Quy định của pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm - Law | Học viện Tòa án
Nghề công chứng là một nghề đặc thù, bởi hoạt động công chứng bảo đảm tínhan toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch,qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổchức. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
mục lụ PHẦN I. MỞ ĐẦU 1 PHẦN II. NỘI DUNG 2
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên 2
1.1.1. Khái quát về nghề công chứng và rủi ro của nghề công chứng 2
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên 3
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên 4
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng
viên ở Việt Nam hiện nay 4
2.2. Thực trạng quy định về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên 7
2.1.1. Thực trạng quy định về chủ thể và điều kiện xác lập hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên 7
2.1.2. Thực trạng quy định về kí kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên 8
2.1.3. Thực trạng quy định về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp của công chứng viên 12
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên 13
3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên 14
3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
đối với công chứng viên 16
PHẦN III. KẾT LUẬN 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 19 Phần I. MỞ ĐẦU
Nghề công chứng là một nghề đặc thù, bởi hoạt động công chứng bảo đảm tính
an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch,
qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức. Tuy nhiên, nghề công chứng cũng đối mặt với nhiều rủi ro, trực tiếp tiếp xúc
những rủi ro đó chính là công chứng viên. Chính vì công chứng viên có khả năng gặp
rủi ro cao, thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ bồi thường thiệt hại trong thực tế
nên nhu cầu bảo vệ và chuyển giao rủi ro rất lớn. Cần có công cụ, cách thức để san sẻ,
chuyển giao rủi ro cho công chứng viên khi rủi ro đó phát sinh, một trong những cách
thức để có thể chuyển giao rủi ro một cách hiệu quả đó là phải tham gia bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên.
Ở Việt Nam, pháp luật đã quy định Văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình từ năm 2006 đến
nay. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, với mong muốn tìm hiểu
sâu hơn về quy định pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công
chứng viên, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Quy định của pháp luật về bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của Công chứng viên - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật” làm đề tài báo cáo thi kết thúc môn học “Nghề công chứng và công chứng
viên” theo Chương trình Đào tạo nghề công chứng đang áp dụng cho Lớp Đào tạo
nghề công chứng Khóa 25.1 của Học viện Tư pháp tại Thành phố Hồ chí Minh (Lớp
học thứ bảy và chủ nhật). 1 Phần II. NỘI DUNG
Chương 1. LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM NGHỀ
NGHIỆP ĐỐI VỚI CÔNG CHỨNG VIÊN
1.1. Những vấn đề lý luận về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên
1.1.1. Khái quát về nghề công chứng và rủi ro của nghề công chứng
1.1.1.1. Khái quát về nghề công chứng
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, công chứng là việc công chứng viên của một
tổ chức hành nghề công chứng “chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng,
giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã
hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá
nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng1”.
Thực tế hiện nay cho thấy, nghề công chứng không chỉ dành riêng cho các nhân
viên nhà nước (công chức) mà còn là một nghề nghiệp đặc thù mà một cá nhân không
phải là công chức có thể lựa chọn, nếu có đủ các điều kiện để được bổ nhiệm làm công
chứng viên theo quy định của pháp luật.
Tại Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ Tư pháp
ban hành bản Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng (sau đây gọi tắt là Thông tư số
11/2012/TT-BTP), viết: Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công chứng
bảo đảm tính an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp
đồng, giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Vậy, trong quá trình hành nghề công chứng, công chứng viên phải đối mặt với
những rủi ro nào trong quá trình hành nghề công chứng và làm thế nào để ngăn ngừa,
giảm thiểu và bảo đảm quyền lợi cho công chứng viên nếu các rủi ro đó xảy ra?
1.1.1.2. Các rủi ro và nguyên nhân dẫn đến rủi ro đối với công chứng
viên trong quá trình hành nghề công chứng
Thứ nhất: Các rủi ro xuất phát từ nguyên nhân chủ quan do năng lực, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ yếu kém hoặc do sự bất cẩn của công chứng viên trong quá
trình hành nghề công chứng.
Thứ hai: Các rủi ro của công chứng viên trong hoạt động nghề nghiệp xuất phát
từ nguyên nhân khách quan (có liên quan trực tiếp đến khách hàng hoặc từ bên thứ ba).
Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp công chứng viên gặp rủi ro nghề nghiệp do
nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng hoặc bên thứ ba như:
“(i) Giả mạo người yêu cầu công chứng;
(ii) Cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật; sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo hoặc
bị tẩy xóa, sửa chữa trái pháp luật để yêu cầu công chứng;
1 Xem khoản 1 Điều 2 Luật Công Chứng năm 2014. 2
(iii) Người làm chứng, người phiên dịch có hành vi gian dối, không trung thực”.
Việc khách hàng hoặc bên thứ ba thực hiện các hành vi trên khiến cho việc công
chứng của công chứng viên bị sai lệch so với sự thật khách quan của sự kiện pháp lý
được công chứng. Hiện nay, vấn nạn gian dối, lừa đảo, giả mạo giấy tờ, giả mạo người
yêu cầu công chứng có chiều hướng gia tăng với mức độ ngày càng tinh vi, phức tạp.
Nếu công chứng viên không có chuyên môn nghiệp vụ vững, không thận trọng trong
công việc thì có thể sẽ gặp những rủi ro mà nguyên nhân xuất phát từ những toan tính
của khách hàng hoặc bên thứ ba.
1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên
Thứ nhất, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là loại hình
bảo hiểm bắt buộc. Ở Việt Nam, theo quy định của Luật Công chứng 2014 thì “bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là loại hình bảo hiểm bắt buộc.
Việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên phải được duy trì
trong suốt thời gian hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng”2.
Thứ hai, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên có đối tượng là
trách nhiệm dân sự của công chứng viên đối với bên thứ ba (bên bị thiệt hại) phát sinh
do hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên gây ra. Đặc điểm này cho thấy bản
chất của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên là loại hình bảo
hiểm trách nhiệm dân sự. Vì thế, toàn bộ quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng bảo
hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm với tổ chức hành nghề công chứng đều phải tuân thủ
các quy định về bảo hiểm trách nhiệm dân sự, theo đó các bên phải thỏa thuận rõ
những loại trách nhiệm dân sự nào của công chứng viên đối với bên thứ ba thì mới là
đối tượng được bảo hiểm và nếu sự kiện bảo hiểm xảy ra thì bên bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường.
Thứ ba, bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên luôn có điều
khoản thỏa thuận giữa các bên về giới hạn bảo hiểm. Điều này xuất phát từ tính đặc
thù trong hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên là hoạt động có nguy cơ gây ra
tổn thất rất lớn cho bên thứ ba nên doanh nghiệp bảo hiểm thường thỏa thuận một điều
khoản có tính cách bảo đảm an toàn cho quyền lợi của mình – đó là điều khoản về giới
hạn bảo hiểm. Điều khoản này có nội dung cơ bản là bên bảo hiểm cam kết chỉ chấp
nhận bảo hiểm trong một giới hạn nhất định về các tổn thất phát sinh cho người thứ ba
do hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên gây ra. Các tổn thất vượt quá giới hạn
này thì bên bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường, mặc dù chúng có thể phát
sinh do chính hoạt động nghề nghiệp của công chứng viên.
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
Pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên bao gồm
một số quy phạm pháp luật được quy định trong các đạo luật có liên quan như: Luật
Kinh doanh bảo hiểm 2022 (Luật số 08/2022/QH15 – sau đây gọi là Luật Kinh doanh
bảo hiểm) , Luật Công chứng 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2018 – sau đây gọi là Luật
2 Xem khoản 1 Điều 37 Luật Công chứng 2014. 3
Công chứng), Bộ luật Dân sự 2015 (Luật số 91/2015/QH13 – sau đây gọi là Bộ luật
Dân sự) cùng một số quy phạm pháp luật quy định trong các văn bản hướng dẫn thi
hành như Nghị định số 29/2015/NĐ – CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Công chứng; Nghị định số 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành
Luật Kinh doanh bảo hiểm.
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TRÁCH
NHIỆM NGHỀ NGHIỆP ĐỐI VỚI CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng
viên ở Việt Nam hiện nay
*Căn cứ theo Nghị định Số: 29/2015/NĐ-CP: Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Công chứng. Cụ thể, tại Chương III : Bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên, tại:
“Điều 19. Nguyên tắc tham gia bảo hiểm
1. Tổ chức hành nghề công chứng trực tiếp mua hoặc có thể ủy quyền cho tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho công chứng viên của tổ chức mình.
2. Thời điểm mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên được
thực hiện chậm nhất là 60 ngày, kể từ ngày công chứng viên của tổ chức hành nghề
công chứng được đăng ký hành nghề.
3. Kinh phí mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của Phòng
công chứng được trích từ quỹ phát triển sự nghiệp hoặc từ nguồn kinh phí hợp pháp
khác theo quy định của pháp luật.
Điều 20. Phạm vi bảo hiểm
1. Phạm vi bảo hiểm bao gồm thiệt hại về vật chất của người tham gia ký kết hợp
đồng, giao dịch hoặc của cá nhân, tổ chức khác có liên quan trực tiếp đến hợp đồng,
giao dịch đã được công chứng mà những thiệt hại gây ra do lỗi của công chứng viên
trong thời hạn bảo hiểm.
2. Tổ chức hành nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công
chứng viên trong trường hợp được tổ chức hành nghề công chứng ủy quyền có thể
thỏa thuận với doanh nghiệp bảo hiểm về phạm vi bảo hiểm rộng hơn phạm vi bảo
hiểm quy định tại Khoản 1 Điều này.
Điều 21. Điều kiện bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm chi trả bảo hiểm và bồi thường thiệt hại khi có đủ các điều kiện sau:
1. Thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm quy định tại Điều 20 của Nghị định này.
2. Không thuộc các trường hợp sau đây:
a) Công chứng viên thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung
của hợp đồng, giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; 4
xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch
giả tạo hoặc hành vi gian dối khác;
b) Công chứng viên công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch có liên quan đến tài
sản, lợi ích của bản thân mình hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng;
cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con
nuôi, con dâu, con rể; ông, bà; anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng;
cháu là con của con đẻ, con nuôi;
c) Công chứng viên cấu kết, thông đồng với người yêu cầu công chứng và những
người có liên quan làm sai lệch nội dung của văn bản công chứng, hồ sơ công chứng;
d) Trường hợp khác theo thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức hành
nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên trong
trường hợp được tổ chức hành nghề công chứng ủy quyền.
Điều 22. Phí bảo hiểm
1. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà tổ chức hành nghề công chứng phải đóng cho
doanh nghiệp bảo hiểm khi mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng
viên thuộc tổ chức mình.
2. Doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức hành nghề công chứng hoặc tổ chức xã hội -
nghề nghiệp của công chứng viên trong trường hợp được tổ chức hành nghề công
chứng ủy quyền thỏa thuận mức phí bảo hiểm, nhưng không được thấp hơn 03 (ba)
triệu đồng một năm cho một công chứng viên.”
*Căn cứ theo Luật Công chứng 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2018), tại:
“Điều 33. Nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng
5. Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình
theo quy định tại Điều 37 của Luật này và bồi thường thiệt hại theo quy định tại
Điều 38 của Luật này.”
- Đây là một nghĩa vụ được thừa kế từ Luật Công chứng năm 20063, theo quy định
của Luật Công chứng năm 2014 thì mọi tổ chức hành nghề công chứng đều phải
mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức của mình,
không phân biệt hình thức hành nghề của công chứng viên.
“Điều 37. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
1. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là loại hình bảo hiểm bắt
buộc. Việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên phải được
duy trì trong suốt thời gian hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng.
2. Tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp cho công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình.
3 Xem thêm khoản 7 Điều 32 Luật Công chứng năm 2006. 5
Chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày mua bảo hiểm hoặc kể từ ngày thay đổi,
gia hạn hợp đồng bảo hiểm, tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm thông
báo và gửi bản sao hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng thay đổi, gia hạn hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên cho Sở Tư pháp.
3. Chính phủ quy định chi tiết điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo
hiểm tối thiểu đối với bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên.
Điều 38. Bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng
1. Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công
chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người
phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.
2. Công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại
phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản
tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp
không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.”
*Căn cứ theo Nghị định Số: 82/2020/NĐ-CP: Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án
dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Cụ thể, tại Mục 3. Hành vi vi phạm hành
chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trong hoạt động công chứng, tại:
“Điều 16. Hành vi vi phạm quy định về hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
m) Không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp liên tục cho công chứng viên của tổ chức mình;
2. Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
l) Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp không bảo đảm mức phí tối thiểu hoặc
không đúng thời hạn hoặc không đầy đủ cho tất cả công chứng viên của tổ chức mình theo quy định;
3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
b) Không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình;” 6
2.2. Thực trạng quy định về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
Hợp đồng một phần rất quan trọng của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp công
chứng viên. Cấu trúc của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
của công chứng viên bao gồm ba bộ phận là:
(i) Các quy định pháp luật về chủ thể và điều kiện xác lập hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên;
(ii) Các quy định về kí kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên,
(iii) Các quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên.
2.1.1. Thực trạng quy định về chủ thể và điều kiện xác lập hợp đồng bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
Chủ thể giao kết hợp đồng bảo hiểm bao gồm:
- Bên mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là tổ chức
hành nghề công chứng . Theo 4
quy định của Luật công chứng, tổ chức hành nghề công
chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng, các chủ thể này đều
phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi khi tham gia hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên.
Trong pháp luật thực định của Việt Nam hiện nay, tại Khoản 1 Điều 19 Nghị định
số 29/2015/NĐ-CP “Tổ chức hành nghề công chứng trực tiếp mua hoặc có thể ủy
quyền cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên mua bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình”. Theo quy định này, ngoài
tổ chức hành nghề công chứng thì chủ thể tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên còn có thể là tổ chức xã hội nghề nghiệp của
công chứng viên nếu tổ chức này được ủy quyền hợp lệ bởi tổ chức hành nghề công
chứng. Tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên là một tổ chức có tư cách
pháp nhân nên có đầy đủ các điều kiện để trở thành chủ thể tham gia vào quan hệ hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên.
- Bên bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công
chứng viên chính là doanh nghiệp bảo hiểm. Với tư cách là một pháp nhân thương
mại, doanh nghiệp bảo hiểm cũng phải đáp ứng điều kiện về năng lực pháp luật và
năng lực hành vi thì mới có thể tham gia giao kết hợp đồng bảo hiểm. Năng lực pháp
luật của doanh nghiệp bảo hiểm là khả năng được pháp luật ghi nhận các quyền và
nghĩa vụ pháp lý nhất định. Giống như mọi pháp nhân thương mại, năng lực pháp luật
của doanh nghiệp bảo hiểm cũng hình thành khi doanh nghiệp được thành lập và chấm
dứt khi doanh nghiệp bảo hiểm chấm dứt hoạt động. Năng lực hành vi của bên bảo
hiểm thực chất được thể hiện thông qua năng lực hành vi của người đại diện hợp pháp
của doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền.
4 Xem khoản 5 Điều 33; khoản 2 Điều 37 Luật Công chứng 2014. 7
2.1.2. Thực trạng quy định về kí kết, thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp của công chứng viên
Giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là
giai đoạn tạo lập hợp đồng và từ đó làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên tham
gia hợp đồng. Đây là cơ sở, tiền đề để các bên thực hiện các quyền, nghĩa vụ đó trong
thời gian hợp đồng có hiệu lực. Phần phân tích dưới đây sẽ làm rõ hơn thực trạng quy
định về ký kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên.
2.1.2.1. Thực trạng quy định về kí kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên
Để đảm bảo việc giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công
chứng viên được thiết lập đúng ý chí đích thực của các bên, pháp luật quy định một số
nguyên tắc chung của việc giao kết hợp đồng như: nguyên tắc tự do ý chí, thống nhất ý
chí giữa các bên giao kết hợp đồng; nguyên tắc bình đẳng và các bên cùng có lợi. Qua
khảo sát thực trạng pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng
viên cho thấy, các đạo luật chuyên ngành như Luật kinh doanh bảo hiểm hay Luật
Công chứng đều không có quy phạm pháp luật nào quy định về quy trình, thủ tục giao
kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên. Tuy nhiên, theo
quy định chung của Bộ luật dân sự 2015, việc giao kết hợp đồng dân sự nói chung và
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên nói riêng sẽ được
thực hiện theo quy trình, thủ tục chung như sau:
Bước 1: Đề nghị giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công
chứng viên. Hiện nay, do pháp luật không quy định rõ bên nào sẽ đưa ra đề nghị giao
kết hợp đồng bảo hiểm nên về nguyên tắc, bên đưa ra đề nghị có thể là bên bảo hiểm
(doanh nghiệp bảo hiểm) hoặc bên mua bảo hiểm (tổ chức hành nghề công chứng hoặc
tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên khi được ủy quyền). Tuy nhiên, cho
dù là bên nào đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng thì nội dung của bản đề nghị hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên cũng phải bao gồm các vấn đề chính sau đây:
- Đối tượng đề nghị bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của công chứng viên đối với
bên thứ ba phát sinh trong quá trình hành nghề công chứng;
- Số tiền bảo hiểm; mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm;
- Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm;
- Sự kiện bảo hiểm; điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm;
- Thời hạn bảo hiểm; thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc trả tiền bồi thường.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, bản đề nghị giao kết hợp đồng trên có
hiệu lực theo sự ấn định của bên đưa ra đề nghị hoặc nếu bên đưa ra đề nghị không ấn
định thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được
đề nghị đó, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác5. Việc gửi đề nghị, rút lại đề
5 Xem thêm khoản 1 Điều 388 Bộ luật Dân sự năm 2015. 8
nghị hoặc hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của
công chứng viên được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.
Bước 2: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
của công chứng viên. Theo quy định tại Điều 393 Bộ luật dân sự 2015: “chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ
nội dung của đề nghị. Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận
đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được
xác lập giữa các bên”. Cũng theo quy định tại Điều 394 Bộ luật dân sự nói trên, thời
hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng có thể do bên đề nghị ấn định và trong trường
hợp này, việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó.
Nếu bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực
nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý. Trường hợp thông báo chấp nhận giao
kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý
do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu lực, trừ
trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề
nghị. Khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại
hoặc qua phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc
không chấp nhận, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về thời hạn trả lời. Khi bản đề
nghị giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên được
chấp nhận bởi bên nhận đề nghị, hợp đồng này sẽ phát sinh hiệu lực và tạo ra các
quyền, nghĩa vụ pháp lý cho các bên tham gia giao kết hợp đồng.
Trên đây là những quy định chung mang tính nguyên tắc về việc giao kết hợp
đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy quá trình giao kết hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên nói riêng thường được các bên thực hiện theo
cách thức: doanh nghiệp bảo hiểm chủ động soạn thảo hợp đồng bảo hiểm và bên tham
gia bảo hiểm xem xét, chấp nhận nội dung các điều khoản của bản hợp đồng đó6.
2.1.2.2. Thực trạng quy định về thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên
Thực hiện hợp đồng chính là việc các bên thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
mình phát sinh từ hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên phải tuân thủ
một số nguyên tắc do pháp luật hiện hành quy định như: nguyên tắc thực hiện đầy đủ
và đúng các điều khoản của hợp đồng; nguyên tắc thiện chí và hợp tác; nguyên tắc
đảm bảo các bên cùng có lợi trong quá trình thực hiện hợp đồng...
Đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên, việc
thực hiện hợp đồng cũng phải tuân thủ các nguyên tắc nêu trên, đồng thời thực hiện
đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ hợp đồng. Cụ thể là:
Thứ nhất, về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ hợp đồng của bên bảo hiểm. Theo
quy định tại Điều 20 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022 và các quyền, nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật.
6 Xem thêm Điều 405 Bộ luật Dân sự năm 2015. 9
Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện đầy đủ các quyền năng pháp lý
của mình. Việc thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm được doanh
nghiệp bảo hiểm thực hiện định kì theo năm thông qua đội ngũ đại lí của mình. Việc
lấy thông tin của khách hàng trước khi giao kết hợp đồng cũng được doanh nghiệp bảo
hiểm rất quan tâm và thực hiện đầy đủ. Các quyền đồng thời cũng là các hoạt động có
tính chất nghiệp vụ được doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện thường xuyên, liên tục
trong suốt thời gian doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động. Tuy nhiên, về phương diện
nghĩa vụ thì ngược lại, trong một số trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm tỏ ra không
mặn mà với việc thực thi các nghĩa vụ đối với bên đối ước, trong đó có nghĩa vụ trả
tiền bồi thường bảo hiểm mà cả pháp luật và hợp đồng đều có quy định. Cụ thể là:
Về thời điểm chi trả bảo hiểm cho bên thụ hưởng: Trên nguyên tắc, doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho
người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Mặc dù pháp luật đã có quy định cụ
thể về thời gian thực hiện nghĩa vụ trả tiền bồi thường bảo hiểm tại Điều 31 Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2022. Nhưng trên thực tế, doanh nghiệp bảo hiểm thường chậm
trễ, kéo dài trong việc tiến hành các thủ tục giám định tổn thất và chi trả bảo hiểm, với
nhiều lý do khác nhau, chẳng hạn như sự khó khăn trong việc tìm kiếm bằng chứng
khi giám định tổn thất, tính phức tạp của vụ việc giải quyết yêu cầu bồi thường... Điều
này khiến cho người bị thiệt hại rơi vào tình thế khó khăn và thời gian vực dậy, vượt
qua khó khăn kéo dài. Chính yếu tố này khiến cho mục đích của bảo hiểm không đạt được.
Về nghĩa vụ giải thích khi từ chối thanh toán bảo hiểm: Theo quy định, doanh
nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm
hoặc từ chối bồi thường. Tuy nhiên, trong thực tế doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện
nghĩa vụ này chưa đầy đủ và chưa thỏa đáng, khiến cho quyền và lợi ích hợp pháp của
khách hàng bị xâm hại. Chẳng hạn, các doanh nghiệp bảo hiểm sau khi trả lời từ chối
thanh toán bảo hiểm thì tự cho mình quyền chấm dứt nghĩa vụ này, dừng mọi hoạt
động có liên quan. Trong khi đó, thực tế cho thấy các tranh chấp giữa doanh nghiệp
bảo hiểm và khách hàng hoặc các bên liên quan thường phát sinh sau giai đoạn này.
- Về nghĩa vụ phối hợp của doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm để
giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách
nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nghĩa vụ này còn quy định chung chung
chưa phản ánh rõ nội dung, phạm vi mà doanh nghiệp bảo hiểm phải phối hợp với bên
mua bảo hiểm trong quá trình giải quyết yêu cầu của bên thứ ba. Thông thường, khi
bên thứ ba bị thiệt hại, trong nhiều trường hợp họ không biết người gây thiệt hại có
tham gia bảo hiểm hay không, tham gia tại doanh nghiệp bảo hiểm nào? Nên phần lớn
các tranh chấp sẽ được bên thứ ba gửi tới bên gây thiệt hại hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Sau khi có phán quyết thì doanh nghiệp bảo hiểm mới xem xét vụ việc đó
có thuộc phạm vi bảo hiểm không, tỷ lệ chi trả bảo hiểm ra sao rồi thực hiện phần
trách nhiệm của mình, nói cách khác, doanh nghiệp bảo hiểm chưa làm tốt vai trò phối
hợp mà pháp luật quy định. 10
Thứ hai, về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ hợp đồng của bên tham gia bảo hiểm
(bên mua bảo hiểm) theo quy định tại Điều 21 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022 và
các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Qua khảo sát thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện quy định về thực hiện
hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên cho thấy, việc thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm đã và đang bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc sau đây:
Thứ nhất: Về quyền lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm. Trên nguyên tắc, bên mua
bảo hiểm có quyền chọn doanh nghiệp bảo hiểm để mua bảo hiểm, song đối với bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên thì số lượng các doanh nghiệp bảo
hiểm đã và đang cung cấp sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công
chứng viên còn khá ít ỏi. Vì vậy, bên mua bảo hiểm có ít cơ hội để thực hiện quyền
này, hoặc có cơ hội thực hiện nhưng phạm vi để lựa chọn khá hạn chế. Nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm đã từ chối bảo hiểm cho công chứng viên với lý do họ chưa thiết kế
sản phẩm bảo hiểm này để cung ứng. Có những tỉnh thành, tuy có hoạt động của các tổ
chức hành nghề công chứng song lại không có doanh nghiệp bảo hiểm nào cung cấp
sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên. Đây là một khó
khăn, vướng mắc lớn trong việc đảm bảo quyền được cung cấp dịch vụ bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên cho bên tham gia bảo hiểm theo pháp luật hiện hành.
Thứ hai: Về quyền được đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên mua bảo hiểm.
Hiện nay Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định bên mua bảo hiểm có quyền đơn
phương chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, quy định này còn có sự bất hợp lý khiến cho
bên mua bảo hiểm khó thực thi được quyền này trên thực tế. Cụ thể, theo quy định thì
bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trong hai trường hợp:
(i) Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ nước ngoài cố ý không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin hoặc cung cấp
thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền
hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm, được hoàn lại phí bảo hiểm đã đóng. Doanh nghiệp bảo
hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài phải bồi thường thiệt
hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm (nếu có).”7. Vấn đề vướng mắc khi thực hiện
quyền này là ở chỗ, chưa có cơ sở để xác định phạm vi và nội dung cũng như cách
thức tiếp cận để kiểm chứng thông tin mà bên mua bảo hiểm được doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp.
(ii) Căn cứ Điều 23 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022: Khi có sự thay đổi
những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm/tăng các rủi ro được bảo
hiểm, căn cứ thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm có quyền yêu
cầu doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước
ngoài thực hiện một trong các nội dung sau đây:
a) Giảm/tăng phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm;
7 Xem thêm khoản 3 Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022. 11
b) Tăng/giảm số tiền bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm;
c) Kéo dài/rút ngắn thời hạn bảo hiểm;
d) Mở rộng/thu hẹp phạm vi bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm.8
Trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ nước ngoài không chấp nhận yêu cầu tại khoản 1 Điều này, bên mua bảo hiểm có
quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhưng phải thông báo ngay
bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài .9
Trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận yêu cầu tại khoản 3 Điều này,
doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài có
quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm nhưng phải thông báo ngay
bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm . 10
Theo quy định của pháp luật thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương chấm
dứt hợp đồng trong hai trường hợp kể trên.
2.1.3. Thực trạng quy định về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
Các tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
của công chứng viên thể hiện sự xung đột lợi ích, bất đồng quan điểm về quyền và
nghĩa vụ trong quá trình thực hiện hợp đồng có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, các tranh chấp từ hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của
công chứng viên phát sinh do bên mua bảo hiểm đã kê khai không đúng, không đủ,
thiếu trung thực vào giấy yêu cầu bảo hiểm khi xảy ra sự kiện được bảo hiểm, doanh
nghiệp bảo hiểm căn cứ vào đó từ chối một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm bảo hiểm.
Trong một số trường hợp, trong hợp đồng bảo hiểm có những điều khoản chưa rõ ràng
khiến các bên có cách hiểu khác nhau thì theo quy định của pháp luật những điều
khoản đó sẽ “được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm ”, 11 Quy định
này nhằm bảo vệ lợi ích của người được bảo hiểm và thể hiện tính nhân văn của pháp
luật, vì bản chất hợp đồng này là do doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo nên doanh
nghiệp bảo hiểm phải lường trước các vấn đề phát sinh từ hợp đồng, nhưng đây cũng
là một nguyên nhân dễ làm phát sinh khiếu nại. Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm phải
quy định rõ ràng các nội dung của quy tắc, điều khoản bảo hiểm và giải thích để khách
hàng có thể hiểu được nội dung của quy tắc, điều khoản bảo hiểm tránh ngộ nhận hoặc
hiểu sai dẫn đến tranh chấp phát sinh.
8 Xem thêm khoản 1, 3 Điều 23 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022.
9 Xem thêm khoản 2 Điều 23 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022.
10 Xem thêm khoản 4 Điều 23 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022.
11 Xem thêm Điều 24 Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2022. 12
Thứ hai, các tranh chấp từ hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công
chứng viên phát sinh do người được bảo hiểm không hiểu đầy đủ về những quy định
trong hợp đồng bảo hiểm cũng như các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo hợp
đồng. Trong những trường hợp đó, người được bảo hiểm thường mong muốn lợi ích
của mình được bảo vệ một cách tối ưu, được bồi thường càng nhiều càng tốt và khi đó
họ dễ tiến hành khiếu kiện doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra, trong một số trường hợp
tranh chấp phát sinh từ cách thức làm việc thiếu chuyên nghiệp của doanh nghiệp bảo
hiểm, dẫn đến việc không đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của các bên liên quan và
từ đó phát sinh tranh chấp.
Có thể thấy rằng các tranh chấp có thể phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên chính là các tranh chấp về quyền, nghĩa vụ
của các chủ thể trong hợp đồng bảo hiểm đó là tổ chức hành nghề công chứng với
doanh nghiệp bảo hiểm. Để giải quyết các tranh chấp phát sinh có nhiều phương thức
khác nhau như thương lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài .
12 Các phương thức giải quyết
tranh chấp này đều được pháp luật quy định và được các bên chủ thể thực hiện trong
những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, đây là các phương thức giải quyết tranh chấp
trong kinh doanh thương mại.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
2.2.1.1. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm
Hiện nay trên thị trường đã có nhiều doanh nghiệp cung cấp sản phẩm bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên cụ thể là Công ty Bảo hiểm Dầu Khí
(PVI), Công ty cổ phần Bảo hiểm Quân Đội (MIC), Công ty Bảo hiểm AAA...
2.2.1.2. Đối với tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên
Việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên giúp tổ
chức hành nghề công chứng đáp ứng được điều kiện hoạt động mà pháp luật quy định,
góp phần nâng cao được uy tín của mình đối với khách hàng, tạo niềm tin cho cả công
chứng viên và khách hàng công chứng khi họ thực hiện dịch vụ công chứng tại tổ chức hành nghề công chứng.
Ví dụ, văn phòng công chứng Nguyễn Thị Minh Hiền có trụ sở tại thành phố Hồ
Chí Minh mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của văn phòng
với tổng phí bảo hiểm 13.750.000 đồng/năm. Mức giới hạn trách nhiệm 5.000.000.000
đồng/mỗi và mọi vụ tổn thất.
Trong những năm qua đã có vụ việc doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra bồi thường
rủi ro cho khách hàng hoặc bên thứ ba do những sai sót bất cẩn trong hành nghề của
công chứng viên gây ra, nói cách khác, tổ chức hành nghề công chứng đã chuyển giao
được rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm trong trường hợp này. Nhờ vậy, các tổ chức
12 Xem thêm Điều 317 Luật thương mại 2005. 13
hành nghề công chứng và công chứng viên tránh được tổn thất, ổn định được tâm lí và tiếp tục hành nghề.
2.2.1.3. Đối với khách hàng là người có nhu cầu công chứng hoặc bên thứ ba có liên quan
Đây chính là các chủ thể phải gánh chịu tổn thất, thiệt hại thực tế nếu hành vi
công chứng của công chứng viên thiếu chính xác hoặc vi phạm quy định của pháp luật,
vì vậy đây cũng chính là những chủ thể hưởng nhiều lợi ích nhất nếu tổ chức hành
nghề công chứng tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công
chứng viên. Bởi khi thiệt hại xảy ra các chủ thể này sẽ được đảm bảo bồi thường bởi
một doanh nghiệp bảo hiểm có tiềm lực kinh tế vững mạnh, với thời gian, trình tự thanh toán rõ ràng.
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT ĐỐI
VỚI BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM NGHỀ NGHIỆP CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN
3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên
Những giải pháp đồng bộ để pháp luật bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công
chứng viên trở thành lĩnh vực pháp lí hoàn thiện, nhằm điều chỉnh một cách có hiệu
quả các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này. Phần phân tích dưới đây sẽ chỉ ra
cụ thể các giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới.
Thứ nhất, Nhà nước cần xây dựng và ban hành một văn bản quy phạm pháp luật
riêng, có tính độc lập để điều chỉnh một cách thống nhất về bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên. Các quy định pháp luật điều chỉnh về hoạt động bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên hiện đang được quy định rải rác trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Vì vậy, một văn bản độc lập quy định
thống nhất về lĩnh vực này là rất cần thiết.
Thứ hai, cần xác định hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công
chứng viên là hợp đồng mẫu và xây dựng mẫu hợp đồng, quy định mẫu hợp đồng trong luật.
Vấn đề xây dựng hợp đồng mẫu cho một loại hợp đồng xác định nào đó không
còn là điều mới mẻ, cụ thể hiện nay chúng ta đã có những loại hợp đồng mẫu như: hợp
đồng cung cấp dịch vụ điện, nước, hợp đồng cung cấp truyền hình, hợp đồng chuyển
nhượng nhà ở xã hội… Ngay trong lĩnh vực bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
cũng đã được xác định là một loại hợp đồng theo mẫu. Theo quy định tại Quyết định
số 35/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 20/8/2015 có hiệu lực từ ngày
15/10/2015, nhà làm luật đã yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ phải hoàn 14
thành thủ tục đăng ký hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mẫu với Bộ Công thương trước khi
cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho khách hàng. Và việc đăng kí hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ mẫu dù còn nhiều quan điểm trái chiều song đã được triển khai trên thực tế.
Với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên, do những
tồn tại như đã phân tích ở trên nên báo cáo đưa ra gợi ý về giải pháp là nên xây dựng
hợp đồng mẫu. Việc xây dựng hợp đồng mẫu giải quyết được rất nhiều vấn đề hiện
đang vướng mắc, cụ thể: với hợp đồng mẫu thì các điều khoản trong hợp đồng rõ ràng,
được đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên hạn chế việc gây bất lợi cho
một bên chủ thể nhất định, cơ hội tiếp cận và tìm hiểu cụ thể về nội dung hợp đồng
được chia đều cho tất cả các chủ thể có nhu cầu quan tâm, chi phí dành cho quá trình
thương thảo, đàm phán hợp đồng thấp (gần như bằng không), thời gian tiến hành giao
kết hợp đồng được rút ngắn…
Mặt khác, việc xây dựng hợp đồng mẫu có sự tham gia của nhiều chủ thể khác
nhau như Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm, Cục Quản lý cạnh tranh và các doanh
nghiệp bảo hiểm, tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên… nên hợp đồng
này sẽ phản ánh được góc nhìn đa chiều và bám sát với yêu cầu của thị trường, thị hiếu
của khách hàng, giải quyết triệt để xung đột lợi ích giữa các bên liên quan từ đó hạn
chế được sự bất bình đẳng trong ý chí khi giao kết hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp cho công chứng viên. Chính vì những ưu điểm trên mà việc xây dựng hợp
đồng mẫu cho nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên là
cần thiết và cần có cơ chế để sớm được triển khai.
Thứ ba, pháp luật cần mở rộng đối tượng chủ thể được mua bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên, theo hướng không cấm, hoặc khuyến khích
công chứng viên tự mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho chính mình.
Theo quy định của pháp luật hiện hành chỉ có tổ chức hành nghề công chứng
hoặc tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên được xác định là chủ thể tham
gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên với tư cách là
bên mua bảo hiểm. Hiện nay, công chứng viên dù muốn tham gia bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp cũng không có cơ chế pháp lý để tự mình tham gia hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Khi công chứng viên có thể tự quyết định việc mua bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho cá nhân mình vừa nâng cao được tính chủ động
trong việc tự bảo vệ của công chứng viên, vừa đảm bảo được việc công chứng viên sẽ
cân đối được chính xác mức độ rủi ro mình có thể gặp phải khi hành nghề từ đó đưa ra
quyết định sẽ tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp với mức phí phù hợp.
Thứ tư, cần có các quy phạm pháp luật hướng dẫn cách thức xác định thời hiệu
của hợp đồng đối với hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng 15
viên, tránh tình trạng xác định sai thời hiệu hợp đồng làm phương hại đến quyền, lợi
ích của các bên liên quan.
Thứ năm, cần bổ sung các quy phạm pháp luật quy định về cách thức, trình tự
yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chi trả bảo hiểm cho bên thụ hưởng khi bên tham gia
bảo hiểm không còn tồn tại. Trong nhiều trường hợp công chứng viên chết, tổ chức
hành nghề công chứng không còn hoạt động song hành vi công chứng trước đó của
công chứng viên gây thiệt hại thực tế cho khách hàng công chứng. Mặt khác thời hiệu
khởi kiện vẫn còn, tổn thất thực tế thuộc phạm vi bảo hiểm, phát sinh trong thời hạn
bảo hiểm, lúc này người bị thiệt hại sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc xác định doanh
nghiệp bảo hiểm nào có trách nhiệm bồi thường thay cho tổ chức hành nghề công
chứng gây ra sai phạm. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của người bị thiệt hại và đảm
bảo nguyên tắc người gây thiệt hại phải bồi thường thì pháp luật nên quy định theo
hướng cho người bị thiệt hại được quyền khởi kiện tại tòa án nơi tổ chức hành nghề
công chứng có trụ sở hoạt động khi còn tồn tại. Với quy định này thì người bị thiệt hại
sẽ dễ dàng thực hiện quyền khởi kiện của mình, và tòa án khi thụ lí cũng dễ dàng thu
thập chứng cứ từ Sở tư pháp trên cùng địa bàn. Bởi hiện nay, các tổ chức hành nghề
công chứng vẫn phải báo cáo việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho
công chứng viên của tổ chức mình với Sở Tư pháp địa phương.
3.2. Giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
đối với công chứng viên
Bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên, tác giả báo cáo cho rằng cần xem xét áp dụng một số giải
pháp sau đây trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên:
Thứ nhất: Nâng cao kiến thức pháp luật và thói quen sử dụng công cụ bảo hiểm
cho người dân. Việc nâng cao nhận thức cho người dân có ý nghĩa quan trọng về nhiều
mặt, doanh nghiệp bảo hiểm thì phát triển được thị trường, bên mua bảo hiểm thì có
thể chuyển giao rủi ro, đảm bảo cho tổ chức phát triển bền vững trước các thay đổi
phức tạp của thị trường và của môi trường pháp lý, bên thứ ba thì có thêm cơ sở để
đảm bảo chắc chắn nhận được những khoản tiền bồi thường thỏa đáng cho các thiệt
hại thực tế mà mình phải gánh chịu. Nâng cao nhận thức người dân về bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp nói chung và bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng
viên nói riêng giúp phát triển lành mạnh thị trường bảo hiểm và góp phần xây dựng xã
hội công bằng, trong đó mọi người đều ý thức và tôn trọng quyền lợi của nhau, biết tự
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của chính mình. Để thực hiện tốt được giải pháp này
cần có sự phối hợp tích cực giữa các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp bảo hiểm. 16
Mặt khác, về phía cơ quan nhà nước, các chủ thể này cũng phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
- Tuyên truyền, phân tích cho các tổ chức hành nghề công chứng, các công chứng
viên hiểu về các rủi ro có thể gặp phải trong quá trình hoạt động chuyên môn để các
chủ thể này tham gia hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp một cách chủ động,
tích cực với mệnh giá bảo hiểm phù hợp, tránh tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp như một nghĩa vụ bắt buộc, mệnh giá bảo hiểm thấp bằng mức tối thiểu mà
pháp luật quy định. Điều này sẽ góp phần tránh được tình trạng khi thiệt hại thực tế
phát sinh vượt quá mệnh giá bảo hiểm khiến các tổ chức hành nghề công chứng và
công chứng viên lại phải liên đới chịu trách nhiệm bằng chính tài sản cá nhân của
mình. Việc này làm ảnh hưởng lớn đến đời sống, thu nhập, và hoạt động thường nhật
của đơn vị cũng như của cá nhân công chứng viên.
- Tuyên truyền, giải đáp thắc mắc, tư vấn pháp luật trên báo chí, phương tiện
thông tin đại chúng để mọi người có thể hiểu rõ và hiểu đúng vai trò, ý nghĩa của bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên.
- Tuyên truyền để các tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, tổ chức
hành nghề công chứng, công chứng viên và các chủ thể liên quan biết được ý nghĩa
của bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, cách thức, hồ sơ, quy trình đề nghị thanh toán
bảo hiểm để các bên hiểu đúng về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên.
Thứ hai: Tăng cường thực hiện kiểm tra, giám sát việc tham gia bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên. Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan quản lí
cao nhất của nhà nước trong lĩnh vực công chứng cần tiến hành kiểm tra thường
xuyên, liên tục việc tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên
tránh tình trạng công chứng viên hành nghề nhưng không tham gia bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp. Sở tư pháp nơi tổ chức hành nghề công chứng hoạt động cần đốc
thúc các tổ chức hành nghề công chứng thuộc phạm vi quản lí của mình thực hiện
nghiêm chỉnh nghĩa vụ tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên. 17
Phần III. KẾT LUẬN
Qua những phân tích từ quy định pháp luật của đề tài này, có thể thấy rằng để có
một hệ thống các quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp điều chỉnh tổng thể các
quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này thì cần bổ sung những quy phạm pháp luật còn
thiếu, sửa đổi những quy định chưa phù hợp... Các quy định pháp luật điều chỉnh vấn
đề này còn dàn trải chưa được quy định tập trung trong một văn bản quy phạm pháp
luật cụ thể, một số quy định còn gặp khó khăn, vướng mắc khi thực hiện, hiệu quả áp dụng chưa cao.
Để bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên trở thành công cụ
hữu hiệu san sẻ rủi ro cho công chứng viên, bài viết đã chỉ ra và đi vào phân tích
những tồn tại nhất định trong các quy định pháp luật cũng như trong thực tiễn, từ đó
đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và phát huy rõ vai trò bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên.
Tuy nhiên, công chứng viên cũng không nên ỷ lại vào bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp, mà nên hết sức cẩn thận trong công việc, không được lơ là, chủ quan, phải
vững vàng nghiệp vụ để tránh xảy ra sai sót, rủi ro, như vậy sẽ hạn chế tranh chấp xảy
ra. Đồng thời phải luôn trau dồi, cập nhật những kiến thức pháp luật để vận dụng các
quy định của pháp luật hiệu quả và chính xác vào quá trình hành nghề của mình. 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2016.
3. Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2022.
4. Luật Công chứng năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2018).
5. Luật Thương Mại năm 2005.
6. Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
7. Nghị định 123/2011 hướng dẫn thi hành luật Kinh doanh bảo hiểm.
8. Nghị định 29/2015 hướng dẫn thi hành luật Công chứng.
9. Thông tư số 11/2012/TT-BTP của Bộ Tư pháp ban hành bản Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.
10. Giáo trình “Kỹ năng hành nghề công chứng – Tập 1” của Học viện Tư pháp. 19