Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm trù vật chất - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

Trường:

Đại học Kinh Tế Quốc Dân 3 K tài liệu

Thông tin:
23 trang 11 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm trù vật chất - Triết học Mác Lenin| Đại học Kinh Tế Quốc Dân

Đại học Kinh tế Quốc dân với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp các bạn định hướng và họp tập dễ dàng hơn. Mời bạn đọc đón xem. Chúc bạn ôn luyện thật tốt và đạt điểm cao trong kì thi sắp tới

203 102 lượt tải Tải xuống
1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về
phạm trù vật chất.
* Chủ nghĩa duy tâm: Coi ý thức (tinh thần ) là có trước, quyết định. Coi vật chất
(giới tự nhiên) là có sau, bị quyết định. Quan điểm này bị thực tiễn bác bỏ.
* Chủ nghĩa duy vật trước Mác: Cho rằng vật chất( giới tự nhiên) là có trước, là
quyết định, còn ý thức (tinh thần) có sau, bị quyết định. Quan điểm này phù hợp
với thực tiễn, tuy nhiên khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà duy vật trước
mác lại có những quan điểm khác nhau.
- Một là: Quan niệm của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại thì đồng nhất vật
chất với những sự vật hiện tượng cụ thể như nước, lửa, không khí, nguyên tử… coi
đó là cái đầu tiên mà từ đó sinh ra mọi cái còn lại. Quan niệm này mang nặng tính
trực quan, ngây thơ, ấu trĩ và chưa khoa học nên đã bị khoa học bác bỏ.
- Hai là: Quan niệm của chủ nghĩa siêu hình thế kỷ XVII, XVIII quy vật chất về
các thuộc tính của vật như là khối lương, quảng tính, hay là kết cấu nguyên tử.
Quan niệm này đã có tính khoa học tuy nhiên nó còn mang nặng tính siêu hình cơ
giới, máy móc. Do đó những quan niệm này cuối cùng cũng bị khoa học bác bỏ.
Từ đó đặt ra nhu cầu phải có một quan niệm mới về vật chất. Lênin là người đầu
tiên đưa ra được quan điểm này.
2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cuộc cánh mạng trong KHTN đã mở ra nhiều phát
minh có tính bước ngoặt làm đảo lộn những nguyên tắc cũ, xuất hiện một loạt
những phát minh khoa học mới góp phần bác bỏ những quan niệm cũ về vật chất
cụ thể là:
- Năm 1895 tìm ra tia X (tia rơn ghen) chứng tỏ trong tự nhiên vật chất không chỉ
là chất (tức là những cái có khối lượng, có quảng tính và có cấu trúc nguyên tử) mà
vật chất còn là trường (dạng vật chất mang tính liên tục, nó không xác định về mặt
khối lượng, không có cấu trúc nguyên tử).
- Năm 1896 phát hiện ra hiện tượng phóng xạ chứng tỏ nguyên tử cũng tiêu tan.
- Năm 1897 tìm ra electơron (điện tử) chứng tỏ nguyên tử cũng không phải là kết
cấu vật chất cuối cùng (cấu trúc này vẫn có thể phân chia được nữa).
-Năm 1898- 1902, nhà nữ vật lý học Ba Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với chồng
là Pie, nhà hoá học người Pháp, đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlôni và
rađium.
Giờ đây những quan niệm cứng nhắc, bất biến, tách rời, cô lập lẫn nhau về thế giới
đã bắt đầu bị lung lay. Thế là chủ nghĩa duy vật Pháp mất dần ảnh hưởng, thay vào
đó là triết học cổ điển Đức. Song ảnh hưởng của thứ triết học đó đối với vật lý học
ở đầu thế kỉ XIX là khá mâu thuẫn, trong đó nó đem lại kết quả xấu thì nhiều hơn.
Hêghen,người đã xây dựng nên hệ thống phép biện chứng lại cũng chính là người
đứng chắn đường không cho các nhà khoa học tự nhiên tiếp thu phép biện chứng,
do đó triết học của Hêghen không những đã không thúc đẩy khoa học phát triển mà
còn kìm hãm nó. Và phải chờ đến Mác và Ăngghen thì phép biện chứng mới phát
huy được tính tích cực của nó. Dựa vào tất cả những tài liệu mới nhất lúc đó của
khoa học tự nhiên, Mác và Ăngghen đã xây dựng nên một hình thức triết học mới
có tính chất vừa khoa học vừa cách mạng hơn tất cả các hình thức triết học đã
từngtồn tại trong lịch sử, đó là triết học duy vật biện chứng. Triết học mới này đã
từ bỏ việc giải quyết các vấn đề cụ thể của khoa học tự nhiên; ngay từ khi mới ra
đời, nó đã tự xác định đối tượng nghiên cứu của nó là mối quan hệ giữa nhận thức
và tồn tại, là những quy luật vận động và phát triển tổng quát của tự nhiên, xã hội
và tư duy; nó cũng xác định đúng mối quan hệ giữa nó với khoa học tự nhiên,
trong đó có vật lý học. Song do một số nguyên nhân khách quan mà từ khi ra đời
cho đến cuối thế kỉ XIX, triết học duy vật biện chứng vẫn chưa được phổ biến sâu
rộng trong đông đảo các nhà khoa học tự nhiên, hơn nữa trong thời kì này vật lý
học cơ giới vẫn còn gặt hái được nhiều thắng lợi nên đây vẫn là thời kì mà tư
duy siêu hình vẫn còn chiếm ưu thế trong vật lý học. Sự ràng buộc của tư tưởng về
một chất liệu cơ bản “đầu tiên” cấu thành toàn bộ thế giới vẫn lớn tới mức hầu như
không nhà vật lý học nào thoát khỏi nó. Do chỉ nhìn thấy cây mà chẳng thấy rừng,
nên vật lý học vào cuối thế kỉ XIX đã tự coi mình là hình thức “hoàn bị” cuối cùng
trong toàn bộ tiến trình phát triển của vật lý học không những từ trước cho đến lúc
đó mà còn cho mãi về sau. Sự ngạo mạn đó đã được thể hiện đầy đủ trong lời nói
của nhà vật lý học lão thành kiêm Huân tước nước Anh là Kenvin. Ông này cho
rằng vật lý học cuối thế kỷ XIX không còn cái gì để phát minh nữa mà chỉ còn
nhiệm vụ là tìm cách ứng dụng thật tốt những cái đã phát minh.
Chưa hết, một nhà vật lý học khác là Maikenxơn còn nói thẳng ra rằng khoa học
trong tương lai sẽ không tìm ra cái mới, cái chưa biết mà sẽ chỉ làm cho những cái
đã biết ngày thêm chính xác. Tư tưởng siêu hình và máy móc như vậy đã ngăn cản
các nhà vật lý học lúc đó hiểu rằng thế giới vật chất ngoài kia là vô cùng phong
phú và đa dạng, rằng vẫn cònnhiều điều mà họ vẫn chưa biết, hoặc chưa có khả
năng vươn tới. Tóm lại, trong hàng ngàn năm phát triển của mình trước khi xảy ra
cuộc khủng hoảng, ngành vật lý cũng đã trải qua nhiều cuộc “lật đổ” ngoạn
mục những lý thuyết cũ của nó. Con người đã phải phấn đấu không mệt mỏi trong
suốt 20 thế kỉ để đến được với cơ học cổ điển của Newtơn, dĩ nhiên tham vọng của
con người vẫn còn rất lớn nên sẽ không chịu dừng chân ở đó, con người sẽ tiếp tục
cuộc hành trình “hỏi - đáp -khám phá” để ngày càng đạt tới sự nhận thức đúng đắn
hơn về bản chất của thế giới. Trong quá trình đó, vận mệnh của ngành vật lý học
đã luôn gắn chặt vào vận mệnh của triết học. Xét một cách tổng thể thì mỗi
giai đoạn phát triển của ngành vật lý học đều bị chi phối mạnh mẽ bởi một hình
thức triết học tương ứng. V.I.Lênin khẳng định: “là ở sự đảo lộn của những quy
luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự thay thế của chủ nghĩa duy vật bằng chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri”.
3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất,
a, Quan niệm: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại,
chép lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
b, Phân tích quan niệm: Trong nội dung định nghĩa trên cần lưu ý 2 điểm sau:
- Một là: Định nghĩa khẳng định vật chất là một phạm trù triết học, phạm trù là một
khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính phổ biến nhất của hiện
thực. Như vậy khi coi vật chất là một phạm trù triết học thì nó là khái niệm chứ
không phải là sự vật. Cho nên vật chất là cái chung, cái khái quát, cái trừu tượng,
là vật chất nói chung (là vĩnh viễn). Vì vậy cần phải phân biệt phạm trù triết học về
vật chất với 1 khái niệm vật lý thông thường về vật chất mà người ta dùng để chỉ
những sự vật, những hiện tượng vật chất cụ thể (như vậy: đất, nước, lửa, không khí
chẳng qua chỉ là một dạng tồn tại về vật chất).
- Hai là: Về mặt nhận thức luận (phương pháp luận) thì thuộc tính cơ bản nhất của
vật chất dùng để định nghĩa cho nó và để phân biệt nó với ý thức tinh thần là thuộc
tính tồn tại khách quan. Vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài
đầu óc con người và không phụ thuộc vào ý thức của con người, độc lập lại với nó
thì ý thức hay tinh thần là cái tồn tại chủ quan trong đầu óc con người.
Tóm lại: Theo định nghĩa của LêNin vật chất được hiểu như sau:
- Vật chất là tất cả những gì đang tồn tại khách quan bên ngoài đầu óc con người,
không phụ thuộc vào ý thức, cảm giác của con người.
- Vật chất là những cái mà khi tác động lên các giác quan của con người một cách
trực tiếp hay gián tiếp thì sẽ gây nên cho con người cảm giác.
- Vật chất là những cái mà trong quan hệ đối với chúng thì ý thức, cảm giác của
con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh của chúng mà thôi.
c, Ý nghĩa, phương pháp luận của định nghĩa:
Một là: Định nghĩa trên đã góp phần khắc phục được quan niệm siêu hình về vật
chất, đó là không quy vật chất về cái cụ thể mà đồng nhất nó với thực tại khách
quan nói chung (Cái thực tại khách quan ấy mới là vĩnh viễn, mới là cái vô cùng
tận).
Hai là: Định nghĩa đã góp phần giải quyết được cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết
học theo lập trường duy vật và theo lập trường khả tri luận (theo thuyết có thể biết)
Ba là: Định nghĩa góp phần đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, nhất là duy tâm về
xã hội. Vì theo định nghĩa này đưa vào thuộc tính tồn tại khách quan mà ta có thể
phân biệt trong xã hội xem đâu là vật chất, đâu là tinh thần.
Bốn là: Định nghĩa là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu về các dạng cấu trúc vật
chất của thế giới có liên quan đến dạng vật chất mới như là: hạt và phản hạt; vật
chất và phản vật chất.
4. Vận động và các hình thức tồn tại của vận động.
Vận động là một của dùng để chỉ về một phương phạm trù triết học Marx-Lenin
thức tồn tại của (cùng với cặp phạm trù ), đó là sự vật chất không gian và thời gian
thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không
gian, từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin vũ trụ
thì vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động
thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến
đổi. Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và bộc lộ bản chất của mình.
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại lúc đang sinh sống, Engels đã
phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản (xếp từ đơn giản đến phức tạp). Đó
là:
1. Vận động (là sự di chuyển vị trí của các trong cơ học vật thể không gian).
2. Vận động (tức sự vận động của các , các , vận vật lý phân tử hạt cơ bản
động , các quá trình , v.v.).điện tử nhiệt điện
3. Vận động (vận động của các , các quá trình hóa học nguyên tử hóa hợp
phân giải các chất).
4. Vận động ( giữa sinh học trao đổi chất cơ thể sống môi trường).
5. Vận động (sự thay đổi, thay thế các quá trình của các xã hội xã hội hình thái
kinh tế - xã hội).
Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao
hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Nhưng các hình thức vận
động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn.
Ví dụ: Trong vận động vật lý thì bao gồm vận động cơ học, trong vận động hóa
học thì bao gồm vận động vật lý và trong vận động sinh học bao gồm vận động hóa
học và vận động xã hội bao gồm vận động sinh học cũng như tất cả các vật động
nêu trên. Tuy nhiên vận động cơ học không thể bao gồm vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên khác nhau về . Từ vận động cơ học đến vận chất
động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương
ứng với trình độ của các . và trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật kết cấu vật chất
có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Dù vậy, bản thân sự tồn
tại của sự vật đó thường đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, Engels đã góp phần đặt cơ
sở cho sự phân loại các tương ứng với đối tượng nghiên cứu của chúng khoa học
và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các .khoa học
5. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước,
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi.
- Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất,
nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra cùng chịu sự chi phối của những qui
luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì
khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi chuyển hóa lẫn nhau,
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra từ
việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học cuộc sống hiện
thực của con người kiểm nghiệm. không chỉ định hướng cho con người giải
thích về tính đa dạng của thế giới còn định hướng cho con người tiếp tục nhận
thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp qui luật.
6. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
A. Nguồn gốc ca ý thức
Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
-Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con
người và hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá
trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ
óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức
của con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến
hóa của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực của , của tư duy nhận thức
và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con
người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh
năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ
tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách
quan, thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình
thành nên quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Những đặc điểm được tái tạo
ở dạng vật chất chịu sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác
động. Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh. Cái phản ánh
và cái được phản ánh không tách rời nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Cái
được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm
chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) ở một dạng vật chất
khác (dạng vật chất nhận sự tác động).
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện
dưới nhiều hình thức. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của
vật chất.
Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh.
Phản ánh vật lý, hóa học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này
mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu
sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh
học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là
phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh
trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc…khi nhận sự tác động trong
môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra
năng lực , được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh cảm giác
qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường
lên cơ thể sống.
Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực
hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
Phản ánh năng động sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất có tổ chức cao nhất, có tổ chức
cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá
trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác
động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa
chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của
thông tin. Sự phản ánh sáng tạo năng động này được gọi là ý thức.
-Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. hai yếu tố này vừa là nguồn
gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó
bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình
với giới tự nhiên. Đây cũng là qúa trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng
đi thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ não,…
của con người. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách
quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những
quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con
người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các
giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con người,
tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan
thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải
có phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay
trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ , trao đổi giao tiếp
mà còn khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư
tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai
chất kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc
người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
B. Bản chất của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con
người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin,
chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin
đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được
tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện
ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,.. trong đời
sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng
các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh
về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội
dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách
quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý
thức “chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật
sinh học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các
điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã
sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội.
C. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận,
nghiên cứu về kết cấu của ý thức.
a) Theo các yếu tố hợp thành
Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm
và ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể
bao gồm các yếu tố khác như niềm tin, lí trí,…
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại
ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu
hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại
của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo
đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về
tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của
nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình
cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự
khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người;
là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể
có sự tìm tòi ”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những chân lý
người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách
mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó
trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm
đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của
ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được
mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích
đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều
khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác; nó
cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành
động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ
thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa
của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố
tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai
cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri
thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân
tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố
khác
b) Theo chiều sâu của nội tâm
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức,
tiềm thức, vô thức.
– Tự ý thức:
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận
thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức, là
một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong
mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận thức về
bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi
đạo đức và có vị trí trong xã hội. Những cảm giác của con người về bản thân mình
trên mọi phương diện giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành tự ý thức. Con
người chỉ tự ý thức được bản thân mình trong quan hệ với những người khác, trong
quá trình hoạt động cải tạo thế giới. Chính trong quan hệ xã hội, trong hoạt động
thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do chính con
người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân mình, tự điều
chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của
một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những
quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giai
cấp mình, hay của tầng lớp mình.
– Tiềm thức:
Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể,
song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm
soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có
được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng
sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể chủ
động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát
chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm
lý hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học. Trong tư duy khoa học,
tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác, với các hoạt động tư duy
thường được lặp đi lặp lại nhiều lần. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự quá tải của
đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một
cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư
duy khoa học.
– Vô thức:
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi,
thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự
truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc
mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Mỗi hiện tượng ấy có
vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều có một chức
năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất
là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy
tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh
thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức,
“libiđo”…
Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của con
người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết
khi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con người đặt ra được thực
hiện một cách tự nhiên… Vì vậy, không thể phủ nhận vai trò cái vô thức trong
cuộc sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con
người.
Tuy nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên coi
vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung
quanh không liên quan gì đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô thức nằm trong con
người có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vô
thức. Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân,
thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
7. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện
tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản:
Cái chung và cái riêng
Bản chất và hiện tượng
Nội dung và hình thức
Nguyên nhân và kết quả
Khả năng và hiện thực
Tất nhiên và ngẫu nhiên
Nguyên lý này được dựa trên một khẳng định trước đó của triết học Mác-Lênin là
khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các
sự vật và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng,
phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau
của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Engels đã nhấn mạnh điều
này
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ
bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của
mọi sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng
nào, ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên
hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện
tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ
với những thành phần, những yếu tố khác.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau,
hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các
mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều
loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu,
mối liên hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau
đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.
8. Nguyên lý về sự phát triển.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự
vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận
động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu
hiện thông qua :ba quy luật cơ bản
Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
Quy luật lượng - chấ t chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Triết học Mác-Lênin luôn coi trọng sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Việc đặt sự vật, hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển là một nguyên lý
quan trọng của triết học Mác-Lênin. Liên hệ tức là vận động, mà không vận động
thì không có sự phát triển. Nhưng vận động và phát triển là hai khái niệm khác
nhau. Khái niệm vận động khái quát mọi sự biến đổi nói chung, không tính đến xu
hướng và kết quả của những biến đổi ấy như thế nào. Sự vận động diễn ra không
ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.
9. Nội dung và yêu cầu của quy luật lượng chất
A. Nội dung
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ở một thể thống nhất bao gồm phần chất và
phần lượng. Trong đó phần chất là phần tương đối ổn định còn phần lượng là
phần thường xuyên có sự biến đổi.
Sự biến đổi này của lượng sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất.
Trong một điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, một sự
vật, hiện tượng sẽ có sự biến đổi về lượng, đến một mức độ nhất định, nó sẽ
phá vỡ chất cũ. Lúc này mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất
mới được hình thành với một lượng mới. Tuy nhiên bản chất của lượng là
vận động nên nó sẽ không đứng yên mà sẽ tiếp tục vận động đến một thời
điểm nào đó nó sẽ làm phá vỡ chất hiện tại.
Quá trình vận động giữa hai mặt Lượng và chất tác động với nhau qua hai
mặt: Chúng tạo nên sự vận động liên tục và không dừng lại. Lượng sẽ biến
đổi dần dần và tạo nên chất mới, hay nói cách khác, lượng biến đổi dần dần
và tạo nên bước nhảy vọt. Sau đó chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên bước
nhảy vọt tiếp theo.
Nói một cách ngắn gọn thì nội dung quy luật lượng chất là bất cứ một sự vật,
hiện tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản
sinh chất mới. Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến
đổi về lượng nền tảng chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về
chất là kết quả tất yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến đổi về chất và lượng
cho thấy trạng thái và quá trình phát triển của sự vật.
B. Yêu cầu
Theo Mac nin thì chất lượng hai mặt đối lập, bản chất của chất thì
tương đối ổn định, ngược lại thì lượng thường xuyên biến đổi. Tuy nhiên chúng
lại không thể tách rời nhau, đổi lại giữa chúng đều luôn sự tác động qua lại
lẫn nhau.
Sự thống nhất này được xác định trong một độ nhất định khi sự vật đang tồn tại.
Trong đó độ là một phạm trù của triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng
chất, được biểu thị mức độ sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi cơ bản
về chất của sự vật đó.
Đổi lại khi sự vật mới được hình thành thì từ chất mới thì sẽ một lượng mới
phù hợp, từ đó tạo nên sự thống nhất mới giữa lượng chất, sự tác động này
được hiểu thông qua quy mô, nhịp điệu phát triển mới của lượng.
10. Nội dung và yêu cầu của quy luật mâu thuẫn.
A. Nội dung
Mặt đối lập những mặt những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách
khách quan trong tự nhiên, hội duy. Sự tồn tại các mặt đối lập
khách quan phổ biến trong thế giới. Theo triết học duy vật biện
chứng của Engels thì tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa
đựng những mặt trái ngược nhau. dụ như: Trong nguyên tử điện tử
và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng hoádị hoá, trong kinh tế
thị trường cung cầu, hàng tiền. Những mặt trái ngược nhau đó
trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau theo
hướng trái ngược nhau, xung đột lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện
chứng. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì mâu thuẫn biện
chứng tồn tại một cách khách quan phổ biến trong tự nhiên, hội
duy. Mâu thuẫn biện chứng trong duy phản ánh mâu thuẫn trong
hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng
không phải ngẫu nhiên, chủ quan, cũng không phải mâu thuẫn trong
lôgic hình thức. Mâu thuẫn trong lôgic hình thức là sai lầm trong tư duy.
B. Yêu cầu
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng
đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất
đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận độngphát triển,
làm cho cái cũ mất đi cái mới ra đời.
Sự thống nhất: Sự thống nhất của các mặt đối lập: sự ràng buộc, phụ
thuộc, quy định lẫn nhau, đòi hỏi nhau, nương tựa vào nhau của các
mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Là sự đồng
nhất của các mặt đối lập; là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập.
Đấu tranh: Sự đấu tranh của các mặt đối lập sự tác động lẫn nhau, bài
trừ phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt
đối lậpthể được biểu hiện ở sự ảnh hưởng lẫn nhau hoặc dùng bạo lực
để thủ tiêu lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Mối quan hệ: Mối quan hệ giũa sự thống nhất đấu tranh của các mặt
đối lập thể hiện chỗ trong một mâu thuẫn, sự thống nhất đấu tranh
của các mặt đối lập không tách rời nhau, bởi trong sự ràng buộc, phụ
thuộc quy định lẫn nhau thì hai mặt đối lập vẫn luôn xu hướng phát
triển trái ngược nhau, đấu tranh với nhau. Không sự thống nhất sẽ
không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh, còn đấu tranh của
các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập tất yếu, kết quả của sự đấu tranh
của các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới nên hình thức chuyển hóa
cũng rất đa dạng:thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, cũng có thể
cả hai chuyển thành những chất mới. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập
phải có những điều kiện nhất định.
11.Nội dung và yêu cầu của quy luật phủ định của phủ định.
A. Nội dung
Sự ra đời tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình
vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân
tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay
thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song
sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải sự
trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo
tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó.
Sau khi sự phủ định diễn ra hai lần thì sự phủ định của phủ định được
thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phát triển biện
chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất
hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồnbổ sung thêm những nhân tố tích cực mới.
Do đó, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ
ngày càng phát triển.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu,
một nấc thang trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách cái phủ
định (lần 1), cái mới cũng chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ
định lần thứ hai (phủ định của phủ định).
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những
lần phủ định biện chứng vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái
mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển
của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định
từ thấp đến cao một cách tận theo đường “xoáy ốc” hay “vòng xoáy
trôn ốc”. Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời lặp
lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc
trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp
lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường “xoáy ốc” thể hiện sự lặp lại nhưng
cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật do
mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định kết quả
đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật – giữa
mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho
sự vật chuyển thành cái đối lập với cái khẳng định ban đầu. Sự phủ
định lần thứ hai, sự vật mới với cáchcái phủ định của phủ định đối
lập với cái phủ định và trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên vẹn
như cái cũ mà trên cơ sở cao hơn, tốt hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định
phủ định,kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng
định ban đầu cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước
đó. Cái tổng hợp này sự lọc bỏ những giai đoạn đã qua, vậy,
nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn.
Kết quả của sự phủ định của phủ định điểm kết thúc của một chu kỳ
phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật
lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới
ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật phủ định của
phủ định quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, hội
duy.
B. Yêu cầu
Phủ định biện chứng phải hai đặc điểm bản là: tính khách quan
tính kế thừa.
+ Tính khách quan:
Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ
định nằm ngay trong bản thân sự vật. Nguyên nhân đó chính kết quả
giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật.
Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn sự vật luôn phát triển. thế,
phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động,
phát triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật phương thức phủ định
riêng tùy thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng.
Phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí chủ quan ủa con
người. Con người chỉ thể tác động cho quá trình phủ định ấy diễn
ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
+ Tính kế thừa:
Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên nó
không thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ.
Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thê từ vô.
Cái mới ra đời sự phát triển tiếp tục của cái trên sở gạt bỏ những
mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những
mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp
với hiện thực.
Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt tốt,
tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực.
thể nói, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó những giai
đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra giai đoạn trước
và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực.
Phủ định biện chứng không chỉ sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, còn
là sự liên kết giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, quá khứ
hiện tại. Phủ định biện chứng một khâu tất yếu của mối liên hệ sự
phát triển.
12. Mối quan hệ giữa cái cung và cái riêng.
. Cái chung chỉ Cái chung chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua cái riêng
tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của
mình, không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng, cái chung
tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua
cái riêng.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Không có cái riêng
nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung, , sự vật hiện
tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung
vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung
sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối
liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái
chung là cái gắn liền với cái , quy định phương hướng tồn tại và bản chất
phát triển của cái riêng.
Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật. Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những
mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà
không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực
cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới
dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay
thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại cái cũ lúc đầu là
cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện
mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ
cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời
thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất
là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
13. Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất hiện tượng có
mối quan hệ biện chứng như sau:
1. Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống.
– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có
nhận thức được hay không.
Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy
tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo
nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định
lại ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chũng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy,
nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
Không những tồn tại khách quan, bản chất hiện tượng còn mối liên hệ
hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
– Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng
được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện tượng nào
cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất hiện tượng phù hợp với nhau. Không có bản chất nào
tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại, cũng không
có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.
– Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau.
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với cũng sẽ thay đổi theo.
Khi bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
– Chính nhờ sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự
vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của
mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát
triển của những hiện tượng ấy.
3. Tuy thống nhất với nhau, bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn.
– Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng.
Tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt.
Nói cách khác, tuy bản chất hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản
phù hợp với nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn.
Sở dĩ như vậy bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua
sự tương tác của sự vật ấy với những sự vật xung quanh. Các sự vật xung quanh
này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào
nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định.
Kết quả là, hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải sự biểu hiện y
nguyên bản chất.
– Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản chất và hiện
tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại phát
triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng số hiện tượng khác
nhau tùy theo sự biến đổi của của điều kiện và hoàn cảnh.
Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào bản chất,
còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu hiện. Chính thế, hiện
tượng phong phú hơn bản chất. Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan. Còn hiện
tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
Các hiện tượng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y nguyên như bản
chất vốn dưới hình thức đã được cải biến, nhiều khi xuyên tạc
nội dung thực sự của bản chất. Ví dụ: Nhúng một phần cái thước vào chậu nước,
ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn thẳng.
– Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện tượng không ổn định, nó
luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
tình hình đó do nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ
bởi bản chất của sự vật, còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó,
bởi tác động qua lại của nó với các sự vật xung quanh.
Các điều kiện tồn tại bên ngoài đó sự tác động qua lại của sự vật này với sự
vật khác lại thường xuyên biến đổi. vậy, hiện tượng thường xuyên biến đổi,
trong khi bản chất vẫn giữa nguyên.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa bản chất luôn giữ nguyên như cũ từ lúc ra
đời cho đến lúc mất đi. Mà bản chất cũng biến đổi, nhưng biến đổi rất chậm
so với hiện tượng.
14. Thực tiễn và vai trò của thực tiến đối với nhận thức.
A.Thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chấtmục đích mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải biến thế giới khách quan.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt động tinh
thần của con người đều là hoạt động thực tiễn.
- Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt đông bản năng của động vật.
- Có tính lịch sử - xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội và trong những
giai đoạn lịch sử nhất định.
B.Vai trò
– Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức:
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các
mối giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động quan hệ
thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra
nhu cầu, , cách thức và khuynh hướng của nhận nhiệm vụ vận động phát triển
thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác
động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động
đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những , những mối liên hệ và các thuộc tính
quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con
người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở
đó hình thành các khoa học.lý thuyết
Do đó, nếu XA RỜI THỰC TIỄN, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời
cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì
thế, nhận thức KHÔNG THỂ có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc chủ thể
về thế giới nến nó xa rời thực tiễn. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi
chúng ta phải luôn luôn quán triệt thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu quan điểm
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dừa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực
tiễn, phải coi trọng tổng kết thực tiễn. Việc nghiên cứu phải liên hệcông tác lý luận
với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, . Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa quan liêu
vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. chủ nghĩa
Như vậy, giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc thống nhất nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn
làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông,
ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất
định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng.
– Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Hoạt động thực tiễn góp phần các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh hoàn thiện
nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực
phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực
tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
+ Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con người
phải nhận thức về thế giới.
+ Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện,
từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
– Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn nhằm cải
biến thế giới. Nhấn mạnh vai trò này của thực tiễn Lênin đã cho rằng: “Quan điểm
về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận
thức”.
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao
năng lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận
thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải
quyết.
Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức
mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có . Bằng thực tiễn mà ý nghĩa
kiểm chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn
phát triển và ngược lại
– Thực tiễn là tiêu chuẩn tiêu chuẩn của chân lý:
Bằng thực tiễnkiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Như vậy, thực tiễn là thước đo chính xác
nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác nhận tri thức đó phải chân lý
hay không. Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người
thể đạt tới chân khách quan hay không, hoàn toàn không phải vấn đề
luận một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn con người phải chứng
minh chân lý”.
15. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức.
Quá trình nhận thức có hai giai đoạn:
Giai đoạn nhận thức cảm tính (nhận thức trực tiếp bằng trực quan sinh động) :
gồm ba cấp độ
Cảm giác: là hình thức đầu tiên trong nhận thức của con người, là hình ảnh một
vài thuộc tính riêng lẻ tác động vào giác quan của con người (cảm giác là hình ảnh
chủ
quan của thế giới khách quan).
Tri giác: là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật, là sự tổng hợp cảm giác
nhưng
có hệ thống, đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất, là bước nhảy vọt trong nhận thức
cảm tính, có tính gián tiếp, là hình ảnh được tái tạo, lưu giữ khi đối tượng khánh
thể không còn tác động trực tiếp vào giác quan chủ thể.
Khả năng tác động trực tiếp của con người vào đối tượng nhận thức có hạn vì thế
con người cần giai đoạn nhận thức thứ hai.
Giai đoạn nhận thức lý tính (nhận thức gián tiếp bằng tư duy trừu tượng): là hình
thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính và bản chất của sự vật,
gồm ba cấp độ
Phán đoán: là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm với nhau để khẳng
định
hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.
Suy luận: là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri
thức mới. Đây là hình thức cao nhất trong quá trình nhận thức của con người.
Mối quan hệ của hai giai đoạn: Giai đoạn nhận thức cảm tính là cơ sở cung cấp
những thông tin, tri thức cho quá trình nhận thức lý tính làm tiền đề còn giai đoạn
nhận thức lý tính làm phong phú, sâu sắc thêm cho giai đoạn nhận thức cảm tính.
| 1/23

Preview text:

1. Quan niệm của chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trước Mác về phạm trù vật chất.
* Chủ nghĩa duy tâm: Coi ý thức (tinh thần ) là có trước, quyết định. Coi vật chất
(giới tự nhiên) là có sau, bị quyết định. Quan điểm này bị thực tiễn bác bỏ.
* Chủ nghĩa duy vật trước Mác: Cho rằng vật chất( giới tự nhiên) là có trước, là
quyết định, còn ý thức (tinh thần) có sau, bị quyết định. Quan điểm này phù hợp
với thực tiễn, tuy nhiên khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà duy vật trước
mác lại có những quan điểm khác nhau.
- Một là: Quan niệm của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại thì đồng nhất vật
chất với những sự vật hiện tượng cụ thể như nước, lửa, không khí, nguyên tử… coi
đó là cái đầu tiên mà từ đó sinh ra mọi cái còn lại. Quan niệm này mang nặng tính
trực quan, ngây thơ, ấu trĩ và chưa khoa học nên đã bị khoa học bác bỏ.
- Hai là: Quan niệm của chủ nghĩa siêu hình thế kỷ XVII, XVIII quy vật chất về
các thuộc tính của vật như là khối lương, quảng tính, hay là kết cấu nguyên tử.
Quan niệm này đã có tính khoa học tuy nhiên nó còn mang nặng tính siêu hình cơ
giới, máy móc. Do đó những quan niệm này cuối cùng cũng bị khoa học bác bỏ.
Từ đó đặt ra nhu cầu phải có một quan niệm mới về vật chất. Lênin là người đầu
tiên đưa ra được quan điểm này.
2. Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX và sự phá sản của các quan điểm duy vật siêu hình về vật chất.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cuộc cánh mạng trong KHTN đã mở ra nhiều phát
minh có tính bước ngoặt làm đảo lộn những nguyên tắc cũ, xuất hiện một loạt
những phát minh khoa học mới góp phần bác bỏ những quan niệm cũ về vật chất cụ thể là:
- Năm 1895 tìm ra tia X (tia rơn ghen) chứng tỏ trong tự nhiên vật chất không chỉ
là chất (tức là những cái có khối lượng, có quảng tính và có cấu trúc nguyên tử) mà
vật chất còn là trường (dạng vật chất mang tính liên tục, nó không xác định về mặt
khối lượng, không có cấu trúc nguyên tử).
- Năm 1896 phát hiện ra hiện tượng phóng xạ chứng tỏ nguyên tử cũng tiêu tan.
- Năm 1897 tìm ra electơron (điện tử) chứng tỏ nguyên tử cũng không phải là kết
cấu vật chất cuối cùng (cấu trúc này vẫn có thể phân chia được nữa).
-Năm 1898- 1902, nhà nữ vật lý học Ba Lan Mari Scôlôđốpsca cùng với chồng
là Pie, nhà hoá học người Pháp, đã khám phá ra chất phóng xạ mạnh là pôlôni và rađium.
Giờ đây những quan niệm cứng nhắc, bất biến, tách rời, cô lập lẫn nhau về thế giới
đã bắt đầu bị lung lay. Thế là chủ nghĩa duy vật Pháp mất dần ảnh hưởng, thay vào
đó là triết học cổ điển Đức. Song ảnh hưởng của thứ triết học đó đối với vật lý học
ở đầu thế kỉ XIX là khá mâu thuẫn, trong đó nó đem lại kết quả xấu thì nhiều hơn.
Hêghen,người đã xây dựng nên hệ thống phép biện chứng lại cũng chính là người
đứng chắn đường không cho các nhà khoa học tự nhiên tiếp thu phép biện chứng,
do đó triết học của Hêghen không những đã không thúc đẩy khoa học phát triển mà
còn kìm hãm nó. Và phải chờ đến Mác và Ăngghen thì phép biện chứng mới phát
huy được tính tích cực của nó. Dựa vào tất cả những tài liệu mới nhất lúc đó của
khoa học tự nhiên, Mác và Ăngghen đã xây dựng nên một hình thức triết học mới
có tính chất vừa khoa học vừa cách mạng hơn tất cả các hình thức triết học đã
từngtồn tại trong lịch sử, đó là triết học duy vật biện chứng. Triết học mới này đã
từ bỏ việc giải quyết các vấn đề cụ thể của khoa học tự nhiên; ngay từ khi mới ra
đời, nó đã tự xác định đối tượng nghiên cứu của nó là mối quan hệ giữa nhận thức
và tồn tại, là những quy luật vận động và phát triển tổng quát của tự nhiên, xã hội
và tư duy; nó cũng xác định đúng mối quan hệ giữa nó với khoa học tự nhiên,
trong đó có vật lý học. Song do một số nguyên nhân khách quan mà từ khi ra đời
cho đến cuối thế kỉ XIX, triết học duy vật biện chứng vẫn chưa được phổ biến sâu
rộng trong đông đảo các nhà khoa học tự nhiên, hơn nữa trong thời kì này vật lý
học cơ giới vẫn còn gặt hái được nhiều thắng lợi nên đây vẫn là thời kì mà tư
duy siêu hình vẫn còn chiếm ưu thế trong vật lý học. Sự ràng buộc của tư tưởng về
một chất liệu cơ bản “đầu tiên” cấu thành toàn bộ thế giới vẫn lớn tới mức hầu như
không nhà vật lý học nào thoát khỏi nó. Do chỉ nhìn thấy cây mà chẳng thấy rừng,
nên vật lý học vào cuối thế kỉ XIX đã tự coi mình là hình thức “hoàn bị” cuối cùng
trong toàn bộ tiến trình phát triển của vật lý học không những từ trước cho đến lúc
đó mà còn cho mãi về sau. Sự ngạo mạn đó đã được thể hiện đầy đủ trong lời nói
của nhà vật lý học lão thành kiêm Huân tước nước Anh là Kenvin. Ông này cho
rằng vật lý học cuối thế kỷ XIX không còn cái gì để phát minh nữa mà chỉ còn
nhiệm vụ là tìm cách ứng dụng thật tốt những cái đã phát minh.
Chưa hết, một nhà vật lý học khác là Maikenxơn còn nói thẳng ra rằng khoa học
trong tương lai sẽ không tìm ra cái mới, cái chưa biết mà sẽ chỉ làm cho những cái
đã biết ngày thêm chính xác. Tư tưởng siêu hình và máy móc như vậy đã ngăn cản
các nhà vật lý học lúc đó hiểu rằng thế giới vật chất ngoài kia là vô cùng phong
phú và đa dạng, rằng vẫn cònnhiều điều mà họ vẫn chưa biết, hoặc chưa có khả
năng vươn tới. Tóm lại, trong hàng ngàn năm phát triển của mình trước khi xảy ra
cuộc khủng hoảng, ngành vật lý cũng đã trải qua nhiều cuộc “lật đổ” ngoạn
mục những lý thuyết cũ của nó. Con người đã phải phấn đấu không mệt mỏi trong
suốt 20 thế kỉ để đến được với cơ học cổ điển của Newtơn, dĩ nhiên tham vọng của
con người vẫn còn rất lớn nên sẽ không chịu dừng chân ở đó, con người sẽ tiếp tục
cuộc hành trình “hỏi - đáp -khám phá” để ngày càng đạt tới sự nhận thức đúng đắn
hơn về bản chất của thế giới. Trong quá trình đó, vận mệnh của ngành vật lý học
đã luôn gắn chặt vào vận mệnh của triết học. Xét một cách tổng thể thì mỗi
giai đoạn phát triển của ngành vật lý học đều bị chi phối mạnh mẽ bởi một hình
thức triết học tương ứng. V.I.Lênin khẳng định: “là ở sự đảo lộn của những quy
luật cũ và những nguyên lý cơ bản, ở sự thay thế của chủ nghĩa duy vật bằng chủ
nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả tri”.
3. Quan niệm của triết học Mác - Lênin về vật chất,
a, Quan niệm: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại,
chép lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
b, Phân tích quan niệm: Trong nội dung định nghĩa trên cần lưu ý 2 điểm sau:
- Một là: Định nghĩa khẳng định vật chất là một phạm trù triết học, phạm trù là một
khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc tính phổ biến nhất của hiện
thực. Như vậy khi coi vật chất là một phạm trù triết học thì nó là khái niệm chứ
không phải là sự vật. Cho nên vật chất là cái chung, cái khái quát, cái trừu tượng,
là vật chất nói chung (là vĩnh viễn). Vì vậy cần phải phân biệt phạm trù triết học về
vật chất với 1 khái niệm vật lý thông thường về vật chất mà người ta dùng để chỉ
những sự vật, những hiện tượng vật chất cụ thể (như vậy: đất, nước, lửa, không khí
chẳng qua chỉ là một dạng tồn tại về vật chất).
- Hai là: Về mặt nhận thức luận (phương pháp luận) thì thuộc tính cơ bản nhất của
vật chất dùng để định nghĩa cho nó và để phân biệt nó với ý thức tinh thần là thuộc
tính tồn tại khách quan. Vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan bên ngoài
đầu óc con người và không phụ thuộc vào ý thức của con người, độc lập lại với nó
thì ý thức hay tinh thần là cái tồn tại chủ quan trong đầu óc con người.
Tóm lại: Theo định nghĩa của LêNin vật chất được hiểu như sau:
- Vật chất là tất cả những gì đang tồn tại khách quan bên ngoài đầu óc con người,
không phụ thuộc vào ý thức, cảm giác của con người.
- Vật chất là những cái mà khi tác động lên các giác quan của con người một cách
trực tiếp hay gián tiếp thì sẽ gây nên cho con người cảm giác.
- Vật chất là những cái mà trong quan hệ đối với chúng thì ý thức, cảm giác của
con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh của chúng mà thôi.
c, Ý nghĩa, phương pháp luận của định nghĩa:
Một là: Định nghĩa trên đã góp phần khắc phục được quan niệm siêu hình về vật
chất, đó là không quy vật chất về cái cụ thể mà đồng nhất nó với thực tại khách
quan nói chung (Cái thực tại khách quan ấy mới là vĩnh viễn, mới là cái vô cùng tận).
Hai là: Định nghĩa đã góp phần giải quyết được cả hai mặt vấn đề cơ bản của triết
học theo lập trường duy vật và theo lập trường khả tri luận (theo thuyết có thể biết)
Ba là: Định nghĩa góp phần đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, nhất là duy tâm về
xã hội. Vì theo định nghĩa này đưa vào thuộc tính tồn tại khách quan mà ta có thể
phân biệt trong xã hội xem đâu là vật chất, đâu là tinh thần.
Bốn là: Định nghĩa là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu về các dạng cấu trúc vật
chất của thế giới có liên quan đến dạng vật chất mới như là: hạt và phản hạt; vật
chất và phản vật chất.
4. Vận động và các hình thức tồn tại của vận động.
Vận động là một phạm trù của triết học Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương
thức tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù không gian và thời gian), đó là sự
thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không
gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin
thì vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động
thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến
đổi. Thông qua vận động, vật chất mới biểu hiện và bộc lộ bản chất của mình.
Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại lúc đang sinh sống, Engels đã
phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản (xếp từ đơn giản đến phức tạp). Đó là:
1. Vận động cơ học (là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian).
2. Vận động vật lý (tức sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận
động điện tử, các quá trình nhiệt điện, v.v.).
3. Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình và hóa hợp phân giải các chất).
4. Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường).
5. Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội).
Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao
hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Nhưng các hình thức vận
động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn.
Ví dụ: Trong vận động vật lý thì bao gồm vận động cơ học, trong vận động hóa
học thì bao gồm vận động vật lý và trong vận động sinh học bao gồm vận động hóa
học và vận động xã hội bao gồm vận động sinh học cũng như tất cả các vật động
nêu trên. Tuy nhiên vận động cơ học không thể bao gồm vận động xã hội.
Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận
động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương
ứng với trình độ của các kết cấu vật chất. và trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật
có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Dù vậy, bản thân sự tồn
tại của sự vật đó thường đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản.
Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, Engels đã góp phần đặt cơ
sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng với đối tượng nghiên cứu của chúng
và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học.
5. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất. Theo quan điểm đó:
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất; thế giới vật chất là cái có trước,
tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, vô hạn, không sinh ra, không mất đi.
- Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu
hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất,
có nguồn gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những qui
luật khách quan, phổ biến của thế giới vật chất. Trong thế giới vật chất không có gì
khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là
nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Bản chất vật chất và tính thống nhất vật chất của thế giới là kết luận được rút ra từ
việc khái quát những thành tựu của khoa học, được khoa học và cuộc sống hiện
thực của con người kiểm nghiệm. Nó không chỉ định hướng cho con người giải
thích về tính đa dạng của thế giới mà còn định hướng cho con người tiếp tục nhận
thức về tính đa dạng ấy để thực hiện quá trình cải tạo hợp qui luật.
6. Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức
A. Nguồn gốc của ý thức
Ý thức có hai nguồn gốc là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội. -Nguồn gốc tự nhiên
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con
người và hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới
khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá
trình phản ánh sáng tạo, năng động.
Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc
người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ
óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức
của con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến
hóa của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy
và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con
người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh
năng động, sáng tạo: Quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là quan hệ
tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này, thế giới khách
quan, thông qua hoạt động của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình
thành nên quá trình phản ánh.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác
trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Những đặc điểm được tái tạo
ở dạng vật chất chịu sự tác động bao giờ cũng mang thông tin của dạng vật chất tác
động. Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi là cái phản ánh. Cái phản ánh
và cái được phản ánh không tách rời nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Cái
được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất, còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm
chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) ở một dạng vật chất
khác (dạng vật chất nhận sự tác động).
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện
dưới nhiều hình thức. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
Phản ánh vật lý, hóa học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh.
Phản ánh vật lý, hóa học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hóa khi có sự tác
động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này
mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu
sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh
học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là
phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh
trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc…khi nhận sự tác động trong
môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra
năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh
qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.
Phản ánh tâm lý là phản ứng của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực
hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
Phản ánh năng động sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức
phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất có tổ chức cao nhất, có tổ chức
cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá
trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác
động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa
chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của
thông tin. Sự phản ánh sáng tạo năng động này được gọi là ý thức. -Nguồn gốc xã hội
Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ. hai yếu tố này vừa là nguồn
gốc, vừa là tiền đề của sự ra đời ý thức.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm
thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó
bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình
với giới tự nhiên. Đây cũng là qúa trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể, đem lại dáng
đi thẳng bằng hai chân, giải phóng hai tay, phát triển khí quan, phát triển bộ não,…
của con người. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách
quan làm cho thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những
quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con
người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các
giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con người,
tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.
Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan
thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức.
Không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính
tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải
có phương tiện để biểu đạt. Nhu cầu này làm ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay
trong quá trình lao động. Nhờ ngôn ngữ con người đã không chỉ giao tiếp, trao đổi
mà còn khái quát, tổng kết đúc kết thực tiễn, truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư
tưởng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của
ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai
chất kích thích chủ yếu làm cho bộ óc vượn dần dần chuyển hóa thành bộ óc
người, khiến cho tâm lý động vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
B. Bản chất của ý thức.
Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con
người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức được thể hiện ở khả năng
hoạt động tâm – sinh lý của con người trong việc định hướng tiếp nhận thông tin,
chọn lọc thông tin, xử lý thông tin, lưu giữ thông tin và trên cơ sở những thông tin
đã có nó có thể tạo ra những thông tin mới và phát hiện ý nghĩa của thông tin được
tiếp nhận. Tính chất năng động, sáng tạo của sự phản ánh ý thức còn được thể hiện
ở quá trình con người tạo ra những giả tưởng, giả thuyết, huyền thoại,.. trong đời
sống tinh thần của mình hoặc khái quát bản chất, quy luật khách quan, xây dựng
các mô hình tư tưởng, tri thức trong các hoạt động của con người.
Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nghĩa là: ý thức là hình ảnh
về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan quy định cả về nội
dung, cả về hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách
quan mà nó đã cải biến thông qua lăng kính chủ quan của con người. Theo Mác: ý
thức “chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó”.
Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý
thức gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của các quy luật
sinh học mà chủ yếu là của các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các
điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính năng động, ý thức đã
sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực tiễn xã hội. C. Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu cực kỳ phức tạp. Có nhiều ngành khoa học, nhiều cách tiếp cận,
nghiên cứu về kết cấu của ý thức.
a) Theo các yếu tố hợp thành
Theo cách tiếp cận này, ý thức bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: tri thức, tình cảm
và ý chí, trong đó tri thức là nhân tố quan trọng nhất. Ngoài ra ý thức còn có thể
bao gồm các yếu tố khác như niềm tin, lí trí,…
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận
thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.
Mọi hoạt động của con người đều có tri thức, được tri thức định hướng. Mọi biểu
hiện của ý thức đều chứa đựng nội dung tri thức. Tri thức là phương thức tồn tại
của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển. Theo Mác: “phương thức mà theo
đó ý thức tồn tại và theo đó một cái gì đó tồn tại đối với ý thức là tri thức”.
Căn cứ vào lĩnh vực nhận thức, tri thức có thể chia thành nhiều loại như tri thức về
tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức nhân văn. Căn cứ vào trình độ phát triển của
nhận thức, tri thức có thể chia thành tri thức đời thường và tri thức khoa học, tri
thức kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý tính,…
Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ con người trong các quan hệ. Tình
cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự
khái quát những cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh. Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời sống của con người;
là một yếu tố phát huy sức mạnh, một động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Lênin cho rằng: không có tình cảm thì “xưa nay không có và không thể
có sự tìm tòi chân lý”; không có tình cảm thì không có một yếu tố thôi thúc những
người vô sản và nửa vô sản, những công nhân và nông dân nghèo đi theo cách mạng.
Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của con người về đối tượng đó
trong các quan hệ mà hình thành nên các loại tình cảm khác nhau, như tình cảm
đạo đức, tình cảm thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân để vượt qua những cản trở trong
quá trình thực hiện mục đích của con người. Ý chí được coi là mặt năng động của
ý thức, một biểu hiện của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự giác được
mục đích của hoạt động nên tự đấu tranh với mình để thực hiện đến cùng mục đích
đã lựa chọn. có thể coi ý chí là quyền lực của con người đối với mình; nó điều
khiển, điều chỉnh hành vi để con người hướng đến mục đích một cách tự giác; nó
cho phép con người tự kìm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong hành
động theo quan điểm và niềm tin của mình. Giá trị chân chính của ý chí không chỉ
thể hiện ở cường độ của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa
của mục đích mà ý chí hướng đến. Lênin cho rằng: ý chí là một trong những yếu tố
tạo nên sự nghiệp cách mạng của hàng triệu người trong cuộc đấu tranh giai
cấp quyết liệt nhằm giải phóng mình, giải phóng nhân loại.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau song tri
thức là yếu tố quan trọng nhất; là phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân
tố định hướng đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác
b) Theo chiều sâu của nội tâm
Tiếp cận theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức, vô thức. – Tự ý thức:
Trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận
thức bản thân mình. Đó chính là tự ý thức. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức, là
một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong
mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Nhờ vậy con người tự nhận thức về
bản thân mình như một thực thể hoạt động có cảm giác có tư duy, có các hành vi
đạo đức và có vị trí trong xã hội. Những cảm giác của con người về bản thân mình
trên mọi phương diện giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành tự ý thức. Con
người chỉ tự ý thức được bản thân mình trong quan hệ với những người khác, trong
quá trình hoạt động cải tạo thế giới. Chính trong quan hệ xã hội, trong hoạt động
thực tiễn xã hội và qua những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần do chính con
người tạo ra, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân mình, tự điều
chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.
Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của
một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình trong hệ thống những
quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng và lợi ích chung của xã hội mình, của giai
cấp mình, hay của tầng lớp mình. – Tiềm thức:
Là những hoạt động tâm lý tự động diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của chủ thể,
song lại có liên quan trực tiếp đến các hoạt động tâm lý đang diễn ra dưới sự kiểm
soát của chủ thể ấy. Về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có
được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng
sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng. Do đó, tiềm thức có thể chủ
động gây ra các hoạt động tâm lý và nhận thức mà chủ thể không cần kiểm soát
chúng một cách trực tiếp. Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm
lý hàng ngày của con người, cả trong tư duy khoa học. Trong tư duy khoa học,
tiềm thức chủ yếu gắn với các loại hình tư duy chính xác, với các hoạt động tư duy
thường được lặp đi lặp lại nhiều lần. ở đây tiềm thức góp phần giảm sự quá tải của
đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một
cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và chặt chẽ cần thiết của tư duy khoa học. – Vô thức:
Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi,
thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự
truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.
Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc
mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác… Mỗi hiện tượng ấy có
vùng hoạt động riêng, có vai trò, chức năng riêng, song tất cả đều có một chức
năng chung là giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng nhất
là những ham muốn bản năng không được phép bộc lộ ra và thực hiện trong quy
tắc của đời sống cộng đồng. Nó góp phần lập lại thế cân bằng trong hoạt động tinh
thần của con người mà không dẫn tới trạng thái ức chế quá mức như ấm ức, “libiđo”…
Như vậy, vô thức có vai trò tác dụng nhất định trong đời sống và hoạt động của con
người. Nhờ vô thức mà con người tránh được tình trạng căng thẳng không cần thiết
khi làm việc “quá tải”. Nhờ vô thức mà chuẩn mực con người đặt ra được thực
hiện một cách tự nhiên… Vì vậy, không thể phủ nhận vai trò cái vô thức trong
cuộc sống, nếu phủ nhận vô thức sẽ không thể hiểu đầy đủ và đúng đắn về con người.
Tuy nhiên không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức. Không nên coi
vô thức là hiện tượng tâm lý cô lập, hoàn toàn tách khỏi hoàn cảnh xã hội xung
quanh không liên quan gì đến ý thức. Thực ra, vô thức là vô thức nằm trong con
người có ý thức. Giữ vai trò chủ đạo trong con người là ý thức chứ không phải vô
thức. Nhờ có ý thức mới điều khiển được các hiện tượng vô thức hướng tới chân,
thiện, mỹ. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức của con người.
7. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện
tượng trong thế giới. Nguyên lý này biểu hiện thông qua 06 cặp phạm trù cơ bản: Cái chung và cái riêng
Bản chất và hiện tượng Nội dung và hình thức Nguyên nhân và kết quả Khả năng và hiện thực Tất nhiên và ngẫu nhiên
Nguyên lý này được dựa trên một khẳng định trước đó của triết học Mác-Lênin là
khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các
sự vật và hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới dù có đa dạng,
phong phú, có khác nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau
của một thế giới duy nhất, thống nhất- thế giới vật chất. Engels đã nhấn mạnh điều này
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba tính chất cơ
bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan của mối liên hệ biểu hiện: các mối liên hệ là vốn có của
mọi sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Tính phổ biến của mối liên hệ biểu hiện: bất kỳ một sự vật, hiện tượng
nào, ở bất kỳ không gian nào và ở bất kỳ thời gian nào cũng có mối liên
hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay trong cùng một sự vật, hiện
tượng thì bất kỳ một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ
với những thành phần, những yếu tố khác.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ biểu hiện: sự vật khác nhau,
hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác nhau thì các
mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Có thể chia các mối liên hệ thành nhiều
loại: mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu,
mối liên hệ thứ yếu, v.v.. Các mối liên hệ này có vị trí, vai trò khác nhau
đối với sự tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng.
8. Nguyên lý về sự phát triển.
Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong đó khi xem xét sự
vật, hiện tượng khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận
động và phát triển (vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật). Nguyên lý này biểu
hiện thông qua ba quy luật cơ bản: Quy luật mâu thuẫn
chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển Quy luật lượng - chấ
t chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển Quy luật phủ định
chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.
Triết học Mác-Lênin luôn coi trọng sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng. Việc đặt sự vật, hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển là một nguyên lý
quan trọng của triết học Mác-Lênin. Liên hệ tức là vận động, mà không vận động
thì không có sự phát triển. Nhưng vận động và phát triển là hai khái niệm khác
nhau. Khái niệm vận động khái quát mọi sự biến đổi nói chung, không tính đến xu
hướng và kết quả của những biến đổi ấy như thế nào. Sự vận động diễn ra không
ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.
9. Nội dung và yêu cầu của quy luật lượng chất A. Nội dung
Mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại ở một thể thống nhất bao gồm phần chất và
phần lượng. Trong đó phần chất là phần tương đối ổn định còn phần lượng là
phần thường xuyên có sự biến đổi.
Sự biến đổi này của lượng sẽ tạo nên sự mâu thuẫn giữa lượng và chất.
Trong một điều kiện nhất định đáp ứng được sự biến đổi về lượng, một sự
vật, hiện tượng sẽ có sự biến đổi về lượng, đến một mức độ nhất định, nó sẽ
phá vỡ chất cũ. Lúc này mâu thuẫn giữa lượng và chất được giải quyết, chất
mới được hình thành với một lượng mới. Tuy nhiên bản chất của lượng là
vận động nên nó sẽ không đứng yên mà sẽ tiếp tục vận động đến một thời
điểm nào đó nó sẽ làm phá vỡ chất hiện tại.
Quá trình vận động giữa hai mặt Lượng và chất tác động với nhau qua hai
mặt: Chúng tạo nên sự vận động liên tục và không dừng lại. Lượng sẽ biến
đổi dần dần và tạo nên chất mới, hay nói cách khác, lượng biến đổi dần dần
và tạo nên bước nhảy vọt. Sau đó chúng tiếp tục biến đổi dần và tạo nên bước nhảy vọt tiếp theo.
Nói một cách ngắn gọn thì nội dung quy luật lượng chất là bất cứ một sự vật,
hiện tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
Biến đổi về lượng đến một mức nhất định sẽ dẫn đến biến đổi về chất, sản
sinh chất mới. Rồi trên nền tảng của chất mới lại bắt đầu biến đổi về lượng. Biến
đổi về lượng là nền tảng và chuẩn bị tất yếu của biến đổi về chất. Biến đổi về
chất là kết quả tất yếu của biến đổi về lượng. Quy luật biến đổi về chất và lượng
cho thấy trạng thái và quá trình phát triển của sự vật. B. Yêu cầu
Theo Mac – Lê nin thì chất và lượng là hai mặt đối lập, bản chất của chất thì
tương đối ổn định, ngược lại thì lượng thường xuyên biến đổi. Tuy nhiên chúng
lại không thể tách rời nhau, đổi lại giữa chúng đều luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Sự thống nhất này được xác định trong một độ nhất định khi sự vật đang tồn tại.
Trong đó độ là một phạm trù của triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng
và chất, được biểu thị ở mức độ sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi cơ bản
về chất của sự vật đó.
Đổi lại khi sự vật mới được hình thành thì từ chất mới thì sẽ có một lượng mới
phù hợp, từ đó tạo nên sự thống nhất mới giữa lượng và chất, sự tác động này
được hiểu thông qua quy mô, nhịp điệu phát triển mới của lượng.
10. Nội dung và yêu cầu của quy luật mâu thuẫn. A. Nội dung
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách
khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là
khách quan và là phổ biến trong thế giới. Theo triết học duy vật biện
chứng của Engels thì tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa
đựng những mặt trái ngược nhau. Ví dụ như: Trong nguyên tử có điện tử
và hạt nhân hay trong sinh vật thì có sự đồng hoá và dị hoá, trong kinh tế
thị trường có cung và cầu, hàng và tiền. Những mặt trái ngược nhau đó
trong phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau theo
hướng trái ngược nhau, xung đột lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện
chứng. Theo triết học duy vật biện chứng của Engels thì mâu thuẫn biện
chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và
tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong
hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng
không phải là ngẫu nhiên, chủ quan, cũng không phải là mâu thuẫn trong
lôgic hình thức. Mâu thuẫn trong lôgic hình thức là sai lầm trong tư duy. B. Yêu cầu
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng
đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển,
làm cho cái cũ mất đi cái mới ra đời.
Sự thống nhất: Sự thống nhất của các mặt đối lập: Là sự ràng buộc, phụ
thuộc, quy định lẫn nhau, đòi hỏi có nhau, nương tựa vào nhau của các
mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Là sự đồng
nhất của các mặt đối lập; là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập.
Đấu tranh: Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài
trừ và phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Sự đấu tranh của các mặt
đối lập có thể được biểu hiện ở sự ảnh hưởng lẫn nhau hoặc dùng bạo lực
để thủ tiêu lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Mối quan hệ: Mối quan hệ giũa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập thể hiện ở chỗ trong một mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập không tách rời nhau, bởi vì trong sự ràng buộc, phụ
thuộc quy định lẫn nhau thì hai mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát
triển trái ngược nhau, đấu tranh với nhau. Không có sự thống nhất sẽ
không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh, còn đấu tranh của
các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là tất yếu, là kết quả của sự đấu tranh
của các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới nên hình thức chuyển hóa
cũng rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, cũng có thể
cả hai chuyển thành những chất mới. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập
phải có những điều kiện nhất định.
11.Nội dung và yêu cầu của quy luật phủ định của phủ định. A. Nội dung
Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình
vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân
tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay
thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song
sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.
Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự
trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo
tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó.
Sau khi sự phủ định diễn ra hai lần thì sự phủ định của phủ định được
thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phát triển biện
chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất
hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới.
Do đó, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu,
một nấc thang trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ
định (lần 1), cái mới cũng chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ
định lần thứ hai (phủ định của phủ định).
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những
lần phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái
mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển
của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định
từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường “xoáy ốc” hay “vòng xoáy
trôn ốc”. Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời lặp
lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc
trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp
lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường “xoáy ốc” thể hiện sự lặp lại nhưng
cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do
mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả
đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật – giữa
mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho
sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với cái khẳng định ban đầu. Sự phủ
định lần thứ hai, sự vật mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối
lập với cái phủ định và trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên vẹn
như cái cũ mà trên cơ sở cao hơn, tốt hơn.
Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và
phủ định, là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng
định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước
đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn đã qua, vì vậy, nó có
nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ
phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật
lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới
ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật phủ định của
phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. B. Yêu cầu
Phủ định biện chứng phải có hai đặc điểm cơ bản là: tính khách quan và tính kế thừa. + Tính khách quan:
Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ
định nằm ngay trong bản thân sự vật. Nguyên nhân đó chính là kết quả
giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật.
Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển. Vì thế,
phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động,
phát triển của sự vật. Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ định
riêng tùy thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng.
Phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí chủ quan ủa con
người. Con người chỉ có thể tác động mà cho quá trình phủ định ấy diễn
ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật. + Tính kế thừa:
Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật nên nó
không thể là sự thủ tiêu, sự phá hủy hoàn toàn cái cũ.
Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng không thê từ hư vô.
Cái mới ra đời là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những
mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những
mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực.
Trong quá trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định những mặt tốt,
tích cực và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực.
Có thể nói, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó những giai
đoạn sau bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giai đoạn trước
và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với hiện thực.
Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn
là sự liên kết giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, quá khứ và
hiện tại. Phủ định biện chứng là một khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
12. Mối quan hệ giữa cái cung và cái riêng.
Cái chung chỉ tồn tại và biểu hiện thông qua cái riêng. Cái chung chỉ
tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của
mình, không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng, cái chung
tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông qua cái riêng.
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Không có cái riêng
nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung, sự vật, hiện
tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.
Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ
phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung
vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung
sâu sắc hơn cái riêng vì cái chung phản ánh những thuộc tính, những mối
liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái
chung là cái gắn liền với cái
, quy định phương hướng tồn tại và bản chất
phát triển của cái riêng.
Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình
phát triển của sự vật. Cái đơn nhất là phạm trù để chỉ những nét, những
mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà
không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Trong hiện thực
cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay, mà lúc đầu xuất hiện dưới
dạng cái đơn nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay
thế cái cũ, trở thành cái chung, cái phổ biến. Ngược lại cái cũ lúc đầu là
cái chung, cái phổ biến, nhưng về sau do không phù hợp với điều kiện
mới nên mất dần đi và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ
cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của quá trình cái mới ra đời
thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hóa từ cái chung thành cái đơn nhất
là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
13. Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, bản chất và hiện tượng có
mối quan hệ biện chứng như sau:
1. Bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan trong cuộc sống.
– Cả bản chất và hiện tượng đều có thực, tồn tại khách quan bất kể con người có
nhận thức được hay không. Lý do là vì:
+ Bất kỳ sự vật nào cũng được tạo nên từ những yếu tố nhất định. Các yếu tố ấy
tham gia vào những mối liên hệ qua lại, đan xen chằng chịt với nhau, trong đó
có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ này tạo
nên bản chất của sự vật.
+ Sự vật tồn tại khách quan. Mà những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định
lại ở bên trong sự vật, do đó, đương nhiên là chũng cũng tồn tại khách quan.
+ Hiện tượng chỉ là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài để chúng ta nhìn thấy,
nên hiện tượng cũng tồn tại khách quan.
2. Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
– Không những tồn tại khách quan, bản chất và hiện tượng còn có mối liên hệ
hữu cơ, gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau.
– Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.
Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ:
+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra qua hiện tượng. Bất kỳ bản chất nào cũng
được bộc lộ qua những hiện tượng tương ứng.
+ Hiện tượng bao giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. Bất kỳ hiện tượng nào
cũng là sự bộc lộ của bản chất ở mức độ nào đó nhiều hoặc ít.
Về căn bản, bản chất và hiện tượng phù hợp với nhau. Không có bản chất nào
tồn tại một cách thuần túy, không cần có hiện tượng. Ngược lại, cũng không
có hiện tượng nào lại không phải là sự biểu hiện của một bản chất nhất định.
– Bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ra những hiện tượng khác nhau.
Khi bản chất thay đổi thì hiện tượng tương ứng với nó cũng sẽ thay đổi theo.
Khi bản chất mất đi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất đi.
– Chính nhờ có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng, giữa cái quy định sự
vận động, phát triển của sự vật với những biểu hiện nghìn hình, vạn vẻ của nó
mà ta có thể tìm ra cái chung trong nhiều hiện tượng cá biệt, tìm ra quy luật phát
triển của những hiện tượng ấy.
3. Tuy thống nhất với nhau, bản chất và hiện tượng cũng có sự mâu thuẫn.
– Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất biện chứng.
Tức là, trong sự thống nhất ấy đã bao hàm sự khác biệt.
Nói cách khác, tuy bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, về căn bản là
phù hợp với nhau, nhưng chúng không bao giờ phù hợp với nhau hoàn toàn.
Sở dĩ như vậy là vì bản chất của sự vật bao giờ cũng được thể hiện ra thông qua
sự tương tác của sự vật ấy với những sự vật xung quanh. Các sự vật xung quanh
này trong quá trình tương tác đã ảnh hưởng đến hiện tượng, đưa vào
nội dung của hiện tượng những thay đổi nhất định.
Kết quả là, hiện tượng biểu hiện bản chất nhưng không phải là sự biểu hiện y nguyên bản chất.
– Sự không hoàn toàn trùng khớp khiến cho sự thống nhất giữa bản chất và hiện
tượng là một sự thống nhất mang tính mâu thuẫn.
Tính mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:
+ Bản chất phản ánh cái chung tất yếu, cái chung quyết định sự tồn tại và phát
triển của sự vật. Còn hiện tượng phản ánh cái cá biệt.
Vì vậy, cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ngoài bằng vô số hiện tượng khác
nhau tùy theo sự biến đổi của của điều kiện và hoàn cảnh.
Nội dung cụ thể của mỗi hiện tượng phụ thuộc không những vào bản chất, mà
còn vào hoàn cảnh cụ thể, trong đó bản chất được biểu hiện. Chính vì thế, hiện
tượng phong phú hơn bản chất. Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn hiện tượng.
+ Bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của hiện thực khách quan. Còn hiện
tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan ấy.
Các hiện tượng biểu hiện bản chất không phải dưới dạng y nguyên như bản
chất vốn có mà dưới hình thức đã được cải biến, nhiều khi xuyên tạc
nội dung thực sự của bản chất. Ví dụ: Nhúng một phần cái thước vào chậu nước,
ta thấy cái thước gấp khúc, trong khi thực tế cái thước vẫn thẳng.
– Bản chất tương đối ổn định, biến đổi chậm. Còn hiện tượng không ổn định, nó
luôn luôn trôi qua, biến đổi nhanh hơn so với bản chất.
Có tình hình đó là do nội dung của hiện tượng được quyết định không chỉ
bởi bản chất của sự vật, mà còn bởi những điều kiện tồn tại bên ngoài của nó,
bởi tác động qua lại của nó với các sự vật xung quanh.
Các điều kiện tồn tại bên ngoài đó và sự tác động qua lại của sự vật này với sự
vật khác lại thường xuyên biến đổi. Vì vậy, hiện tượng thường xuyên biến đổi,
trong khi bản chất vẫn giữa nguyên.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bản chất luôn giữ nguyên như cũ từ lúc ra
đời cho đến lúc mất đi. Mà bản chất cũng biến đổi, nhưng là biến đổi rất chậm so với hiện tượng.
14. Thực tiễn và vai trò của thực tiến đối với nhận thức. A.Thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải biến thế giới khách quan.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt động tinh
thần của con người đều là hoạt động thực tiễn.
- Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt đông bản năng của động vật.
- Có tính lịch sử - xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội và trong những
giai đoạn lịch sử nhất định. B.Vai trò
– Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở (điểm xuất phát) của nhận thức:
Thông qua hoạt động thực tiễn, con người nhận biết được cấu trúc; tính chất và các
mối quan hệ giữa các đối tượng để hình thành tri thức về đối tượng. Hoạt động
thực tiễn bổ sung và điều chỉnh những tri thức đã được khái quát. Thực tiễn đề ra
nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận
thức. Chính nhu cầu giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới buộc con người tác
động trực tiếp vào đối tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Chính sự tác động
đó đã làm cho các đối tượng bộc lộ những
, những mối liên hệ và các thuộc tính
quan hệ khác nhau giữa chúng đem lại cho con người những tri thức, giúp cho con
người nhận thức được các quy luật vận động và phát triển của thế giới. Trên cơ sở đó hình thành các khoa học. lý thuyết
Do đó, nếu XA RỜI THỰC TIỄN, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời
cơ sở hiện thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình. Cũng vì
thế, chủ thể nhận thức KHÔNG THỂ có được những tri thức đúng đắn và sâu sắc
về thế giới nến nó xa rời thực tiễn. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi
chúng ta phải luôn luôn quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu
việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dừa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng tổng kết thực tiễn. V công tác
iệc nghiên cứu lý luận phải liên hệ
với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh
chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa
vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh nghiệm chủ nghĩa. Như vậy,
nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận phải là nguyên tắc cơ
bản trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; lý luận mà không có thực tiễn
làm cơ sở và tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của nó thì đó chỉ là lý luận suông,
ngược lại, thực tiễn mà không có lý luận khoa học, cách mạng soi sáng thì nhất
định sẽ biến thành thực tiễn mù quáng.
– Thực tiễn là động lực của nhận thức:
Hoạt động thực tiễn góp phần
các giác quan, tạo ra khả năng phản ánh hoàn thiện
nhạy bén, chính xác, nhanh hơn; tạo ra các công cụ, phương tiện để tăng năng lực
phản ánh của con người đối với tự nhiên. Những tri thức được áp dụng vào thực
tiễn đem lại động lực kích thích quá trình nhận thức tiếp theo.
+ Thực tiễn sản xuất vật chất và cải biến thế giới đặt ra yêu cầu buộc con người
phải nhận thức về thế giới.
+ Thực tiễn làm cho các giác quan, tư duy của con người phát triển và hoàn thiện,
từ đó giúp con người nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về thế giới.
– Thực tiễn là mục đích của nhận thức:
Mục đích cuối cùng của nhận thức là giúp con người hoạt động thực tiễn nhằm cải
biến thế giới. Nhấn mạnh vai trò này của thực tiễn Lênin đã cho rằng: “Quan điểm
về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Nhận thức không chỉ thoả mãn nhu cầu hiểu biết mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao
năng lực hoạt động để đưa lại hiệu quả cao hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của con người. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nhờ đó, thực tiễn thúc đẩy nhận
thức vận động, phát triển theo. Thực tiễn đặt ra những vấn đề mà lý luận cần giải quyết.
Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức
mạnh của mình, sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. Bằng thực tiễn mà
kiểm chứng nhận thức đúng hay sai, khi nhận thức đúng thì nó phục vụ thực tiễn
phát triển và ngược lại
– Thực tiễn là tiêu chuẩn tiêu chuẩn của chân lý:
Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó
phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. Như vậy, thực tiễn là thước đo chính xác
nhất để kiểm tra tính đúng đắn của tri thức, xác nhận tri thức đó có phải là chân lý
hay không. Mác đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người
có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý
luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.
15. Các giai đoạn cơ bản của quá trình nhận thức.
Quá trình nhận thức có hai giai đoạn:
Giai đoạn nhận thức cảm tính (nhận thức trực tiếp bằng trực quan sinh động) : gồm ba cấp độ
Cảm giác: là hình thức đầu tiên trong nhận thức của con người, là hình ảnh một
vài thuộc tính riêng lẻ tác động vào giác quan của con người (cảm giác là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan).
Tri giác: là hình ảnh tương đối toàn vẹn về sự vật, là sự tổng hợp cảm giác nhưng
có hệ thống, đầy đủ hơn, phong phú hơn.
Biểu tượng: là hình thức phản ánh cao nhất, là bước nhảy vọt trong nhận thức
cảm tính, có tính gián tiếp, là hình ảnh được tái tạo, lưu giữ khi đối tượng khánh
thể không còn tác động trực tiếp vào giác quan chủ thể.
Khả năng tác động trực tiếp của con người vào đối tượng nhận thức có hạn vì thế
con người cần giai đoạn nhận thức thứ hai.
Giai đoạn nhận thức lý tính (nhận thức gián tiếp bằng tư duy trừu tượng): là hình
thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những đặc tính và bản chất của sự vật, gồm ba cấp độ
Phán đoán: là hình thức của tư duy liên kết các khái niệm với nhau để khẳng định
hoặc phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào đó của đối tượng.
Suy luận: là hình thức của tư duy liên kết các phán đoán lại với nhau để rút ra tri
thức mới. Đây là hình thức cao nhất trong quá trình nhận thức của con người.
Mối quan hệ của hai giai đoạn: Giai đoạn nhận thức cảm tính là cơ sở cung cấp
những thông tin, tri thức cho quá trình nhận thức lý tính làm tiền đề còn giai đoạn
nhận thức lý tính làm phong phú, sâu sắc thêm cho giai đoạn nhận thức cảm tính.