








Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân …..0O0….. BÀI TẬP LỚN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài số 1: Quan niệm về vật chất và quan niệm về ý thức của Triết học
Mác – Lênin là quan niệm đúng đắn nhất và toàn diện nhất trong lịch sử
phát triển của chủ nghĩa duy vật.
Họ, tên SV: Trịnh Văn Hoàng Mã SV: 11222515 Lớp: Marketing 64D Khóa: K64 GĐ: D- 206 Hà Nội - 11/2022 Mục lục lOMoAR cPSD| 44985297 Lời nói đầu
Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí con
người trong thế giới đó, là khoa học về những quy luật vận động, phát triển chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, là khoa học của mọi khoa học.
Trong lịch sử triết học 2700 năm qua, từ phương Đông vùng châu Á tới
phương Tây của xã hội Hi Lạp cổ đại, từ cổ đại đến hiện nay có nhiều định nghĩa
khác nhau về triết học. Mỗi định nghĩa đó đều có giá trị chân bí riêng.
Triết học ra đời dựa trên nhu cầu hiểu biết thế giới đến mức đầy đủ nhất và
hướng đến xây dựng một phương pháp luận đúng đắn cho việc nhận thức và cải tạo
thế giới, nhận thức chính mình. Nhu cầu đó dựa trên hai điều kiện tiên quyết là sự
tích lũy tri thức về nhiều lĩnh vực và sự xuất hiện của các tầng lớp tri thức trong xã hội.
Triết học Mác – Lenin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên,
xã hội và tư duy – thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận
thức và cải tạo thế giới.
Mặc dù đã cố gắng tìm tòi, tuy nhiên do mới tiếp xúc với triết học, kiến thức
còn nhiều hạn chế nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy
giáo bộ môn góp ý bổ sung để em có thể hoàn thiện thêm kiến thức, hiểu biết để rút
kinh nghiệm cho những bài làm tiếp theo.
Em xin chân thành cảm ơn !
1. Quan niệm về vật chất và ý thức của Triết học Mác – Lênin 1.1.
Quan niệm về vật chất của Triết học Mác – Lênin
a) Quan niệm về vật chất của C. Mác và Ăngghen
Vật chất là phạm trù cơ bản và nền tảng của chủ nghĩa duy vật nói chung, chủ
nghĩa duy vật biên chứng nói riêng. Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy ̣
tâm, thuyết bất khả tri và phê phán chủ nghĩa duy vật siêu hình, máy móc, C. Mác
và Ph. Ăngghen đã đưa ra những tư tưởng rất quan trọng về vật chất.
Theo Ph. Ăngghen, để có một quan niệm đúng đắn về vật chất, cần phải có sự
phân biệt rõ ràng giữa vật chất với tính cách là một phạm trù của triết học với bản
thân các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất. Vật chất, với tính cách là vật chất, lOMoAR cPSD| 44985297
một sáng tạo thuần túy của tư duy, và là một trừu tượng thuần túy, không có sự tồn tại cảm tính.
Ph. Ăngghen cũng chỉ ra rằng, bản thân phạm trù vật chất cũng không phải là
sự sáng tạo tùy tiện của tư duy con người, mà trái lại, là kết quả của con đường
trừu tượng hóa của tư duy con người về các sự vật, hiện tượng có thể cảm biết
được bằng các giác quan. Các sự vật, hiện tượng của thế giới, dù rất phong phú ,
muôn vẻ nhưng chúng vẫn có một đặc tính chung, thống nhất đó là tính vật chất –
tính tồn tại độc lập không lệ thuộc vào ý thức. Để bao quát được tất cả các sự vật,
hiện tượng cụ thể, thì tư duy cần phải nắm lấy đặc tính chung này và đưa nó vào phạm trù vật chất.
Đặc biệt, Ph. Ăngghen khẳng định, xét về thực chất, nội hàm của phạm trù vật
chất chẳng qua chỉ là sự tóm tắt, tập hợp theo những thuộc tính chung của tính
phong phú, muôn vẻ nhưng có thể cảm biết được bằng các giác quan của các sự
vật, hiện tượng của thế giới vật chất.
C. Mác không đưa ra một định nghĩa về vật chất, nhưng đã vận dụng đúng đắn
quan điểm duy vật biện chứng về vật chất trong phân tích những vấn đề chính trị -
xã hội, đặc biệt là trong phân tích quá trình sản xuất vật chất của xã hội và mở rộng
quan điểm duy vật biện chứng về vật chất để phân tích tồn tại xã hội và mối quan
hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Như vậy, vật chất trong xã hội chính là tồn tại của chính bản thân con người
cùng với những điều kiện sinh hoạt vật chất của con người, hoạt động vật chất và
những quan hệ vật chất giữa người với người.
b) Quan niệm về vật chất của Lênin
Để có thể đưa ra một định nghĩa đầy đủ về vật chất, V.I. Lênin đã tiến hành
tổng kết toàn diện những thành tựu mới nhất, những phát minh quan trọng của
khoa học thời kì đó như:
• Năm 1895, Rơnghen (1842 - 1923) phát hiện ra tia X.
• Năm 1896, Beccoren (1852 - 1908) phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
• Năm 1897, Thomson (1856 - 1940) phát hiện ra điện tử.
• Năm 1901, Kaufman phát hiện ra khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng.
Đây đều là những phát minh rất quan trọng đem lại cho con người những hiểu
biết mới, sâu sắc về cấu trúc của thế giới vật chất. Tuy nhiên, chúng lại bị các nhà lOMoAR cPSD| 44985297
duy tâm lợi dụng để xuyên tạc chủ nghĩa duy vật. Lênin đã bác bỏ quan điểm của
các nhà duy tâm khi đó như sau: “ Cái mất đi không phải là vật chất, mà chỉ là giới
hạn của nhận thức của con người về tổ chức và kết cấu của nó mà thôi.”
Tổng hợp từ những thành tựu khoa học, từ quan điểm về vật chất trước đó của
C. Mác và Ph. Ăngghen, từ việc phê phán chủ nghĩa duy tâm, Lênin đã rút ra một
định nghĩa toàn diện, sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất. Lênin phát biểu nó
như sau: “Vât chất là phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách quan, được ̣
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuôc vào cảm giác”. Nói cách khác, với tư cácḥ
là phạm trù triết học, khái niệm vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan; được
đem lại cho con người trong cảm giác; được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh;
và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
1.2. Quan niệm về ý thức của Triết học Mác – Lênin
1.2.1. Nguồn gốc của ý thức
Nguồn gốc của ý thức bao gồm nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
a) Nguồn gốc tự nhiên của ý thức
Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não con
người. Bộ não là khí quan vật chất của ý thức còn ý thức là chức năng của bộ não.
Mối quan hệ giữa bộ óc người hoạt động bình thường và ý thức không thể tách rời
bộ óc. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động ý thức thần
kinh và là một mặt của hoạt động sinh lý thần.
Nội dung của ý thức đến từ sự phản ánh. Phản ánh là sự tái tạo những đặc
điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại
lẫn nhau. Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất, được biểu hiện trong mối liên
hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất.
Cùng với sự tiến hóa của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của nó cũng
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Giới tự nhiên vô sinh có kết
cấu vật chất đơn giản, do vậy trình độ phản ánh đặc trưng của chúng là phản ánh
vật lý, hóa học. Đó là hình thức phản ánh mang tính thụ động, chưa có định hướng,
lựa chọn. Giới tự nhiên hữu sinh ra đời với kết cấu phức tạp hơn, do đó thuộc tính
cũng phát triển lên một trình độ mới. Đó là trình độ phản ánh sinh học có tính định
hướng, lựa chọn, giúp cơ thể sống thích nghi và tồn tại. lOMoAR cPSD| 44985297
Bộ não người có kết cấu vô cùng phức tạp, gồm 15-17 tỉ tế bào thần kinh, là
kết quả của sự tiến hóa lâu dài của giới sinh vật. Bán cầu não là nơi chứa chất xám
cần thiết cho sự sống cũng như khả năng sử dụng ngôn ngữ, biết đọc và biết viết
của con người. Bộ não là tiền đề vật chất đầu tiên cho sự ra đời của ý thức.
Như vậy, sự hình thành của bộ óc người và hoạt động của bộ óc đó cùng với
mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b) Nguồn gốc xã hội của ý thức
Hoạt động thực tiễn của con người là nguồn gốc trực tiếp quyết định sự ra đời
của ý thức. Để tồn tại, con người phải tạo ra vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của
mình. Hoạt động lao động sáng tạo đó đã tạo ra những động lực xã hội trực tiếp
thúc đẩy sự ra đời của ý thức mà nổi bật nhất là làm phát triển và hoàn thiện dần
cấu trúc của bộ não con người. Không những thế, lao động sản xuất còn là cơ sở
cho sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ.
Đối mặt với nhu cầu giao tiếp, trao đổi thông tin trong sinh hoạt và sản xuất,
bộ máy phát âm, trung tâm ngôn ngữ trong bộ óc con người dần được hình thành
và hoàn thiện dần theo thời gian. Ngôn ngữ vừa là phương tiện tư duy, vừa là
phương tiện giao tiếp của con người.
Lao động và ngôn ngữ là hai yếu tố kích thích chủ yếu biến bộ não con vật
thành bộ não con người, phản ánh tâm lí động vật thành phản ánh ý thức.
1.2.2. Bản chất và kết cấu của ý thức
a) Bản chất của ý thức
Về bản chất, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là quá trình
phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan của bộ óc con người. Nội dung
của ý thức phụ thuộc vào thực tại khách quan, do thực tại khách quan quy định.
Tuy nhiên, nó lại là hình ảnh chủ quan, hình ảnh tinh thần của sự vật chứ không phải là sự vật.
Ý thức là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo. Ý thức năng động ở việc ý
thức không phải là bản sao đơn giản, thụ động mà là sự sáng tạo lại hiện thực
khách quan theo nhu cầu của thực tiễn. Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện khi lOMoAR cPSD| 44985297
dựa trên những cái đã có, ý thức có thể sáng tạo tri thức mới về sự vật, tiên đoán,
dự báo một điều sẽ xảy ra trong tương lai,… Tính sáng tạo này không phải là ý
thức sinh ra vật chất. Sự sáng tạo này theo quy luật và nằm trong khuôn khổ của sự phản ánh.
Không những thế, ý thức còn mang bản chất xã hội. Nó gắn liền với hoạt động
thực tiễn của con người, chịu sự chi phối của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội.
b) Kết cấu của ý thức
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có liên hệ với nhau.
Về mặt cấu trúc, ý thức bao gồm tri thức, tình cảm và ý chí. Trong đó, tri thức
là nhân tố cơ bản cốt lõi nhất. Tri thức là sự hiểu biết của con người về thế giới
xung quanh. Thông qua quá trình hình thành và phát triển ý thức, con người tìm
kiếm và tích lũy tri thức về thế giới. Tình cảm là sự cảm động của con người trong
quan hệ của mình với thực tại xung quanh và với chính con người. Cảm xúc tham
gia vào mọi hoạt động của con người và giữ vị trí quan trọng trong việc điều chỉnh
hoạt động của con người. Ý chí là khả năng huy động sức mạnh của bản thân để
vượt qua những khó khăn trong quá trình thực hiện mục đích. Ý chí đóng vai trò
như là mặt năng động của con người và điều chỉnh hành vi con người một cách tự giác.
Về mặt cấp độ, dựa theo chiều sâu của nội tâm con người, ý thức bao gồm tự
ý thức, tiềm thức và vô thức. Tất cả các yếu tố của ý thức có mối quan hệ biện
chứng lẫn nhau, không nên cường điệu hay tuyệt đối hóa quá mức một bộ phận bất kì của ý thức.
2. Quan niệm về vật chất và ý thức của Triết học Mác – Lênin là quan
niệm đúng đắn nhất và toàn diện nhất trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa duy vật
Trước khi Triết học Mác – Lênin ra đời, quan niệm về vật chất là vô cùng
phong phú và đa dạng, chưa có một định nghĩa chung nhất, cụ thể và toàn diện
nhất. Thí dụ trong trường phái Lokayata, vật chất bao gồm 4 nguyên tố là đất,
nước, lửa và không khí. Trong Triết học Trung Quốc cổ đại, quan niệm về vật chất
được thể hiện qua Thuyết Ngũ hành (Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ). Còn đối
với nhà triết học Talet (624 – 547 TCN), ông cho rằng cơ sở của thế giới là nước, lOMoAR cPSD| 44985297
mọi thứ trên thế giới đều tạo nên từ nước, coi thế giới là “một hòn đảo khổng lồ
lênh đênh giữa đại dương vô tận”,…
Thời cận đại, các nhà khoa học cho rằng nguyên tử là thành phần bé nhất,
không thể phân chia, cắt nhỏ ra được nữa, đồng nhất vật chất với nguyên tử, coi
khối lượng là thuộc tính phổ biến của các vật thể. Theo quan niệm về vật chất thời
kì đó, khối lượng là bất biến, không phụ thuộc vào vận động của vật thể. Các triết
gia khi đó quy mọi vận động của vật chất về một dạng đơn giản nhất là vận động
cơ học. Đó là quan niệm siêu hình về vật chất, đồng nhất vật chất với một dạng cụ
thể. Điều này có ý nghĩa lớn trong việc chống lại quan điểm duy tâm, tôn giáo,
khẳng định tính vật chất của thế giới, tuy nhiên lại không đưa ra được sự khái quát
triết học trong quan niệm về thế giới vật chất.
Đến thời hiện đại, những khám phá và phát minh khoa học quan trọng đã đem
lại cho con người những hiểu biết mới, sâu sắc hơn về cấu trúc của thế giới, làm
thay đổi đi quan niệm về phạm trù vật chất, đảo lộn những quan niệm cũ, bác bỏ
những quan niệm duy vật siêu hình về vật chất. Vì thế đã tạo ra một cuộc khủng
hoảng về thế giới quan của các nhà triết học và khoa học. Chúng còn bị các nhà
duy tâm lợi dụng để xuyên tạc và đả phá chủ nghĩa duy vật. Họ cho rằng nếu
nguyên tử có thể phân chia, chúng cũng có thể bị “mất đi”. Do vậy, vật chất cũng
có thể bị “mất đi”, bị “tiêu tan”. Điều này vô tình đi ngược lại với nền tảng của chủ
nghĩa duy vật, trực tiếp cho rằng chủ nghĩa duy vật đã dần mất đi vị thế của mình,
dần dần nhường chỗ cho chủ nghĩa duy tâm.
Đứng trước tình hình đó, Lênin đã nhận ra những mặt hạn chế của quan điểm
trên và bác bỏ nó rằng: “Cái mất đi không phải là vật chất, mà chỉ là giới hạn của
nhận thức của con người về tổ chức và kết cấu của nó mà thôi”. Ông còn định
nghĩa lại phạm trù vật chất một cách toàn diện hơn, khoa học hơn và sâu sắc hơn.
Thông thường, khi thiết lập định nghĩa của một đối tượng nào đó, người ta thường
quy đối tượng đó vào một khái niệm rộng lớn hơn và chỉ ra các đặc điểm, tính chất
của nó, ví dụ như việc ta có thể định nghĩa hình vuông là hình chữ nhật có các cạnh
bằng nhau. Lênin không định nghĩa vật chất theo cách đó, ông coi vật chất là một
phạm trù lớn nhất, bao quát nhất, đặt vật chất đối lập với ý thức – một phạm trù
rộng lớn ngang bằng với phạm trù vật chất. Có nghĩa là chúng ta không thể hiểu và
định nghĩa vật chất như một khái niệm thường dùng của các đối tượng khoa học
thông thường hoặc các sự vật, sự việc diễn ra hàng ngày.
Quan niệm về vật chất của Lênin đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong
lịch sử triết học. Nó góp phần bác bỏ thuyết bất khả tri, khắc phục được tính chất lOMoAR cPSD| 44985297
siêu hình, trực quan của các quan niệm trước kia về vật chất, chống lại những hạn
chế trong quan điểm của trường phái duy tâm về vật chất, tạo nền móng, cơ sở lý
luận để khắc phục quan điểm duy tâm về xã hội của chủ nghĩa duy vật trước Mác,
khuyến khích các nhà khoa học tìm hiểu sâu hơn về bản chất, cấu tạo của thế giới,
góp phần sáng tạo ra một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng. lOMoAR cPSD| 44985297