em xin chọn đề tài chính trị học đại cương: “Quan
hệ Việt Nam với ASEAN và quan hệ Việt Nam với Liên Hiệp Quốc”. Qua đề
tài này, em muốn người đọc hiểu biết rõ hơn về ASEAN và Liên Hiệp Quốc, mối
quan hệ giữa Việt Nam và 2 tổ chức này, phân tích sự thay đổi về chính trị trong
quá trình quan hệ hợp tác đôi bên.
Kết cấu đề tài bao gồm hai chương (ngoài phần mở đầu và kết luận):
Chương 1: Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN.
Chương 2: Mối quan hệ Việt Nam và Liên Hiệp Quốc.
Với khuôn khổ một tiểu luận, thời gian và trình độ có hạn nên tiểu luận
của em không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Em rất mong có sự động viên và
đóng góp ý kiến của thầy cô giáo bộ môn chính trị học đại cương để tiểu luận
của em được hoàn thiện hơn.
Chương 1: MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM ASEAN.
1.1 ASEAN, lịch sử hình thành và phát triển ASEAN.
1.1.1 Thành lập.
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày
08/8/1967 tại Bangkok, Thái Lan với sự tham gia của 5 quốc gia thành viên ban
đầu là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Năm 1984,
ASEAN kết nạp thêm Brunei. Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên
thứ 7 của Hiệp hội. Ngày 23/7/1999 ASEAN kết nạp Lào và Myanmar. Ngày
30/4/1999, Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN, hoàn thành giấc
mơ về một ASEAN bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á.
2
1.1.2 Mục tiêu.
Tuyên bố ASEAN (tuyên bố Bangkok) năm 1967 nêu rõ mục tiêu và mục
đích ASEAN:
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu
vực thông qua những sáng kiến chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác
nhằm củng cố nền tảng cho một cộng đồng thịnh vượng và hòa bình của các
quốc gia Đông Nam Á.
Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực thông qua tôn trọng công lývà pháp
quyền trong mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực và tuân thủ các
nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Thúc đẩy hợp tác tích cực và hỗ trợ lẫn nhau về các vấn đề cùng quan tâm
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, kỹ thuật, khoa học và hành chính.
Hỗ trợ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cơ sở vật chất phục vụ nghiên
cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính;
Hợp tác hiệu quả hơn nhằm sử dụng tốt hơn ngành nông nghiệp và công
nghiệp mở rộng thương mại, bao gồm việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến thương mại hàng hóa quốc tế, cải thiện các phương tiện giao thông, liên
lạc, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân;
Thúc đẩy nghiên cứu về Đông Nam Á;
Duy trì hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn
chỉ và mục đích tương tự, và tìm kiếm các phương thức để có thể hợp tác chặt
chẽ hơn gữa các tổ chức này.
Hiến chương ASEAN, văn kiện pháp lý quan trọng của ASEAN
(15/12/2009) đã khẳng định lại các mục tiêu cơ bản trên, đồng thời bổ sung thêm
các mục tiêu mới cho phù hợp với tình hình.
3
1.1.3 Các mốc phát triển chính của ASEAN.
8/8/1967 ASEAN chính thức được thành lập với 5 thành viên.
2/1976 Hội nghị Cấp cao ASEAN đầu tiên được tổ chức.
1/1984 Brunei gia nhập ASEAN.
1994 Lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF).
1/1992 Ký Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN
và Thỏa thuận về Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA).
7/1995 Việt Nam gia nhập ASEAN.
7/1997 Lào và Myanmar gia nhập ASEAN.
12/1997 Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 đầu tiên được tổ chức.
4/1999 Campuchia chính thức gia nhập ASEAN, đưa ASEAN trở
thành một tổ chức khu vực gồm 10 thành viên Ðông-Nam Á.
12/2005 Hội nghị Cấp cao Ðông Á (EAS) đầu tiên được tổ chức với
sự tham gia của lãnh đạo các nước ASEAN, Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Ðộ, Australia và New Zealand.
11/2007 Hiến chương ASEAN ra đời.
31/12/2015 Cộng đồng ASEAN chính thức thành lập.
1.1.4 Phương thức hoạt động của ASEAN.
Phương thức ra quyết định: Tham vấn và Đồng thuận (consultation &
concensus) – Mọi vấn đề của ASEAN đều phải tham vấn tất cả các nước
4
thành viên ASEAN và quyết định chỉ được thông qua khi tất cả các nước
thành viên đều nhất trí hoặc không phản đối.
Nguyên tắc trong quan hệ với các đối tác: Trong triển khai quan hệ đối
ngoại của ASEAN, các quốc gia thành viên sẽ phối hợp và nỗ lực xây
dựng lập trường chung cũng như tiến hành các hoạt động chung trên cơ sở
thống nhất và đoàn kết, tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc đề ra trong
Hiến chương (theo Điều 41 Hiến chương ASEAN).
Tiệm tiến và thoải mái với tất cả các bên: Hợp tác khu vực phải được tiến
hành từng bước, bảo đảm phù hợp với lợi ích, khả năng của các nước và
tất cả đều có thể tham gia, đóng góp, không thành viên nào bị “bỏ lại”.
1.2 Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN (từ 1967-1995).
1.2.1 Từ năm 1967 đến 1972.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, quan hệ giữa các quốc gia ở Đông Nam
Á đã trải qua nhiều bước thăng trầm, có lúc một số nước đã trở thành thù địch
của nhau hoặc đối đầu với nhau rất căng thẳng, mà tâm điểm đều bắt nguồn từ
các cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài chống lại Việt Nam và các nước
khác trên bán đảo Đông Dương.
Thành lập năm 1967 khi Chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn đỉnh
điểm, các cuộc nổi dậy của phiến quân cộng sản lan rộng ở Đông Nam Á,
ASEAN có thể coi là một phản ứng của năm nước thành viên sáng lập trước mối
đe dọa của chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam đã nhìn nhận ASEAN với nhiều nghi
ngờ và hạn chế quan hê với ASEAN vì đang tiến hành kháng chiến chống Mĩ
cứu nước. Mỹ đã thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) năm 1954,
với mục đích phòng thủ, ngăn chặn cộng sản tràn xuống Đông Nam Á, đây là
một khối quân sự để phục vụ cho Mỹ, thay thế Pháp và lôi kéo một số nước là
thành viên của khối này tham gia cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền
5
Nam Việt Nam. Thái Lan, Philippin cũng tham gia khối quân sự SEATO và trở
thành đồng minh của Mĩ càng khiến V t Nam đối lâ p với các nước ASEAN.
1.2.2 Từ năm 1973 đến 1978.
Hiê p định Pari (1973) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 buộc Mỹ và đồng minh phải
rút khỏi miền nam Việt Nam, ngừng tấn công miền Bắc. Sau hiệp định, nước ta
bắt đầu triển khai, đẩy mạnh quan hê song phương với các nước ASEAN.
Sau chiến thắng vĩ đại ngày 30/4/1975, một nước Việt Nam độc lập, thống
nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội ra đời. Sự kiện này lại một lần nữa tác động
mạnh mẽ đến tình hình Đông Nam Á, vị trí của V t Nam trong khu vực và thế
giới ngày càng tăng.
Ngày 24/2/1976, Hội nghị thượng đỉnh của ASEAN họp tại Bali,
Indonesia, đã ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC). Mục
đích của TAC là nhằm thúc đẩy nền hòa bình vĩnh viễn, sự thân thiện và hợp tác
lâu bền giữa nhân dân các bên tham gia Hiệp ước, góp phần vào sức mạnh, tình
đoàn kết và quan hệ chặt chẽ hơn của các bên. Các nguyên tắc cơ bản của TAC
là cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc
dân tộc của tất cả các quốc gia; quyền của mọi quốc gia được tồn tại mà không
có sự can thiệp, lật đổ hoặc áp bức của bên ngoài; không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hòa
bình; từ bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực; hợp tác với nhau một cách có hiệu
quả.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời ngày 26/6/1976 và chỉ
mười ngày sau tức ngày 5/7/1976, Chính phủ Việt Nam đã công bố chính sách
bốn điểm trong quan hệ với các nước Đông Nam Á, khẳng định: “Tôn trọng độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can
6
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa
bình; giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng… Phát triển hợp tác vì
sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh theo điều kiện riêng của mỗi nước vì độc
lập dân tộc, hòa bình trung lập thật sự ở Đông Nam Á”. Những quan điểm đó
cũng trùng khớp với mong muốn của ASEAN, thể hiện tinh thần kết nối với các
nước láng giềng trong khu vực của đất nước vừa mới “đứng dậy” sau hai cuộc
chiến tranh đau thương và mất mát.
1.2.3 Từ năm 1978 đến 1989
Tháng 12/1978, V t Nam đưa quân tình nguyê n vào Campuchia giúp
nhân dân nước này lâ t đổ chế đô diê t chủng Polpot. Mô t số nước lớn đã can
thiê p, kích đông làm cho quan hê giữa V t Nam và ASEAN trở lên căng thẳng.
Chế độ diệt chủng Khmer Đỏ ở Campuchia tiến hành cuộc chiến tranh
xâm lược ở dọc biên giới Việt Nam, ngay sau khi cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam của đế quốc Mỹ vừa mới kết thúc. Xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng
và trách nhiệm quốc tế, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu
nước Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam đã tiến sang kịp thời cứu giúp
nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng và bảo vệ công cuộc hồi
sinh của đất nước Campuchia khỏi sự quay trở lại của chế độ diệt chủng Polpot
Khmer Đỏ. Trong thời gian cầm quyền, chính quyền Khmer Đỏ đã được Trung
Quốc hậu thuẫn vì muốn cô lập nước Việt Nam lúc đó đang được Liên Xô hậu
thuẫn. Theo BBC, Hoa Kỳ không muốn mang tiếng là giúp PolPot, nhưng họ đã
thông qua Trung Quốc để làm điều đó, và Hoa Kỳ cũng giúp đỡ về ngoại giao
bằng cách bỏ phiếu chấp thuận việc duy trì ghế của Kampuchea Dân chủ (của
PolPot) ở Liên Hiệp Quốc. Sự kiện này đã kéo dài hơn 10 năm, làm cho quan hệ
giữa Việt Nam, Lào, Campuchia với các nước ASEAN trở nên căng thẳng và đối
7
đầu cho đến khi “vấn đề Campuchia” được giải quyết tại Hội nghị quốc tế về
Campuchia ngày 23/10/1991 tại Paris, Thủ đô nước Pháp.
Quan hệ giữa Việt Nam và khối ASEAN, đặc biệt là Thái Lan, trong thời
kỳ này rất căng thẳng (Haas, Michael (1991). Cambodia, Pol Pot, and the United
States: The Faustian Pact. ABC-CLIO, pages 17, 28–29) và trong nhiều trường
hợp đứng bên bờ vực chiến tranh. Sau khi Việt Nam rút khỏi Campuchia vào
năm 1991, quan hệ Việt NamASEAN dần được cải thiện và bình thường hóa.
1.2.4 Từ năm 1989 đến 1992
ASEAN đã chuyển từ chính sách đối đầu sang đối thoại, hợp tác với ba
nước Đông Dương. Từ khi vấn đề Campuchia được giải quyết, V t Nam thực
hiê n đường lối đối ngoại “Muốn làm bạn với tất cả các nước” quan hê giữa V t
Nam và ASEAN được cải thiê n.
Nhìn lại bối cảnh lịch sử giai đoạn đầu những năm 1990, có thể thấy
nhiệm vụ cơ bản của công tác đối ngoại đã được Đảng và Nhà nước chỉ rõ là
củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tháng 7/1992 V t Nam tham gia vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác
(hiê p ước Bali) trở thành quan sát viên của ASEAN, điều này đánh dấu bước
phát triển quan trọng trong sự tăng cường hợp tác khu vực vì mô t “Đông Nam Á
hòa bình, ổn định và phát triển”.
Từ năm 1993, Việt Nam đã tham gia các chương trình và dự án hợp tác
ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học-công nghệ, môi trường, y tế, văn hoá-thông
tin, phát triển xã hội. Việt Nam cũng tham gia Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF)
và trở thành một trong những nước sáng lập Diễn đàn này.
8
1.3 Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN ( từ 1992 – nay ).
1.3.1 Những mốc thời gian quan trọng trong mối quan hệ Việt Nam và
ASEAN từ 1992 tới nay.
Ngày 28-7-1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN, đánh dấu quá trình hội nhập
khu vực của Việt Nam cũng như tiến trình, hợp tác, liên kết của cả khu vực. Việc
Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 là một trong những mốc quan trọng nhất
trong lịch sử đối ngoại của Việt Nam kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
cũng như trong quá trình phát triển của ASEAN. Sự kiện này có ý nghĩa quan
trọng, đưa khu vực Đông Nam Á từ đối đầu sang đối thoại, từ nghi ngờ sang tin
cậy, từ chia rẽ sang đoàn kết. Với ASEAN, kết nạp Việt Nam trở thành thành
viên thứ 7 giúp đẩy nhanh quá trình mở rộng ASEAN ra cả 10 nước trong khu
vực, qua đó củng cố hòa bình, ổn định ở mô t khu vực có tầm quan trọng đặc biệt
về địa lý, chính trị và kinh tế, trung tâm kết nối Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương. Với V t Nam, đây là cột mốc quan trọng đánh dấu bước tiến rất quan
trọng của Việt Nam trên con đường hội nhập khu vực và quốc tế.
Từ 1995-1997, Việt Nam cùng các nước ASEAN thúc đẩy kết nạp
Campuchia, Lào và Myanmar vào ASEAN, hoàn tất ý tưởng về một ASEAN
gồm 10 quốc gia ở Đông Nam Á. Điều này đã góp phần đưa ASEAN trở thành tổ
chức đại diện cho toàn khu vực, liên kết sâu rộng và có vai trò quan trọng ở
Đông Nam Á và châu Á -Thái Bình Dương. Đại sứ Kamsiah Kamaruddin đã
nhận định: “Với 6 quốc gia ban đầu, các nước thành viên ASEAN có nhiều điểm
tương đồng. Nhưng khi Việt Nam xuất hiện, Việt Nam đã mang đến sự năng
động mới, những nhân tố mới, và chúng tôi đã phối hợp cùng với Việt Nam để
xây dựng một ASEAN mạnh hơn”. Việt Nam đã qua giai đoạn đóng cửa củng cố
nền hoà bình, hiện giờ là lúc cần phát triển ngoại giao, hội nhập thế giới, vì chỉ
có mở cửa kinh tế, tăng cường hợp tác quốc tế mới có thể đưa kinh tế và chính trị
9
Việt Nam phát triển và đi lên. Việt Nam phải năng động, phải tạo được vị trí cho
mình trên chính trường quốc tế thì mới có thể có tiếng nói và cơ hội sánh vai với
các cường quốc trên thế giới. ASEAN càng phát triển và mở rộng, Việt Nam
càng có nhiều cơ hội để thể hiện bản thân mình trong các lĩnh vực kinh tế chính
trị đối ngoại.
Tháng 12/1998, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 được tổ chức tại Hà
Nội với chủ đề "Ðoàn kết, hợp tác vì một ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển
đồng đều". Thông qua Chương trình Hành động Hà Nội, góp phần quan trọng
tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh hợp tác, định hướng cho sự phát triển và hợp
nhằm thực hiện Tầm nhìn 2020. Tuyên bố về các biện pháp mạnh mẽ để cải thiện
môi trường đầu tư ASEAN và ký bốn Hiệp định hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể.
Hội nghị quyết định kết nạp Campuchia làm thành viên thứ mười của ASEAN và
lễ kết nạp được tiến hành tại Hà Nội. Tổ chức thành công một hội nghị cấp cao
của ASEAN mang nghĩa Việt Nam đã thể hiện được vị trí của mình trong cộng
đồng ASEAN, tuy mới gia nhập, còn non trẻ, nhưng những thành tích mà Việt
Nam mang lại cho ASEAN đã tăng khả năng và tiếng nói của Việt Nam trên bàn
hội nghị. Đặc biệt, với sự gia nhập của Campuchia vào ASEAN, điều này khẳng
định những gì Việt Nam đã làm từ năm 1995 đến 1997 đã thành công rực rỡ, một
cộng đồng đầy đủ các quốc gia thành viên Đông Nam Á là những gì Việt Nam và
ASEAN cùng hướng tới.
Tháng 7/2000 – 7/2001, với vai trò Chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN
(ASC) khoá 34 và ARF, Việt Nam đã chủ trì và tổ chức thành công Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM 34), Diễn đàn khu vực ASEAN lần
thứ 8 (ARF 8), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và các nước Đồng Bắc Á
(ASEAN+3), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao giữa ASEAN với các nước đối
thoại (PMC+10) và với từng nước Đối thoại (PMC+1) và Hội nghị sông Hằng-
Sông Mê kông vào cuối tháng 7/2001. Trong năm Việt Nam làm chủ tịch,
10
ASEAN và ARF đã đạt được những kết quả quan trọng, tiếp tục phát triển đúng
hướng, phù hợp với lợi ích của từng nước ASEAN và lợi ích của cả khu vực.
Trong thời gian này, với vai trò chủ trì và điều phối của Việt Nam, ASEAN đã
phê chuẩn Nghị định thứ hai của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác, thông qua
Quy chế của Hội đồng Tối cao (TAC) và tổ chức cuộc họp đầu tiên của Hội đồng
trong dịp AMM 34; lần đầu tiên ASEAN đã tiến hành tham khảo trực tiếp với
năm cường quốc hạt nhân trong khuôn khổ Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ
khí hạt nhân (SEANWFZ). ASEAN cũng đạt nhiều tiến triển trong việc xây
dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông với Trung quốc, tạo tiền đề cho việc ra
tuyên bố về cách ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông sau này.
Năm 2010, 2 năm sau khi Hiến chương ASEAN có hiệu lực, Đại sứ Việt
Nam tại Argentina Đặng Xuân Dũng đã tiếp nhận chức Chủ tịch Ủy ban ASEAN
tại Buenos Aires (ACBA) từ Đại sứ Philippines Linglingay F. Lacanlale. Việt
Nam đã đưa ra những sáng kiến như mở rộng thành viên của Hội nghị Cấp cao
Đông Á, bằng cách thúc đẩy kết nạp Nga và Mỹ tham gia Cấp cao Đông Á; cũng
như tổ chức lần đầu tiên Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng
(ADMM+) trong năm Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN 2010. 28-30/10/2010,
dưới sự chủ trì của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Việt Nam thành công tổ chức
hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 17. Những thành công quan trọng của ASEAN
trong năm 2010 có phần đóng góp rất có ý nghĩa của sự chủ động, tích cực và
trách nhiệm của Việt Nam trên cương vị Chủ tịch và được bạn bè quốc tế càng
đánh giá cao, vị thế của Việt Nam càng được nâng cao thêm qua năm Chủ tịch
ASEAN. Để đạt được những thành công đó, trước hết là do đường lỗi đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta, sau 15 năm gia nhập ASEAN, hệ thống chính trị Việt
Nam đã có thành tựu quan trọng trên lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế, từ
đó tạo nên được thành công năm Chủ tịch ASEAN.
11
Từ năm 2012 đến 2015, Việt Nam tiếp tục đảm nhiệm vai trò điều phối
viên quan hệ giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Liên minh
Châu Âu (EU). EU là một trong những đối tác lâu đời nhất của ASEAN khi hai
bên chính thức thiết lập quan hệ đối thoại vào năm 1977, quan hệ hợp tác
ASEAN-EU đã phát triển nhanh chóng và mở rộng ra nhiều lĩnh vực, trong đó có
chính trị-an ninh, kinh tế-thương mại, văn hóa-xã hội và hợp tác phát triển.
ASEAN luôn coi trọng quan hệ với EU-một trong những đối tác lâu đời nhất của
ASEAN và có vai trò, vị thế và ảnh hưởng lớn cũng như có tiềm năng đóng góp
lớn cho hợp tác ở khu vực. ASEAN mong muốn gắn kết EU tham gia và đóng
góp thực chất và hiệu quả đối với hợp tác khu vực, nhất là đối với các vấn đề liên
quan đến hòa bình, an ninh và phát triển thịnh vượng của khu vực.
Ngày 22/11/2015, lãnh đạo 10 quốc gia ASEAN ký Tuyên bố Kuala
Lumpur 2015 về thành lập Cộng đồng ASEAN (AC). Từ “Tầm nhìn ASEAN
2020” (1997) với mục tiêu thành “một nhóm hài hòa các dân tộc Đông Nam Á,
gắn bó trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau”; đến quyết định 2003
xây dựng Cộng đồng ASEAN với 3 trụ cột: Cộng đồng An ninh, Cộng đồng
Kinh tế, Cộng đồng Văn hóa-Xã hội; và quyết tâm đẩy nhanh tiến trình liên kết
nội khối dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN (2007), ASEAN phải
trải qua 18 năm để trở thành “Cộng đồng ASEAN (AC) trong Cộng đồng các
Quốc gia Toàn cầu”. AC trở thành tổ chức liên minh chính phủ vững mạnh, là
một cộng đồng mở, luôn mở rộng hợp tác, liên kết, chia sẻ với tất các nước trên
nhiều khu vực.
Năm 2016, Việt Nam tiếp tục tham gia đầy đủ, hoàn thành nghiêm túc các
cam kết và đóng góp hiệu qủa trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN. Việt
Nam đã góp phần quan trọng trong việc hoàn thành các công việc để hình thành
Cộng đồng ASEAN 2015, là một trong hai nước thành viên có tỷ lệ hoàn thành
cao nhất, có tác động lớn đến thương mại và đầu tư trong Kế hoạch Tổng thể xây
12
dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (với tỷ lệ 95,5%, đứng thứ hai sau Singapore).
Việt Nam còn đề xuất nhiều sáng kiến có giá trị nhằm tăng cường kết nối, thu
hẹp khoảng cách phát triển và đem lại nhiều lợi ích trực tiếp đến người dân, chủ
động, tích cực và đóng vai trò nòng cốt trong nỗ lực liên kết ASEAN trong 10
năm tới bằng cách xây dựng gói văn kiện Tầm nhìn 2025.
Năm 2018, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế
giới về ASEAN (WEF ASEAN). Đây là một trong những hội nghị lớn và quan
trọng của WEF trong khu vực (chỉ sau Hội nghị WEF Davos mùa hè ở Trung
Quốc). Hội nghị có chủ đề “ASEAN 4.0: Tinh thần doanh nghiệp và Cách mạng
công nghiệp lần thứ 4”, là một trong những diễn đàn quan trọng và có uy tín
trong khu vực, thúc đẩy đối thoại, chia sẻ ý tưởng, chính sách và hợp tác về tranh
thủ cơ hội và xử lý các vấn đề cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra cho các
nước ASEAN và khu vực. Hội nghị WEF ASEAN 2018 tại Việt Nam là một
trong những hội nghị WEF khu vực thu hút số lượng đại biểu đông nhất từ trước
đến nay với hơn 900 đại biểu quốc tế tham dự. Điều này thể hiện sức hút của
Việt Nam nói riêng và của khu vực ASEAN nói chung trên trường thế giới. Hội
nghị cũng là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam kết nối, mở rộng cơ hội hợp
tác với các tập đoàn thành viên của WEF.
1-1-2020, Việt Nam đảm nhận vai trò chủ tịch ASEAN, đây là cơ hội cũng
là thách thức lớn đối với Việt Nam. ASEAN đang trên đà phát triển và thành
công, làm sao để giữ được ASEAN tiếp tục trên con đường thành công đó, ngoài
ra, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chuyển đổi cách mạng số, cách mạng khoa
học công nghệ, Việt Nam phải chuẩn bị sẵn sàng cho nền kinh tế số.
6-2020 Việt Nam tổ chức thành công hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36,
hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tuyến đã được khai mạc tại Trung tâm
Hội nghị quốc tế Hà Nội. Dịch covid hoành hành là biến số mới không lường
13
được trong năm 2020, đi cùng với dịch bệnh là sinh mạng và cuộc sống hàng
triệu người. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (8/6/2020), kinh tế toàn cầu
năm 2020 sẽ suy giảm nghiêm trọng, ở mức âm 5,2%, thu nhập bình quân đầu
người giảm 3,6% và khiến cho 70-100 triệu người rơi vào nghèo đói cùng cực,
gia tăng nguy cơ mất ổn định xã hội. Hơn 40% các ngành sản xuất, kinh doanh
của các quốc gia phải chịu tác động trực tiếp từ các biện pháp phong tỏa dịch
bệnh. Dịch bệnh khiến cho thách thức vốn có càng trở nên khó khăn hơn.
1.3.2 Hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN trên các lĩnh vực.
1.3.2.1 An ninh- chính trị
Việc gia nhập ASEAN đã giúp ta phá thế bị bao vây về kinh tế và cô lập
về chính trị khi đó; chấm dứt tình trạng chia rẽ, đối đầu ở khu vực, tạo dựng mối
quan hệ mới về chất giữa các nước Đông Nam Á theo chiều hướng hữu nghị, ổn
định và lâu dài, hợp tác toàn diện và chặt chẽ cả về đa phương và song phương.
Ta đã được trực tiếp tham gia và đóng góp quan trọng trong việc xác định
phương hướng phát triển và các quyết sách lớn của ASEAN cũng như giữ vững
các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, phù hợp với yêu cầu và lợi ích của ta; xác
lập được vai trò quan trọng và có uy tín của Việt Nam trong hợp tác ASEAN,
góp phần duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN đối với hòa bình và phát triển ở khu
vực, hạn chế sự can thiệp và chi phối của các nước bên ngoài. Ta cũng có điều
kiện thuận lợi để phối hợp lập trường và hợp tác với các nước trong việc xử lý
các vấn đề khu vực và quốc tế phức tạp, hỗ trợ đáng kể cho ta trong việc bảo vệ
chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông.
Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC) có mức độ hợp tác chặt chẽ
hơn với nhiều tiến triển quan trọng về xây dựng lòng tin, chia sẻ các chuẩn mực
và quy tắc ứng xử, ngăn ngừa và quản lý xung đột, nâng cao năng lực xử lý
14
những thách thức an ninh. ASEAN đã nỗ lực gắn kết, thúc đẩy hợp tác và tham
vấn cũng như tăng cường hiểu biết giữa các nước, các cơ quan chuyên ngành ở
cấp độ khu vực và quốc gia trong các lĩnh vực giáo dục, luật pháp, thông tin, văn
hóa. Ðáng chú ý, ASEAN đã thành lập Ủy ban liên chính phủ ASEAN về Nhân
quyền (AICHR), Viện Hòa bình hòa giải ASEAN (AIPR).
Trước tình hình Biển Ðông tiếp tục diễn biến phức tạp, các nước đều ủng
hộ các nguyên tắc của ASEAN, đó là: bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn hàng
hải; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; tôn trọng luật pháp quốc
tế và Công ước luật biển; thực hiện đầy đủ DOC và sớm tiến tới Bộ quy tắc ứng
xử (COC).
1.3.2.2 Kinh tế
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) là một không gian kinh tế trên nền
tảng của Khu vực mậu dịch tự do (AFTA) được mở rộng về phạm vi và nâng cao
về mức độ tự do hóa, trong đó về cơ bản không còn thuế quan đối với hàng hóa
và có sự lưu chuyển khá thuận lợi về dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay
nghề; có mức độ hợp tác khá chặt chẽ trong các lĩnh vực kinh tế ngành; và đã kết
nối với các nền kinh tế lớn trên thế giới.
Về kinh tế, ta có thị trường rộng lớn cho xuất khẩu sang ASEAN (với gần
630 triệu dân và tổng GDP 2.400 tỉ USD (2015) và cơ hội tiếp cận thị trường
thuận lợi hơn đến các nước đối tác của ASEAN; gia tăng sức hấp dẫn đối với đầu
tư và kinh doanh từ bên ngoài, đồng thời thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra các
nước.
i nhâ p và tham gia các hoạt đô ng hợp tác trong ASEAN, đă c biê t là
ng đồng Kinh tế ASEAN đã giúp V t Nam tranh thủ được những lợi ích thiết
15
thực về kinh tế - thương mại, hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế đất nước.
Trong 25 năm qua, nền kinh tế V t Nam đã chứng kiến sự đổi thay vượt bâ c về
mọi mă t, trong đó có đóng góp không nhỏ của hợp tác ASEAN. Từ chỗ là môt
trong những nước nghèo nhất trên thế giới, V t Nam đã vươn lên trở thành nước
có thu nhâ p trung bình và được đánh giá có triển vọng duy trì tăng trưởng trong
tương lai. Nếu như năm 1995, GDP bình quân đầu người của V t Nam đạt 289
USD, thì đến năm 2019, con số này đã là 2.800 USD. Quy mô nền kinh tế tăng
trưởng mạnh, từ 20,8 tỷ USD năm 1995 lên 266 tỷ USD vào năm 2019. Năm
2019, kinh tế V t Nam được xếp trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất
vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019 với tốc đô tăng trưởng GDP là 6,5% bất chấp
tình hình thế giới có nhiều biến đô ng.
Nhờ sự hô i nhâ p khu vực và khởi đầu là ASEAN, nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào V t Nam tăng mạnh qua các năm, từ 10 tỷ USD (năm
1995) lên 38 tỷ USD (năm 2019). Năm 2019, V t Nam xếp thứ 21 về thu hút
vốn FDI toàn thế giới, đứng thứ ba ở khu vực. 25 năm qua cũng chứng kiến kim
ngạch xuất - nhâ p khẩu hàng hóa và dịch vụ của V ‹t Nam tăng trưởng vượt bâ c
với ASEAN là đối tác lớn, quan trọng hàng đầu. ASEAN là đối tác xuất khẩu lớn
thứ tư của V t Nam (sau Mỹ, EU, Trung Quốc) là thị trường cung cấp hàng hóa
nhâ p khẩu lớn thứ ba vào V t Nam (sau Trung Quốc và Hàn Quốc).
Đối với Việt Nam, việc gia nhập ASEAN là một trong những điểm đột phá
đầu tiên để triển khai phương châm đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa mà
Ðại hội Ðảng lần thứ VII đã đề ra. Quyết sách đúng đắn của Ðảng và Nhà nước
đã đem lại nhiều lợi ích cho đất nước trong bối cảnh lúc bấy giờ, khi Việt Nam
xúc tiến công cuộc đổi mới, khắc phục hậu quả chiến tranh để hướng tới hội
nhập khu vực và quốc tế.
16
Ta đã thu được những lợi ích thiết thực để phục vụ cho phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước. ASEAN hiện là một trong những đối tác kinh tế hàng đầu,
một trong số các đối tác lớn, nhà cung cấp FDI quan trọng và có quan hệ trong
hầu hết các lĩnh vực hợp tác kinh tế của Việt Nam.
1.3.2.3 Văn hoá giáo dục
Về văn hóa – xã hội, ta có điều kiện nâng cao năng lực thông qua cơ hội
tiếp nhận được thông tin, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại và
nguồn lực, đào tạo và nâng cao năng lực của cán bộ, tạo chuyển biến tích cực
trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, luật lệ và thủ tục trong nước cho
phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế.
Thông qua Cô ng đồng Văn hóa - Xã hôi ASEAN - một cộng đồng bao
trùm nhiều lĩnh vực, đa dạng xuyên suốt nhiều nội dung hợp tác về giáo dục, môi
trường, y tế, phúc lợi xã hội, lao động và việc làm, văn hóa, thể thao..., chất
lượng cuộc sống của người dân V t Nam được quan tâm và bảo đảm. Hơn thế
nữa, người dân V t Nam cùng chia sẻ với người dân các nước ASEAN sự đoàn
kết và thống nhất, tạo thuâ n lợi để xây dựng một bản sắc chung của một khu vực
chia sẻ, đùm bọc, hòa thuận và rộng mở. Với chính sách miễn thị thực du lịch
ngắn hạn giữa các nước ASEAN và hạ tầng du lịch ngày càng thuâ n lợi, ngành
du lịch ở các nước ASEAN đã cất cánh mạnh mẽ trong 25 năm qua và thu hút
được nguồn khách quốc tế lớn, tạo nên nguồn thu quan trọng cho nền kinh tế.
Trong các nước ASEAN, V t Nam luôn được xem là điểm đến được ưa chuông.
Đồng thời, lao đô ng V t Nam đã lan tỏa ra tất cả các nước trong ASEAN, tâ n
dụng những cơ hô i viê c làm đa dạng, từ những công viê c đòi hỏi kỹ năng, trình
đô cao, tới những công viê c đòi hỏi kỹ năng vừa phải hơn tại các nước, như
Malaysia, Thái Lan. Bên cạnh đó, thông qua Công đồng Văn hóa - Xã hôi
17
ASEAN, người dân V t Nam cũng được hưởng lợi từ những hợp tác như hỗ trợ
người lao đô ng, thúc đẩy quyền của người lao đô ng di cư, bình đẳng giới và bảo
quyền của người phụ nữ cũng như trong ứng phó với các thách thức an ninh
phi truyền thống, như nạn buôn bán ma túy, thiên tai, dịch bê nh..., phù hợp với
mục tiêu chung của V t Nam là đă t người dân ở vị trí trung tâm, không để ai bị
bỏ lại phía sau.
Gia nhập ASEAN cũng đặt ra cho Việt Nam yêu cầu cấp bách về đào tạo
cán bô làm công tác đa phương, ban đầu là phục vụ cho hợp tác ASEAN và sau
này đóng góp thiết thực cho quá trình hô i nhâ p toàn diê n của đất nước. Thông
qua hợp tác ASEAN và qua các đối tác, nhiều lớp cán bô đối ngoại của V t Nam
từ các bô , ngành và địa phương đã được tham gia các khóa đào tạo kỹ năng tiếng
Anh, đàm phán, dự thảo văn kiê n, trình bày, điều hành hô i nghị... Đến nay, năng
lực của cán bô đa phương V t Nam đã có sự tiến bô ‹ vượt bâ c, mô t phần không
nhỏ là bởi nhu cầu cấp bách đă t ra khi tham gia hợp tác ASEAN và nhờ đòn bẩy
của hợp tác ASEAN.
Thông qua việc tham gia rất nhiều chương trình, dự án và hoạt động hợp
tác của ASEAN, ta có điều kiện tiếp cận được thông tin và các tiến bộ khoa học-
công nghệ hiện đại; học tập và chia sẻ kinh nghiệm để nâng cao năng lực về
quản lý và phát triển văn hóa-xã hội, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững. Ngoài ra, thông qua ASEAN, chúng ta có điều kiện tiếp cận và
tranh thủ được các chương trình trợ giúp kỹ thuật và cả tài chính của các đối tác
dành cho ASEAN, trong đó có Việt Nam, trong lĩnh vực quản lý thiên tai và
thảm họa, biến đổi khí hậu.
18
| 1/32

Preview text:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA QUAN HỆ QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG
ĐỀ TÀI: QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI ASEAN
VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM VỚI LIÊN HỢP QUỐC
Họ và tên: Nguyễn Hồng Phúc
Mã sinh viên: 2056140033
Lớp: Quan hệ quốc tế và Truyền thông toàn cầu (CLC) K40 GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Phạm Thị Hoa Hà Nội, tháng 6 năm 2021 Mục lục
Mở đầu..................................................................................................................1
Chương 1: MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ ASEAN......................................2
1.1 ASEAN, lịch sử hình thành và phát triển ASEAN...............................2
1.2 Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN (từ 1967-1995)...............................5
1.3 Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN ( từ 1992 – nay )............................9 1.3.1
Những mốc thời gian quan trọng trong mối quan hệ Việt Nam
và ASEAN từ 1992 tới nay...........................................................................9 1.3.2
Hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN trên các lĩnh vực................14
Chương 2: MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ LIÊN HIỆP QUỐC................19
2.1 Liên Hiệp Quốc, lịch sử hình thành và phát triển Liên Hiệp Quốc.. 19
2.2 Mối quan hệ Việt Nam và Liên Hiệp Quốc.........................................20 2.2.1
Các mốc quan trọng trong mối quan hệ Việt Nam và Liên Hiệp Quốc. 20 2.2.2
Hợp tác giữa Việt Nam và Liên Hiệp Quốc...............................21
Kết luận...............................................................................................................29
Tài liệu tham khảo.............................................................................................30 Mở đầu
Chính trị Việt Nam đi theo mẫu nhà nước xã hội chủ nghĩa, đơn đảng
trong đó tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là
người lãnh đạo cao nhất trong hệ thống chính trị tại Việt Nam. Hệ thống chính trị
Việt Nam do Đảng Cộng Sản lãnh đạo, được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có tham khảo kinh nghiệm của thế
giới. Mặc dù là theo chế độ đơn đảng, xuất phát từ quá trình phi thực dân hóa,
nhưng không vì vậy mà Việt Nam từ chối các quan hệ quốc tế, ngược lại Việt
Nam cổ vũ quan hệ ngoại giao với thế giới, đặc biệt là các nước láng giếng.
Ngoại giao quốc tế giúp nền kinh tế Việt Nam phát triển, góp phần giúp hệ thống
chính trị Việt Nam lớn mạnh, chống lại được các thế lực thù địch. Phó Thủ
tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã nhấn mạnh một trong những
nhiệm vụ của ngành ngoại giao trong giai đoạn mới là chủ động “bảo vệ đất
nước từ sớm, từ xa”.[ CITATION Phạ20 \l 1033 ]
Trong tình hình quốc tế ngày nay, khi quá trình hội nhập ngày càng được
xúc tiến nhanh, ngoại giao quốc tế ngày càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần
nâng cao vị thế quốc tế của đất nước trên thế giới. Cho đến nay, Việt Nam là
thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính
phủ trên thế giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai trò ngày càng tăng tại
Liên hợp quốc, phát huy vai trò thành viên tích cực của phong trào Không liên
kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN ... Những kết quả đạt
được trong mối quan hệ này đã củng cố và nâng cao vị thế quốc tế của đất nước,
tạo ra thế cơ động và linh hoạt trong quan hệ quốc tế, có lợi cho việc bảo vệ độc
lập tự chủ và an ninh cũng như công cuộc xây dựng đất nước. 1
Từ những lý do trên, em xin chọn đề tài chính trị học đại cương: “Quan
hệ Việt Nam với ASEAN và quan hệ Việt Nam với Liên Hiệp Quốc”. Qua đề
tài này, em muốn người đọc hiểu biết rõ hơn về ASEAN và Liên Hiệp Quốc, mối
quan hệ giữa Việt Nam và 2 tổ chức này, phân tích sự thay đổi về chính trị trong
quá trình quan hệ hợp tác đôi bên.
Kết cấu đề tài bao gồm hai chương (ngoài phần mở đầu và kết luận):
Chương 1: Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN.
Chương 2: Mối quan hệ Việt Nam và Liên Hiệp Quốc.
Với khuôn khổ một tiểu luận, thời gian và trình độ có hạn nên tiểu luận
của em không tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Em rất mong có sự động viên và
đóng góp ý kiến của thầy cô giáo bộ môn chính trị học đại cương để tiểu luận
của em được hoàn thiện hơn.
Chương 1: MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ ASEAN.
1.1 ASEAN, lịch sử hình thành và phát triển ASEAN. 1.1.1 Thành lập.
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày
08/8/1967 tại Bangkok, Thái Lan với sự tham gia của 5 quốc gia thành viên ban
đầu là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Năm 1984,
ASEAN kết nạp thêm Brunei. Ngày 28/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên
thứ 7 của Hiệp hội. Ngày 23/7/1999 ASEAN kết nạp Lào và Myanmar. Ngày
30/4/1999, Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của ASEAN, hoàn thành giấc
mơ về một ASEAN bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á. 2 1.1.2 Mục tiêu.
Tuyên bố ASEAN (tuyên bố Bangkok) năm 1967 nêu rõ mục tiêu và mục đích ASEAN:
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu
vực thông qua những sáng kiến chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác
nhằm củng cố nền tảng cho một cộng đồng thịnh vượng và hòa bình của các quốc gia Đông Nam Á.
Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực thông qua tôn trọng công lývà pháp
quyền trong mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực và tuân thủ các
nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Thúc đẩy hợp tác tích cực và hỗ trợ lẫn nhau về các vấn đề cùng quan tâm
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, kỹ thuật, khoa học và hành chính.
Hỗ trợ lẫn nhau dưới các hình thức đào tạo và cơ sở vật chất phục vụ nghiên
cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính;
Hợp tác hiệu quả hơn nhằm sử dụng tốt hơn ngành nông nghiệp và công
nghiệp mở rộng thương mại, bao gồm việc nghiên cứu các vấn đề liên quan
đến thương mại hàng hóa quốc tế, cải thiện các phương tiện giao thông, liên
lạc, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân;
Thúc đẩy nghiên cứu về Đông Nam Á;
Duy trì hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn
chỉ và mục đích tương tự, và tìm kiếm các phương thức để có thể hợp tác chặt
chẽ hơn gữa các tổ chức này.
Hiến chương ASEAN, văn kiện pháp lý quan trọng của ASEAN
(15/12/2009) đã khẳng định lại các mục tiêu cơ bản trên, đồng thời bổ sung thêm
các mục tiêu mới cho phù hợp với tình hình. 3
1.1.3 Các mốc phát triển chính của ASEAN. 8/8/1967
ASEAN chính thức được thành lập với 5 thành viên. 2/1976
Hội nghị Cấp cao ASEAN đầu tiên được tổ chức. 1/1984 Brunei gia nhập ASEAN. 1994
Lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF). 1/1992
Ký Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN
và Thỏa thuận về Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA). 7/1995 Việt Nam gia nhập ASEAN. 7/1997
Lào và Myanmar gia nhập ASEAN. 12/1997
Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 đầu tiên được tổ chức. 4/1999
Campuchia chính thức gia nhập ASEAN, đưa ASEAN trở
thành một tổ chức khu vực gồm 10 thành viên Ðông-Nam Á. 12/2005
Hội nghị Cấp cao Ðông Á (EAS) đầu tiên được tổ chức với
sự tham gia của lãnh đạo các nước ASEAN, Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Ðộ, Australia và New Zealand. 11/2007
Hiến chương ASEAN ra đời. 31/12/2015
Cộng đồng ASEAN chính thức thành lập.
1.1.4 Phương thức hoạt động của ASEAN.
Phương thức ra quyết định: Tham vấn và Đồng thuận (consultation &
concensus) – Mọi vấn đề của ASEAN đều phải tham vấn tất cả các nước 4
thành viên ASEAN và quyết định chỉ được thông qua khi tất cả các nước
thành viên đều nhất trí hoặc không phản đối.
Nguyên tắc trong quan hệ với các đối tác: Trong triển khai quan hệ đối
ngoại của ASEAN, các quốc gia thành viên sẽ phối hợp và nỗ lực xây
dựng lập trường chung cũng như tiến hành các hoạt động chung trên cơ sở
thống nhất và đoàn kết, tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc đề ra trong
Hiến chương (theo Điều 41 Hiến chương ASEAN).
Tiệm tiến và thoải mái với tất cả các bên: Hợp tác khu vực phải được tiến
hành từng bước, bảo đảm phù hợp với lợi ích, khả năng của các nước và
tất cả đều có thể tham gia, đóng góp, không thành viên nào bị “bỏ lại”.
1.2 Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN (từ 1967-1995).
1.2.1 Từ năm 1967 đến 1972.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, quan hệ giữa các quốc gia ở Đông Nam
Á đã trải qua nhiều bước thăng trầm, có lúc một số nước đã trở thành thù địch
của nhau hoặc đối đầu với nhau rất căng thẳng, mà tâm điểm đều bắt nguồn từ
các cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài chống lại Việt Nam và các nước
khác trên bán đảo Đông Dương.
Thành lập năm 1967 khi Chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn đỉnh
điểm, các cuộc nổi dậy của phiến quân cộng sản lan rộng ở Đông Nam Á,
ASEAN có thể coi là một phản ứng của năm nước thành viên sáng lập trước mối
đe dọa của chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam đã nhìn nhận ASEAN với nhiều nghi
ngờ và hạn chế quan hê ‹ với ASEAN vì đang tiến hành kháng chiến chống Mĩ
cứu nước. Mỹ đã thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) năm 1954,
với mục đích phòng thủ, ngăn chặn cộng sản tràn xuống Đông Nam Á, đây là
một khối quân sự để phục vụ cho Mỹ, thay thế Pháp và lôi kéo một số nước là
thành viên của khối này tham gia cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền 5
Nam Việt Nam. Thái Lan, Philippin cũng tham gia khối quân sự SEATO và trở
thành đồng minh của Mĩ càng khiến Viê ‹t Nam đối lâ ‹p với các nước ASEAN.
1.2.2 Từ năm 1973 đến 1978.
Hiê ‹p định Pari (1973) là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam ký kết tại Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 buộc Mỹ và đồng minh phải
rút khỏi miền nam Việt Nam, ngừng tấn công miền Bắc. Sau hiệp định, nước ta
bắt đầu triển khai, đẩy mạnh quan hê ‹ song phương với các nước ASEAN.
Sau chiến thắng vĩ đại ngày 30/4/1975, một nước Việt Nam độc lập, thống
nhất và xây dựng chủ nghĩa xã hội ra đời. Sự kiện này lại một lần nữa tác động
mạnh mẽ đến tình hình Đông Nam Á, vị trí của Viê ‹t Nam trong khu vực và thế giới ngày càng tăng.
Ngày 24/2/1976, Hội nghị thượng đỉnh của ASEAN họp tại Bali,
Indonesia, đã ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (TAC). Mục
đích của TAC là nhằm thúc đẩy nền hòa bình vĩnh viễn, sự thân thiện và hợp tác
lâu bền giữa nhân dân các bên tham gia Hiệp ước, góp phần vào sức mạnh, tình
đoàn kết và quan hệ chặt chẽ hơn của các bên. Các nguyên tắc cơ bản của TAC
là cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc
dân tộc của tất cả các quốc gia; quyền của mọi quốc gia được tồn tại mà không
có sự can thiệp, lật đổ hoặc áp bức của bên ngoài; không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hòa
bình; từ bỏ việc đe dọa hoặc sử dụng vũ lực; hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời ngày 26/6/1976 và chỉ
mười ngày sau tức ngày 5/7/1976, Chính phủ Việt Nam đã công bố chính sách
bốn điểm trong quan hệ với các nước Đông Nam Á, khẳng định: “Tôn trọng độc
lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can 6
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa
bình; giải quyết các tranh chấp thông qua thương lượng… Phát triển hợp tác vì
sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh theo điều kiện riêng của mỗi nước vì độc
lập dân tộc, hòa bình trung lập thật sự ở Đông Nam Á”. Những quan điểm đó
cũng trùng khớp với mong muốn của ASEAN, thể hiện tinh thần kết nối với các
nước láng giềng trong khu vực của đất nước vừa mới “đứng dậy” sau hai cuộc
chiến tranh đau thương và mất mát.
1.2.3 Từ năm 1978 đến 1989
Tháng 12/1978, Viê ‹t Nam đưa quân tình nguyê ‹n vào Campuchia giúp
nhân dân nước này lâ ‹t đổ chế đô ‹ diê ‹t chủng Polpot. Mô ‹t số nước lớn đã can
thiê ‹p, kích đô ‹ng làm cho quan hê ‹ giữa Viê ‹t Nam và ASEAN trở lên căng thẳng.
Chế độ diệt chủng Khmer Đỏ ở Campuchia tiến hành cuộc chiến tranh
xâm lược ở dọc biên giới Việt Nam, ngay sau khi cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam của đế quốc Mỹ vừa mới kết thúc. Xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng
và trách nhiệm quốc tế, đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu
nước Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam đã tiến sang kịp thời cứu giúp
nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng và bảo vệ công cuộc hồi
sinh của đất nước Campuchia khỏi sự quay trở lại của chế độ diệt chủng Polpot
Khmer Đỏ. Trong thời gian cầm quyền, chính quyền Khmer Đỏ đã được Trung
Quốc hậu thuẫn vì muốn cô lập nước Việt Nam lúc đó đang được Liên Xô hậu
thuẫn. Theo BBC, Hoa Kỳ không muốn mang tiếng là giúp PolPot, nhưng họ đã
thông qua Trung Quốc để làm điều đó, và Hoa Kỳ cũng giúp đỡ về ngoại giao
bằng cách bỏ phiếu chấp thuận việc duy trì ghế của Kampuchea Dân chủ (của
PolPot) ở Liên Hiệp Quốc. Sự kiện này đã kéo dài hơn 10 năm, làm cho quan hệ
giữa Việt Nam, Lào, Campuchia với các nước ASEAN trở nên căng thẳng và đối 7
đầu cho đến khi “vấn đề Campuchia” được giải quyết tại Hội nghị quốc tế về
Campuchia ngày 23/10/1991 tại Paris, Thủ đô nước Pháp.
Quan hệ giữa Việt Nam và khối ASEAN, đặc biệt là Thái Lan, trong thời
kỳ này rất căng thẳng (Haas, Michael (1991). Cambodia, Pol Pot, and the United
States: The Faustian Pact. ABC-CLIO, pages 17, 28–29) và trong nhiều trường
hợp đứng bên bờ vực chiến tranh. Sau khi Việt Nam rút khỏi Campuchia vào
năm 1991, quan hệ Việt Nam – ASEAN dần được cải thiện và bình thường hóa.
1.2.4 Từ năm 1989 đến 1992
ASEAN đã chuyển từ chính sách đối đầu sang đối thoại, hợp tác với ba
nước Đông Dương. Từ khi vấn đề Campuchia được giải quyết, Viê ‹t Nam thực
hiê ‹n đường lối đối ngoại “Muốn làm bạn với tất cả các nước” quan hê ‹ giữa Viê ‹t
Nam và ASEAN được cải thiê ‹n.
Nhìn lại bối cảnh lịch sử giai đoạn đầu những năm 1990, có thể thấy
nhiệm vụ cơ bản của công tác đối ngoại đã được Đảng và Nhà nước chỉ rõ là
củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế - xã
hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tháng 7/1992 Viê ‹t Nam tham gia vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác
(hiê ‹p ước Bali) trở thành quan sát viên của ASEAN, điều này đánh dấu bước
phát triển quan trọng trong sự tăng cường hợp tác khu vực vì mô ‹t “Đông Nam Á
hòa bình, ổn định và phát triển”.
Từ năm 1993, Việt Nam đã tham gia các chương trình và dự án hợp tác
ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học-công nghệ, môi trường, y tế, văn hoá-thông
tin, phát triển xã hội. Việt Nam cũng tham gia Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF)
và trở thành một trong những nước sáng lập Diễn đàn này. 8
1.3 Mối quan hệ Việt Nam và ASEAN ( từ 1992 – nay ).
1.3.1 Những mốc thời gian quan trọng trong mối quan hệ Việt Nam và
ASEAN từ 1992 tới nay.
Ngày 28-7-1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN, đánh dấu quá trình hội nhập
khu vực của Việt Nam cũng như tiến trình, hợp tác, liên kết của cả khu vực. Việc
Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995 là một trong những mốc quan trọng nhất
trong lịch sử đối ngoại của Việt Nam kể từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
cũng như trong quá trình phát triển của ASEAN. Sự kiện này có ý nghĩa quan
trọng, đưa khu vực Đông Nam Á từ đối đầu sang đối thoại, từ nghi ngờ sang tin
cậy, từ chia rẽ sang đoàn kết. Với ASEAN, kết nạp Việt Nam trở thành thành
viên thứ 7 giúp đẩy nhanh quá trình mở rộng ASEAN ra cả 10 nước trong khu
vực, qua đó củng cố hòa bình, ổn định ở mô ‹t khu vực có tầm quan trọng đặc biệt
về địa lý, chính trị và kinh tế, trung tâm kết nối Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương. Với Viê ‹t Nam, đây là cột mốc quan trọng đánh dấu bước tiến rất quan
trọng của Việt Nam trên con đường hội nhập khu vực và quốc tế.
Từ 1995-1997, Việt Nam cùng các nước ASEAN thúc đẩy kết nạp
Campuchia, Lào và Myanmar vào ASEAN, hoàn tất ý tưởng về một ASEAN
gồm 10 quốc gia ở Đông Nam Á. Điều này đã góp phần đưa ASEAN trở thành tổ
chức đại diện cho toàn khu vực, liên kết sâu rộng và có vai trò quan trọng ở
Đông Nam Á và châu Á -Thái Bình Dương. Đại sứ Kamsiah Kamaruddin đã
nhận định: “Với 6 quốc gia ban đầu, các nước thành viên ASEAN có nhiều điểm
tương đồng. Nhưng khi Việt Nam xuất hiện, Việt Nam đã mang đến sự năng
động mới, những nhân tố mới, và chúng tôi đã phối hợp cùng với Việt Nam để
xây dựng một ASEAN mạnh hơn”. Việt Nam đã qua giai đoạn đóng cửa củng cố
nền hoà bình, hiện giờ là lúc cần phát triển ngoại giao, hội nhập thế giới, vì chỉ
có mở cửa kinh tế, tăng cường hợp tác quốc tế mới có thể đưa kinh tế và chính trị 9
Việt Nam phát triển và đi lên. Việt Nam phải năng động, phải tạo được vị trí cho
mình trên chính trường quốc tế thì mới có thể có tiếng nói và cơ hội sánh vai với
các cường quốc trên thế giới. ASEAN càng phát triển và mở rộng, Việt Nam
càng có nhiều cơ hội để thể hiện bản thân mình trong các lĩnh vực kinh tế chính trị đối ngoại.
Tháng 12/1998, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 được tổ chức tại Hà
Nội với chủ đề "Ðoàn kết, hợp tác vì một ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển
đồng đều". Thông qua Chương trình Hành động Hà Nội, góp phần quan trọng
tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh hợp tác, định hướng cho sự phát triển và hợp
nhằm thực hiện Tầm nhìn 2020. Tuyên bố về các biện pháp mạnh mẽ để cải thiện
môi trường đầu tư ASEAN và ký bốn Hiệp định hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể.
Hội nghị quyết định kết nạp Campuchia làm thành viên thứ mười của ASEAN và
lễ kết nạp được tiến hành tại Hà Nội. Tổ chức thành công một hội nghị cấp cao
của ASEAN mang nghĩa Việt Nam đã thể hiện được vị trí của mình trong cộng
đồng ASEAN, tuy mới gia nhập, còn non trẻ, nhưng những thành tích mà Việt
Nam mang lại cho ASEAN đã tăng khả năng và tiếng nói của Việt Nam trên bàn
hội nghị. Đặc biệt, với sự gia nhập của Campuchia vào ASEAN, điều này khẳng
định những gì Việt Nam đã làm từ năm 1995 đến 1997 đã thành công rực rỡ, một
cộng đồng đầy đủ các quốc gia thành viên Đông Nam Á là những gì Việt Nam và ASEAN cùng hướng tới.
Tháng 7/2000 – 7/2001, với vai trò Chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN
(ASC) khoá 34 và ARF, Việt Nam đã chủ trì và tổ chức thành công Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM 34), Diễn đàn khu vực ASEAN lần
thứ 8 (ARF 8), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và các nước Đồng Bắc Á
(ASEAN+3), Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao giữa ASEAN với các nước đối
thoại (PMC+10) và với từng nước Đối thoại (PMC+1) và Hội nghị sông Hằng-
Sông Mê kông vào cuối tháng 7/2001. Trong năm Việt Nam làm chủ tịch, 10
ASEAN và ARF đã đạt được những kết quả quan trọng, tiếp tục phát triển đúng
hướng, phù hợp với lợi ích của từng nước ASEAN và lợi ích của cả khu vực.
Trong thời gian này, với vai trò chủ trì và điều phối của Việt Nam, ASEAN đã
phê chuẩn Nghị định thứ hai của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác, thông qua
Quy chế của Hội đồng Tối cao (TAC) và tổ chức cuộc họp đầu tiên của Hội đồng
trong dịp AMM 34; lần đầu tiên ASEAN đã tiến hành tham khảo trực tiếp với
năm cường quốc hạt nhân trong khuôn khổ Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ
khí hạt nhân (SEANWFZ). ASEAN cũng đạt nhiều tiến triển trong việc xây
dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông với Trung quốc, tạo tiền đề cho việc ra
tuyên bố về cách ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông sau này.
Năm 2010, 2 năm sau khi Hiến chương ASEAN có hiệu lực, Đại sứ Việt
Nam tại Argentina Đặng Xuân Dũng đã tiếp nhận chức Chủ tịch Ủy ban ASEAN
tại Buenos Aires (ACBA) từ Đại sứ Philippines Linglingay F. Lacanlale. Việt
Nam đã đưa ra những sáng kiến như mở rộng thành viên của Hội nghị Cấp cao
Đông Á, bằng cách thúc đẩy kết nạp Nga và Mỹ tham gia Cấp cao Đông Á; cũng
như tổ chức lần đầu tiên Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng
(ADMM+) trong năm Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN 2010. 28-30/10/2010,
dưới sự chủ trì của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Việt Nam thành công tổ chức
hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 17. Những thành công quan trọng của ASEAN
trong năm 2010 có phần đóng góp rất có ý nghĩa của sự chủ động, tích cực và
trách nhiệm của Việt Nam trên cương vị Chủ tịch và được bạn bè quốc tế càng
đánh giá cao, vị thế của Việt Nam càng được nâng cao thêm qua năm Chủ tịch
ASEAN. Để đạt được những thành công đó, trước hết là do đường lỗi đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta, sau 15 năm gia nhập ASEAN, hệ thống chính trị Việt
Nam đã có thành tựu quan trọng trên lĩnh vực đối ngoại và hội nhập quốc tế, từ
đó tạo nên được thành công năm Chủ tịch ASEAN. 11
Từ năm 2012 đến 2015, Việt Nam tiếp tục đảm nhiệm vai trò điều phối
viên quan hệ giữa Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Liên minh
Châu Âu (EU). EU là một trong những đối tác lâu đời nhất của ASEAN khi hai
bên chính thức thiết lập quan hệ đối thoại vào năm 1977, quan hệ hợp tác
ASEAN-EU đã phát triển nhanh chóng và mở rộng ra nhiều lĩnh vực, trong đó có
chính trị-an ninh, kinh tế-thương mại, văn hóa-xã hội và hợp tác phát triển.
ASEAN luôn coi trọng quan hệ với EU-một trong những đối tác lâu đời nhất của
ASEAN và có vai trò, vị thế và ảnh hưởng lớn cũng như có tiềm năng đóng góp
lớn cho hợp tác ở khu vực. ASEAN mong muốn gắn kết EU tham gia và đóng
góp thực chất và hiệu quả đối với hợp tác khu vực, nhất là đối với các vấn đề liên
quan đến hòa bình, an ninh và phát triển thịnh vượng của khu vực.
Ngày 22/11/2015, lãnh đạo 10 quốc gia ASEAN ký Tuyên bố Kuala
Lumpur 2015 về thành lập Cộng đồng ASEAN (AC). Từ “Tầm nhìn ASEAN
2020” (1997) với mục tiêu thành “một nhóm hài hòa các dân tộc Đông Nam Á,
gắn bó trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau”; đến quyết định 2003
xây dựng Cộng đồng ASEAN với 3 trụ cột: Cộng đồng An ninh, Cộng đồng
Kinh tế, Cộng đồng Văn hóa-Xã hội; và quyết tâm đẩy nhanh tiến trình liên kết
nội khối dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN (2007), ASEAN phải
trải qua 18 năm để trở thành “Cộng đồng ASEAN (AC) trong Cộng đồng các
Quốc gia Toàn cầu”. AC trở thành tổ chức liên minh chính phủ vững mạnh, là
một cộng đồng mở, luôn mở rộng hợp tác, liên kết, chia sẻ với tất các nước trên nhiều khu vực.
Năm 2016, Việt Nam tiếp tục tham gia đầy đủ, hoàn thành nghiêm túc các
cam kết và đóng góp hiệu qủa trên tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN. Việt
Nam đã góp phần quan trọng trong việc hoàn thành các công việc để hình thành
Cộng đồng ASEAN 2015, là một trong hai nước thành viên có tỷ lệ hoàn thành
cao nhất, có tác động lớn đến thương mại và đầu tư trong Kế hoạch Tổng thể xây 12
dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (với tỷ lệ 95,5%, đứng thứ hai sau Singapore).
Việt Nam còn đề xuất nhiều sáng kiến có giá trị nhằm tăng cường kết nối, thu
hẹp khoảng cách phát triển và đem lại nhiều lợi ích trực tiếp đến người dân, chủ
động, tích cực và đóng vai trò nòng cốt trong nỗ lực liên kết ASEAN trong 10
năm tới bằng cách xây dựng gói văn kiện Tầm nhìn 2025.
Năm 2018, Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế
giới về ASEAN (WEF ASEAN). Đây là một trong những hội nghị lớn và quan
trọng của WEF trong khu vực (chỉ sau Hội nghị WEF Davos mùa hè ở Trung
Quốc). Hội nghị có chủ đề “ASEAN 4.0: Tinh thần doanh nghiệp và Cách mạng
công nghiệp lần thứ 4”, là một trong những diễn đàn quan trọng và có uy tín
trong khu vực, thúc đẩy đối thoại, chia sẻ ý tưởng, chính sách và hợp tác về tranh
thủ cơ hội và xử lý các vấn đề cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra cho các
nước ASEAN và khu vực. Hội nghị WEF ASEAN 2018 tại Việt Nam là một
trong những hội nghị WEF khu vực thu hút số lượng đại biểu đông nhất từ trước
đến nay với hơn 900 đại biểu quốc tế tham dự. Điều này thể hiện sức hút của
Việt Nam nói riêng và của khu vực ASEAN nói chung trên trường thế giới. Hội
nghị cũng là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam kết nối, mở rộng cơ hội hợp
tác với các tập đoàn thành viên của WEF.
1-1-2020, Việt Nam đảm nhận vai trò chủ tịch ASEAN, đây là cơ hội cũng
là thách thức lớn đối với Việt Nam. ASEAN đang trên đà phát triển và thành
công, làm sao để giữ được ASEAN tiếp tục trên con đường thành công đó, ngoài
ra, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chuyển đổi cách mạng số, cách mạng khoa
học công nghệ, Việt Nam phải chuẩn bị sẵn sàng cho nền kinh tế số.
6-2020 Việt Nam tổ chức thành công hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36,
hội nghị được tổ chức theo hình thức trực tuyến đã được khai mạc tại Trung tâm
Hội nghị quốc tế Hà Nội. Dịch covid hoành hành là biến số mới không lường 13
được trong năm 2020, đi cùng với dịch bệnh là sinh mạng và cuộc sống hàng
triệu người. Theo Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (8/6/2020), kinh tế toàn cầu
năm 2020 sẽ suy giảm nghiêm trọng, ở mức âm 5,2%, thu nhập bình quân đầu
người giảm 3,6% và khiến cho 70-100 triệu người rơi vào nghèo đói cùng cực,
gia tăng nguy cơ mất ổn định xã hội. Hơn 40% các ngành sản xuất, kinh doanh
của các quốc gia phải chịu tác động trực tiếp từ các biện pháp phong tỏa dịch
bệnh. Dịch bệnh khiến cho thách thức vốn có càng trở nên khó khăn hơn.
1.3.2 Hợp tác giữa Việt Nam và ASEAN trên các lĩnh vực.
1.3.2.1 An ninh- chính trị
Việc gia nhập ASEAN đã giúp ta phá thế bị bao vây về kinh tế và cô lập
về chính trị khi đó; chấm dứt tình trạng chia rẽ, đối đầu ở khu vực, tạo dựng mối
quan hệ mới về chất giữa các nước Đông Nam Á theo chiều hướng hữu nghị, ổn
định và lâu dài, hợp tác toàn diện và chặt chẽ cả về đa phương và song phương.
Ta đã được trực tiếp tham gia và đóng góp quan trọng trong việc xác định
phương hướng phát triển và các quyết sách lớn của ASEAN cũng như giữ vững
các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, phù hợp với yêu cầu và lợi ích của ta; xác
lập được vai trò quan trọng và có uy tín của Việt Nam trong hợp tác ASEAN,
góp phần duy trì vai trò chủ đạo của ASEAN đối với hòa bình và phát triển ở khu
vực, hạn chế sự can thiệp và chi phối của các nước bên ngoài. Ta cũng có điều
kiện thuận lợi để phối hợp lập trường và hợp tác với các nước trong việc xử lý
các vấn đề khu vực và quốc tế phức tạp, hỗ trợ đáng kể cho ta trong việc bảo vệ
chủ quyền và lợi ích ở Biển Đông.
Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN (APSC) có mức độ hợp tác chặt chẽ
hơn với nhiều tiến triển quan trọng về xây dựng lòng tin, chia sẻ các chuẩn mực
và quy tắc ứng xử, ngăn ngừa và quản lý xung đột, nâng cao năng lực xử lý 14
những thách thức an ninh. ASEAN đã nỗ lực gắn kết, thúc đẩy hợp tác và tham
vấn cũng như tăng cường hiểu biết giữa các nước, các cơ quan chuyên ngành ở
cấp độ khu vực và quốc gia trong các lĩnh vực giáo dục, luật pháp, thông tin, văn
hóa. Ðáng chú ý, ASEAN đã thành lập Ủy ban liên chính phủ ASEAN về Nhân
quyền (AICHR), Viện Hòa bình hòa giải ASEAN (AIPR).
Trước tình hình Biển Ðông tiếp tục diễn biến phức tạp, các nước đều ủng
hộ các nguyên tắc của ASEAN, đó là: bảo đảm hòa bình, an ninh, an toàn hàng
hải; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình; tôn trọng luật pháp quốc
tế và Công ước luật biển; thực hiện đầy đủ DOC và sớm tiến tới Bộ quy tắc ứng xử (COC). 1.3.2.2 Kinh tế
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) là một không gian kinh tế trên nền
tảng của Khu vực mậu dịch tự do (AFTA) được mở rộng về phạm vi và nâng cao
về mức độ tự do hóa, trong đó về cơ bản không còn thuế quan đối với hàng hóa
và có sự lưu chuyển khá thuận lợi về dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay
nghề; có mức độ hợp tác khá chặt chẽ trong các lĩnh vực kinh tế ngành; và đã kết
nối với các nền kinh tế lớn trên thế giới.
Về kinh tế, ta có thị trường rộng lớn cho xuất khẩu sang ASEAN (với gần
630 triệu dân và tổng GDP 2.400 tỉ USD (2015) và cơ hội tiếp cận thị trường
thuận lợi hơn đến các nước đối tác của ASEAN; gia tăng sức hấp dẫn đối với đầu
tư và kinh doanh từ bên ngoài, đồng thời thúc đẩy đầu tư của Việt Nam ra các nước.
Hô ‹i nhâ ‹p và tham gia các hoạt đô ‹ng hợp tác trong ASEAN, đă ‹c biê ‹t là
Cô ‹ng đồng Kinh tế ASEAN đã giúp Viê ‹t Nam tranh thủ được những lợi ích thiết 15
thực về kinh tế - thương mại, hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế đất nước.
Trong 25 năm qua, nền kinh tế Viê ‹t Nam đã chứng kiến sự đổi thay vượt bâ ‹c về
mọi mă ‹t, trong đó có đóng góp không nhỏ của hợp tác ASEAN. Từ chỗ là mô ‹t
trong những nước nghèo nhất trên thế giới, Viê ‹t Nam đã vươn lên trở thành nước
có thu nhâ ‹p trung bình và được đánh giá có triển vọng duy trì tăng trưởng trong
tương lai. Nếu như năm 1995, GDP bình quân đầu người của Viê ‹t Nam đạt 289
USD, thì đến năm 2019, con số này đã là 2.800 USD. Quy mô nền kinh tế tăng
trưởng mạnh, từ 20,8 tỷ USD năm 1995 lên 266 tỷ USD vào năm 2019. Năm
2019, kinh tế Viê ‹t Nam được xếp trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất
vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019 với tốc đô ‹ tăng trưởng GDP là 6,5% bất chấp
tình hình thế giới có nhiều biến đô ‹ng.
Nhờ sự hô ‹i nhâ ‹p khu vực và khởi đầu là ASEAN, nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào Viê ‹t Nam tăng mạnh qua các năm, từ 10 tỷ USD (năm
1995) lên 38 tỷ USD (năm 2019). Năm 2019, Viê ‹t Nam xếp thứ 21 về thu hút
vốn FDI toàn thế giới, đứng thứ ba ở khu vực. 25 năm qua cũng chứng kiến kim
ngạch xuất - nhâ ‹p khẩu hàng hóa và dịch vụ của Viê ‹t Nam tăng trưởng vượt bâ ‹c
với ASEAN là đối tác lớn, quan trọng hàng đầu. ASEAN là đối tác xuất khẩu lớn
thứ tư của Viê ‹t Nam (sau Mỹ, EU, Trung Quốc) là thị trường cung cấp hàng hóa
nhâ ‹p khẩu lớn thứ ba vào Viê ‹t Nam (sau Trung Quốc và Hàn Quốc).
Đối với Việt Nam, việc gia nhập ASEAN là một trong những điểm đột phá
đầu tiên để triển khai phương châm đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa mà
Ðại hội Ðảng lần thứ VII đã đề ra. Quyết sách đúng đắn của Ðảng và Nhà nước
đã đem lại nhiều lợi ích cho đất nước trong bối cảnh lúc bấy giờ, khi Việt Nam
xúc tiến công cuộc đổi mới, khắc phục hậu quả chiến tranh để hướng tới hội
nhập khu vực và quốc tế. 16
Ta đã thu được những lợi ích thiết thực để phục vụ cho phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước. ASEAN hiện là một trong những đối tác kinh tế hàng đầu,
một trong số các đối tác lớn, nhà cung cấp FDI quan trọng và có quan hệ trong
hầu hết các lĩnh vực hợp tác kinh tế của Việt Nam.
1.3.2.3 Văn hoá giáo dục
Về văn hóa – xã hội, ta có điều kiện nâng cao năng lực thông qua cơ hội
tiếp nhận được thông tin, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại và
nguồn lực, đào tạo và nâng cao năng lực của cán bộ, tạo chuyển biến tích cực
trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, luật lệ và thủ tục trong nước cho
phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập quốc tế.
Thông qua Cô ‹ng đồng Văn hóa - Xã hô ‹i ASEAN - một cộng đồng bao
trùm nhiều lĩnh vực, đa dạng xuyên suốt nhiều nội dung hợp tác về giáo dục, môi
trường, y tế, phúc lợi xã hội, lao động và việc làm, văn hóa, thể thao..., chất
lượng cuộc sống của người dân Viê ‹t Nam được quan tâm và bảo đảm. Hơn thế
nữa, người dân Viê ‹t Nam cùng chia sẻ với người dân các nước ASEAN sự đoàn
kết và thống nhất, tạo thuâ ‹n lợi để xây dựng một bản sắc chung của một khu vực
chia sẻ, đùm bọc, hòa thuận và rộng mở. Với chính sách miễn thị thực du lịch
ngắn hạn giữa các nước ASEAN và hạ tầng du lịch ngày càng thuâ ‹n lợi, ngành
du lịch ở các nước ASEAN đã cất cánh mạnh mẽ trong 25 năm qua và thu hút
được nguồn khách quốc tế lớn, tạo nên nguồn thu quan trọng cho nền kinh tế.
Trong các nước ASEAN, Viê ‹t Nam luôn được xem là điểm đến được ưa chuô ‹ng.
Đồng thời, lao đô ‹ng Viê ‹t Nam đã lan tỏa ra tất cả các nước trong ASEAN, tâ ‹n
dụng những cơ hô ‹i viê ‹c làm đa dạng, từ những công viê ‹c đòi hỏi kỹ năng, trình
đô ‹ cao, tới những công viê ‹c đòi hỏi kỹ năng vừa phải hơn tại các nước, như
Malaysia, Thái Lan. Bên cạnh đó, thông qua Cô ‹ng đồng Văn hóa - Xã hô ‹i 17
ASEAN, người dân Viê ‹t Nam cũng được hưởng lợi từ những hợp tác như hỗ trợ
người lao đô ‹ng, thúc đẩy quyền của người lao đô ‹ng di cư, bình đẳng giới và bảo
vê ‹ quyền của người phụ nữ cũng như trong ứng phó với các thách thức an ninh
phi truyền thống, như nạn buôn bán ma túy, thiên tai, dịch bê ‹nh..., phù hợp với
mục tiêu chung của Viê ‹t Nam là đă ‹t người dân ở vị trí trung tâm, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Gia nhập ASEAN cũng đặt ra cho Việt Nam yêu cầu cấp bách về đào tạo
cán bô ‹ làm công tác đa phương, ban đầu là phục vụ cho hợp tác ASEAN và sau
này đóng góp thiết thực cho quá trình hô ‹i nhâ ‹p toàn diê ‹n của đất nước. Thông
qua hợp tác ASEAN và qua các đối tác, nhiều lớp cán bô ‹ đối ngoại của Viê ‹t Nam
từ các bô ‹, ngành và địa phương đã được tham gia các khóa đào tạo kỹ năng tiếng
Anh, đàm phán, dự thảo văn kiê ‹n, trình bày, điều hành hô ‹i nghị... Đến nay, năng
lực của cán bô ‹ đa phương Viê ‹t Nam đã có sự tiến bô ‹ vượt bâ ‹c, mô ‹t phần không
nhỏ là bởi nhu cầu cấp bách đă ‹t ra khi tham gia hợp tác ASEAN và nhờ đòn bẩy của hợp tác ASEAN.
Thông qua việc tham gia rất nhiều chương trình, dự án và hoạt động hợp
tác của ASEAN, ta có điều kiện tiếp cận được thông tin và các tiến bộ khoa học-
công nghệ hiện đại; học tập và chia sẻ kinh nghiệm để nâng cao năng lực về
quản lý và phát triển văn hóa-xã hội, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững. Ngoài ra, thông qua ASEAN, chúng ta có điều kiện tiếp cận và
tranh thủ được các chương trình trợ giúp kỹ thuật và cả tài chính của các đối tác
dành cho ASEAN, trong đó có Việt Nam, trong lĩnh vực quản lý thiên tai và
thảm họa, biến đổi khí hậu. 18