Quy luật chuyển hóa những sự thay đổi về lượng | Triết học Mác - Lênin | Học viện Ngân Hàng

Quy luật chuyển hóa những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất từ đó vận dụng quy luật trong học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay; với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 40419767
lOMoARcPSD| 40419
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn vẻ, con người
dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của sự vật hiện tượng, từ
đó hình thành nên các khái niệm “quy luật”. Các quy luật của tự nhiên, hội cũng n
của tư duy con người đều mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ
được quy luật mà chỉ có thể nhận thức vận dụng vào thực tế. Hiểu được điều đó triết học
chủ nghĩa Mác- Lênin đã khái quát các quy luật, trong đó quy luật “chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” - đây là một
trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, cho biết phương thức của sự vận động
và phát triển. Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển khi
cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã có những thay đổi về lượng
đạt đến ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển khi
cho thấy sự thay đổi về lượng của sự vật hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi
nhảy vọt về chất làm cho sự vật hiện tượng vừa tiến bước tuần tự vừa những bước đột
phá vượt bậc. Việc nhận thức quy luật này có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn khi chúng ta
xem xét các sự vật, hiện tượng. Muốn cho sự vật, hiện tượng phát triển cần đề ra phương
hương, cách thức , áp dụng hiệu quả quy luật y. Cuộc sống luôn luôn vận động con
người phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh mới. Thế giới đang sự biến đổi không
ngừng, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Để thích ứng với xu hướng đó đòi hỏi chúng
ta phải một “ nội lực” đủ mạnh, một “ tâm thế” vững vàng mới hội nhập tốt, nhằm đưa
đất ớc sánh vai với bạn quốc tế. Sinh viên học Đại học là những người trẻ năng
động , sáng tạo , nắm giữ trọng trách quan trọng tới sự phát triển của đất ớc, người
tiên phong trong mọi lĩnh vực , tuy nhiên đây giai đoạn thay đổi về môi trường sống,
sinh hoạt học tập, đòi hỏi sự thích nghi cần thiết.Việc nhận thức vận dụng đúng
đắn "Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại" sẽ có ý nghĩa rất lớn,thông qua đó xây dựng cho mình phương pháp học tập và
rèn luyện phù hợp với bản thân điều kiện sống. Đây cũng mục đích em chọn đề
tài Quy luật chuyển hóa những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất từ
đó vận dụng quy luật trong học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay” .
Đối tượng nghiên cứu là “ Quy luật chuyển hóa từ nhũng sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất”. Phạm vi nghiên cứu là sinh viên đại học trong giai đoạn hiện nay
.
Cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin về quy luật
lOMoARcPSD| 40419767
lượng chất. Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với các
phương pháp như: thống nhất logic với lịch sử, phân tích tổng hợp, khái quát
hóa và hệ thống hóa.
Ý nghĩa lý luận: Giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quy luật chuyển hóa từ sự
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ý nghĩa thực tiễn: Nhằm vận
dụng quy luật lượng chất vào việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên.
lOMoARcPSD| 40419767
MC LC
Chương I : Quy luật từ nhũng thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại..................3
1: Khái niệm chất và lượng......................................................................................................................3
1.1: Chất là gì ?....................................................................................................................................3
1.2: Lượng là gì ?.................................................................................................................................4
2: Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng........................................................................................5
2.1: Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất..................................................................5
2.2: S thay đổi v cht dẫn đến thay đổi mi v ng.....................................................................7
3: Ý nghĩa phương pháp luận...................................................................................................................7
Chương II: Vận dụng quy luật lượng-chất trong học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.....................7
1:S khác biệt cơ bản gia vic hc tp ph thông và Đại hc............................................................8
2:Những khó khăn của sinh viên hin nay...............................................................................................8
3:Gii pháp..............................................................................................................................................8
lOMoARcPSD| 40419767
Chương I : Quy luật từ nhũng thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại
Vị trí của quy luật: Chỉ ra phương thức ( cách thức ) chung nhất của sự vận động
và phát triển của mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên xã hội và tư duy.
1: Khái niệm chất và lượng
1.1: Chất là gì ?
- Cht là mt phm trù triết học dùng để ch tính quy định khách quan vncó
ca s vt, hiện tưng; là s thng nht hữu cơ của các thuc tính làm cho s
vt là nó và phân bit nó vi s vt khác.
VD: cht của con người khác các đng vt khác nhng thuc tính ;
ngôn ngữ, có tư duy, biết chế to và s dng công c lao động. Đặc điểm :
- Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có của sự vật hiện tượng, nằm bên
trong sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn
vị mặn của muối, ngọt của đường là cái khách quan, tồn tại ở bên trong chứ không phải
do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của con người mà có thể áp đặt được nó.
- Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.Thuộc
tính là những tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc tính của sự vật
chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với
các sự vật khác. Chẳng hạn như sự quang hợp của lá cây chỉ được thể hiện thông qua sự
tác động của nó với ánh sáng mặt trời hay tính tan của muối chỉ được bộc lộ khi có sự tác
động với nước.
Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bảnthuộc tính không cơ bản.
Những thuộc tính cơ bản tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật; quy định sự tồn tại vận
động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay
đổi hay mất đi. Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ các mối quan hệ cụ thể với các sự
vật khác. Bởi vậy sự phân chia thuộc tỉnh thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không
bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong mối liên hệ cụ thể này thuộc tính này là thuộc
tính cơ bản thể hiện sự chất của sự vật trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ có thêm thuộc.
VD :Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng
công cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của con người còn các thuộc tính không là thuộc
tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con người với nhau thì những thuộc tính của con
người như về nhận dạng về dấu vân tay lại trở thành thuộc tính cơ bản.
Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn
trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải
chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất.
VD : những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ =>mầm
non=> nhi đồng => thiếu niên => thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
Chất của sự vật không những được quy định bởi những yếu tố tạo thành mà còn bởi
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật trong
hiện thực các sự vật bật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau xong chất của chúng lại
khác nhau.
lOMoARcPSD| 40419767
Ví dụ như kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học do các nguyên tố
cacbon tạo nên nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử cacbon là khác nhau vì
thế chất của chúng cũng hoàn toàn khác nhau. Kim cương rất cứng còn than chì mềm.
- Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi chưa chuyển hóa
thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Chẳng hạn như, trạng
thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về lượng của nhiệt độ từ 40-50 C chưa
làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi.
1.2: Lượng là gì ?
- Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như
các thuộc tính của nó.
- Lượng biểu hiện kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, trinh độ cao hay thấp,
số lượng nhiều hay ít…
VD: Số lượng người trong một lớp học, vận tốc ánh sáng 300km/s,…
Đặc điểm
- ợng cũng mang tính khách quan như chất, là cái vn có ca s vt
( s ng nguyên t ca 1 nguyên t hóa hc,chiu cao chiu dài ca 1
vt)
- ợng thường được xác định bi những đơn vị đo lường c th vi con
s chính xác nhưng cũng có lượng biu th i dng khái quát, phi dùng
ti kh năng trừu tượng hóa để nhn thc.
Ví dụ: Trình độ nhn thc, phm chất đạo đức ca một con người..., ý thc
trách nhim cao hay thp, mức độ tin cy tín nhim cao hay thp
- Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định
mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật.
Lưu ý: Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, trong mối quan hệ này là lượng
nhưng trong mối quan hệ khác lại là chất.( s ng sinh viên di ca 1 lp s ni lên cái cht hc
tp gii ca lớp đó )
VD: Trong mối quan hệ giữa người sinh viên năm thứ nhất với người học sinh năm thứ
hai là nói đến chất của sinh viên năm thứ nhất với năm thứ hai. Trong mối quan hệ với c
khoá học thì năm thứ nhất với năm thứ hai lại là lượng.
2: Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
2.1: Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng,
chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại
nếu không có tính quy định về chất và ngược lại. Vì vậy, sự thay đổi về lượng của sự vật
có ảnh hưởng đến sự thay đổi về chất của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật
tương ứng với thay đổi về lượng của nó.
lOMoARcPSD| 40419767
Sự biến đổi về lượng có thể xảy ra theo hai hướng: sự tăng lên hoặc giảm đi về lượng
dẫn đến sự biến đổi ngay hoặc thay đổi dần dần về chất. Do chất là cái tương đối ổn định
còn lượng là cái thường xuyên biến đổi nên ở một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật
thay đổi chưa dẫn đến sự thay đổi về chất của nó. Giới hạn đó được gọi là độ.
Độ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới
hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, sự
vật chưa biến thành cái khác.
VD: - quá trình học tập của sinh viên đại học 4 năm từ 2021-2025, 2025- 2029, ... Thì các
đoạn thời gian này chính là độ. Trong khoảng độ, lượng kiến thức không ngừng tăng lên
tuy nhiên vẫn chưa thể biến đổi chất sinh viên thành một cử nhân đã tốt nghiệp.
-độ tuổi trung bình của người Việt Nam là 73 tuổi vậy khoảng thời gian từ 0 đến
73 năm là độ của con người về mặt tuổi.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất.
Giới hạn đó chính là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về
lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Ví dụ : Các giới hạn 0 tuổi (khi sinh ra), 73 tuổi; các kỳ thi, các kỳ kiểm tra chính là các
điểm nút.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do
sự thay đổi về lượng trước đó gây nên. Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn phát
triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới.
VD: từ học sinh tiểu học thực hiện bước nhảy thành học sinh trung học; từ cử nhân thực
hiện bước nhảy lên thạc sĩ...
Có 4 hình thức bước nhảy:
Cơ sở phân loại
Các loại bước nhảy
Ví dụ
Thời gian
Bước nhảy đột biến:
c nhảy được thc hin
trong mt thi gian rt
ngắn làm thay đổi cht ca
toàn b kết cấu cơ bản ca
s vt
Khối lượng Uranium
235(Ur 235) được tăng
đến khối lượng tới hạn thì
sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử
trong chốc lát.
lOMoARcPSD| 40419767
Bước nhảy dần dần:
bước nhảy được thực hiện
từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những
nhân tố của chất mới và
những nhân tố của chất
dần dần
mất đi.
Quá trình chuyển hóa t
vượn sang người
Quy mô
Bước nhảy cục bộ: là bước
nhảy làm thay đổi chất của
từng mặt, những yếu tố
riêng lẻ của sự vật.
Chuyển từ kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định
hướng XHCN
Bước nhảy toàn bộ:
bước nhảy làm thay đổi
chất của toàn bộ các mặt,
các yếu tố cấu thành sự vật
Cách mạng tháng 8/1945
thành công đập tan xiềng
xích nô lệ của thực dân
Pháp gần 1 thế kỷ của Việt
Nam
VD: cho quá trình biến đổi lượng thành chất trong học tập của sinh viên:
Quá trình học tập của sinh viên là một quá trình dài, cần nhiều sự cố gắng, nỗ lực và thể
hiện một cách cụ thể, khái quát nhất mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. [Quá
trình đó luôn có sự vận động, biến đổi mang tính quy luật.]Trong quá trình học tập dài
4 năm của sinh viên đại học, lượng không ngừng tăng lên, đó là kiến thức. Nó không chỉ
bao gồm những kiến thức cơ bản trong giáo trình, sách vở mà còn là những kĩ năng mềm
bên ngoài như cách sử dụng từ ngữ, ứng xử, xử lý thông tin, phân tích và giải quyết các
tình huống trong xã hội. Nhờ thế mà trình độ nhận thức của sinh viên cũng được thay đổi,
tầm tri thức của sinh viên được nâng cao và cải thiện hơn. Tuy nhiên quá trình đó chưa đủ
để làm nên thay đổi chất của sinh viên, nên quá trình đó chính là “độ”. Sinh viên phải
vượt qua những điểm nút, là những kì thi,đặc biệt là kì thi kết thúc học phần để nhận
bằng tốt nghiệp. Khi đạt được tấm bằng trong tay, khi đó sinh viên đã thực hiện một
“bước nhảy” quan trọng của cuộc đời, từ sinh viên đại học trở thành cử nhân đã tốt
nghiệp.
2.2: S thay đ i v ch t d n đ n thay đ i m i v lự ế ượng
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút.
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới
lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
VD: Sau khi đã tốt nghiệp đại học sinh viên học lên thạc sĩ, khi đó lượng kiến thức, kĩ
năng cần học cũng nhiều hơn, cần nhiều thời gian tự nghiên cứu, tìm tòi để thu nạp được
nhiều hiểu biết hơn.
=>Từ đó có thể thấy với bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi
về chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại với lượng dẫn đến sự
thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành cách thức phổ biến của
các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
3: Ý nghĩa phương pháp luận
lOMoARcPSD| 40419767
- Trong hoạt động thực tiễn hoạt động nhận thức chúng ta phải biết từng bước tích
lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật . Cấu thanh 2 khuynh hướng
hoặc chủ quan duy ý trí hoặc bảo thủ trì trệ , không dám thực hiện bước nhảy.
- Trong linh vực xã hội phải có quyết tâm thực hiện và phải biết vận dụng linh hoạt
các hình thức của bước nhảy. Phải lựa chọn bước nhảy phù hợp để đạt chất lượng
và hiệu quả hoạt động của minh.
- Trong hoạt động thực tiễn cần phải biết sắp xếp, tổ chức tác động vào các yếu tố
của sự vật để sự vật phát triển theo chiều huơg tiến bộ.
Chương II: Vận dụng quy luật lượng-chất trong học tập và rèn luyện của
sinh viên hiện nay.
Trong cuộc sống ,việc trang bị tri thức cho bản thân mỗi người luôn là một hành
trình dài và bền bỉ. Đòi hỏi con người ta sự kiên trì , quyết tâm không ngừng nghỉ . Điều
này còn thực sự quan trọng đối với các bạn học sinh, Bác Hồ cũng đã khẳng định điều
đấy qua câu: “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đà vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính
là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em , trong quá trình học tập không ngừng
nghỉ của mình chúng ta được trau dồi, được tiếp thu những kiến thức cơ bản về cuộc sống
qua các môn học lĩnh vực tự nhiên và xã hội . Bên cạnh đó, có tri thức thôi thì chưa đủ
,mỗi học sinh cũng cần trang bị thêm cho mình những kiến thức thực tiễn, những kĩ năng
mềm cần thiết cho cuộc sống sau này. Sau quá trình học tập 12 năm học trung học và phổ
thông, người học sinh vượt qua các nút với bước nhảy theo quy luật chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, để tích lũy đủ lượng là kiến thức, tạo cho
minh bước nhảy vọt đột phá qua điểm nút là kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia, tiến
vào môi trường mới là ngôi trường Đại học mơ ước. Trở thành một sinh viên, mở ra một
giai đoạn phát triển mới của chất và lượng.
1:S khác bi t c b n gi a vi c h c t p ph thông và Đ i h c ơ
Sự giống nhau giữa việc học tập ở phổ thông cũng như việc học tập ở Đại học đó là đều
phải tích lũy đủ kiến thức và hòan thành các môn học , học phần đúng theo quy định đã
đề ra .Nhưng sự khác biệt cơ bản về việc trau dồi kiến thức ở bậc Đại học có sự khác biệt
về chất so với học tập ở phổ thông . Sự khác biệt đó nằm ở chỗ, sinh viên không chỉ tiếp
nhận bài học kiến thức một cách đơn thuần mà còn phải tự mình tìm tòi nghiên cứu, dựa
trên những kỹ năng mà giảng viên đã cung cấp, hướng dẫn. Rõ ràng có thể thấy ở bậc đại
học, việc học tập của sinh viên khác hẳn về chất so với học sinh ở phổ thông. Việc tiếp
thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú , từ cơ bản đến chuyên
sâu, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp. Từ sự thay đổi về chất do sự tích lũy về
lượng trước đó - ở đây là bậc học phổ thông tạo nên, chất mới ( sinh viên )cũng tác động
trở lại lượng- đó là lượng kiến thức phải tiếp thu vào tăng lên bằng quá trình học tập , tích
lũy kiến thức dài . Với nền tảng tri thức mới , nhận thức của sinh viên dần có sự thay đổi ,
có sự linh hoạt hơn không rập khuôn máy móc qua nhiều, lượng tri thức dần dần tăng lên.
2:Nh ng khó khăn c a sinh viên hi n nay
Học tập đó là một quá trình dài, khó khăn và cần sự nỗ lực không ngừng nghỉ không chỉ
từ gia đình, nhà trường mà còn cần từ chính mỗi người học. Học tập đã khó nhưng học
lOMoARcPSD| 40419767
trong thời kỳ dịch Covid-19 thì càng là một thách thức lớn đối với các bạn sinh viên đặc
biệt là sinh viên năm nhất .Các bạn sinh viên phải học online kéo dài ở nhà gây ra tình
trạng chán nản , mất tập trung ,cũng như thiếu động lực trong việc học tập. Là sinh viên
thì không thể thiếu 2 kỹ năng quan trọng đó là ngoại ngữ và công nghệ thông tin, nhưng
hầu hết sinh viên đều là học sinh từ tỉnh lẻ nên trình độ , sự tiếp cận với 2 kỹ năng này
còn rất ít .Thêm nữa là sinh viên chưa biết sắp xếp thời gian học tập một cách hợp lý nên
luôn để dồn lại rồi làm và gây nên tình trạng mệt mỏi cũng như bài làm không đạt hiểu
quả cao. Một vấn đề nan giải nữa là hiện nay sinh viên thường chỉ nghĩ đến việc học làm
sao cho qua môn , mục tiêu về việc làm , sự nghiệp tương lai vẫn còn chung chung mơ
hồ.Quả thật tuổi trẻ mà không có mục tiêu thì thật lãng phí. Muốn đạt được mục tiêu ước
mơ đó trước hết cần phải học tập thật tốt. Nhưng học như thế nào, học ra sao để đạt được
mục tiêu quả không phải là dễ.Vì vậy, trước hết mỗi chúng ta phải xác định rõ cho mình
phương pháp học tập đúng đắn . Do đó, quy luật lượng-chất có ý nghĩa vô cùng to lớn
đối với việc học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.
3:Gi i pháp
Là một sinh viên, với chất mới trưởng thành, chín chắn và biết suy nghĩ nhiều hơn. Phải
nhận ra được những hạn chế đang gặp phải và chủ động thay đổi và thích nghi.
Luôn tuân theo quy trình tích lũy đủ về lượng để làm thay đổi về chất. Muốn có sự thay
đổi về chất phải trải qua một quá trình lâu dài để tích lũy lượng. Trong học tập cũng vậy,
không nên vội vàng , nóng vội, phải tích lũy một cách dần dần. Bác Hồ đã nói” vì sự
nghiệp 10 năm trông cây, vì sự nghiệp trăm năm trồng người”. Qua đó thấy được quá
trinh tích lũy là rất lâu dài không thể một sớm một chiều mà hoàn thành được. Trong quá
trình học tập,sinh viên cần xác định rõ mình phải học gì, cũng như cái mục tiêu mình
muốn hướng tới là gì , để tích lũy dần về kiến thức, theo quy trình đến độ chín muồi rồi
mới thực hiện bước nhảy ở thời điểm phù hợp. Trong đó, lượng là số tín chỉ, quá trình
học tập là độ, các bài thi là điểm nút, và hòan thành các môn là bước nhảy.
Phải có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi đã đến điểm nút, nếu không thực hiện bước
nhảy thì cả quá trinh trong độ chỉ là sự tích lũy về lượng, gây chậm trễ, không có sự xuất
hiện của chất mới ảnh hưởng tới quá trinh phát triển và rèn luyện.
Cần phải nhìn nhận rõ cách thức để đạt được mục tiêu đó là thông qua việc vận dụng linh
hoạt các hình thức của bước nhảy. Xem xét từng đặc thù mỗi môn học, từ đó, chủ động
tìm hiểu nội dung bài học trước để có cái nhìn tổng quát và tiền đề tiếp thu sâu sắc những
kiến thức mới thông qua giao trinh, thông tin trên mạng, sách báo…Sau mỗi buổi học , tự
tổng hợp lại kiến thức, nội dung bài học đã nghe giảng, cố gắng liên hệ với thực tiễn để
có cái nhìn đa chiều, đồng thời liên kết với các nội dung trước đó để không bị đứt đoạn
quá trinh tích lũy về lượng. Không e ngại trao đổi với giảng viên về các vấn đề còn băn
khoăn hay chia sẻ kiến thức với người bạn. Thêm nữa cần cập nhật những thông tin sự
kiện những biến động mới nhất để nâng cao trinh độ hiểu biết.
Ngoài trang bị lượng kiến thức mà cần trang bị thêm nhũng kĩ năng mềm cần thiết để tự
tin bước ra đời. Bằng việc tham gia các câu lạc bộ ở trường để vừa học hỏi được những
kiến thức bổ ích mà còn có thêm những mối quan hệ mới tăng trình độ giao tiếp. Hoặc
lOMoARcPSD| 40419767
cũng có thể đi là thêm để tạo thêm thu nhập nhưng điều quan trọng hơn cả là ta được va
vấp được cọ xát với xã hội cũng như cải thiện kỹ năng giao tiếp.
Tích cực , tự giác rèn luyện phẩm chất bản linh thể hiện bản thân, tự tin chớp lấy những
cơ hội mang lại thành công cho chính mình.
Chuẩn bị một tinh thần mạnh mẽ, dám đương đầu với khó khăn thử thách trong cuộc
sống. Tự tạo động lực cho bản thân , tinh thần khiêm tốn và cầu tiến bước lên phía trước.
T vic nghiên cu quy lut chuyn hóa t nhng s thay đổi v ng
thành nhng s thay đổi v chất ngược li th rút ra mt vài kết lun ý
nghĩa phương pháp lun vi vic hc tp n luyn ca sinh viên trong môi
trường Đại Học văn hóa thể thao và du lich Thanh Hóa như sau:
*S khác nhau cơ bn gia vic hc tp ph thông và Đại Hc
So vi hc ph thông thì khối lượng kiến thc cấp độ Đại học tăng lên một
cách đáng kể. Mt ví d đơn giản, nếu hc ph thông thì mt môn hc s kéo dài
trong một năm, thế khối lượng kiến thức được chia đều ra kiến hc sinh d dàng
tiếp nhận n. Trong khi Đại hc mt môn ch kéo dài khoảng 8 đến 18 bui hc
(t 1 đến 2 tháng). ràng s tăng lên đáng kể v s ng kiến thc s khiến
tân sinh viên gp những khó khăn. Chính thế sinh viên cn phi ch động tìm
hiểu sãn sàng để thích nghi vi s thay đổi này. Không ch khác bit v khi
ng kiến thc, học đại hc và ph thông còn có s khác bit v s đa dạng kiến
thc. Tiếp đến các nhim v trong hc tp, nếu hc ph thông hoạt động ch
yếu trên lp còn học đại học còn đi kiến tp, thc tập,...Đây hội cũng
nhưng cũng là thách thc cho sinh viên.. đây là sự khác nhau v bn cht ch
không ch s thay đổi v hình thc, bi vy th ni s chuyn đổi t ph
thông n Đại hc cũng giống như quá trình biến đổi t ng thành cht. Chính
vậy người sinh viên cn phải thay đổi nếp sng mi sao cho phù hp vi
hoàn cnh hin ti, phù hp vi yêu cu ca ngành giáo dục đối vi Đi hc. Ch
khi nào làm được như vậy sinh viên mi hy vọng đạt được nhng thành tích rc
r trong quá rình hc tp và nghiên cu ca mình.
* Từng bước tích lũy kiến thc một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, s vận động phát trin ca s vt bao gi cũng diến ra
bằng cách tích lũy dần dn v ng đến mt gii hn nhất định, thc hiện bước
nhảy đ chuyn v cht vic hc tp của sinh viên cũng không nằm ngoài điều
đó. Đểmt tm bằng Đại hc chúng ta cn phải ch lũy đủ s ng các tín ch
ca các môn học. Như vậy th coi hc tp quá trình tích lũy về ng
lOMoARcPSD| 40419767
đim nút các k thi, thi c bước nhy điểm s xác định quá trình tích lũy
kiến thức đã đủ dn ti s chuyn hóa v chất hay chưa. Do đó, trong hoạt động
nhn thc, hc tp ca sinh viên phi biết từng bước tích lũy về ng ( tri thc)
làm biến đổi v cht (kết qu hc tp) theo quy lut. Cn hc tập đều đặn hng
ngày để chất được thm sâu vào mi sinh viên. Tránh gp gp rút mi khi sắp đến
k thi, như vậy là thiếu kinh nghim nhn thức được trong quá trình hc tp. Tránh
tưởng ch quan, nóng vi trong hc tp trong hoạt động thc tin hàng ngày.
Hàng ngày mi tân sinh viên vẫn đến trường để hc tp, tiếp thu nhng kiến
thc mới lượng kiến thc ngày mt nhiều, nhưng chưa th ra trường để làm
việc ngay được vì kiến thc mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa đảm bo đ
ta làm việc. Nhưng nếu qua 4 năm mỗi sinh viên hc tp và n luyện chăm chỉ để
tích lũy kiến thức, tích lũy kinh nghim qua thy cô, qua nhng lần đi thực
tập...(lượng) và tt nghiệp Đại học đạt kết qu cao, đảm bo v chuyên môn cho
mỗi sinh viên ra trường làm vic. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đi sang
cht mi.
* Sinh viên phi t hc tp rèn luyn tính tích cc, t ch, nghiêm túc,trung
thc.
Trong thc tiễn đời sng của con người, mun có s thay đổi v cht, cns
tích lũy về ng, s tích y y do t bn thân mi chúng ta phấn đấu, đánh
đổi bng sc lao động mà có được, ch không nh vào mt s giúp đỡ nào khác.
Để làm rõ ý kiến trên, chúng ta cùng suy ngm v câu chuyn ng ngôn sau: “ Một
ngưi n tìm thy cái kén của con bướm. Anh ta nhn thy cái kén này bắt đầu
đưc cắn rách, sâu bướm bắt đầu ra. Quan sát mt hi lâu, anh thy con sâu
m c hết lách thân mình qua l hổng mà không được. Động lòng thương, anh
ta ly kéo ct vết rách của cái kén để sâu bướm ta vượt ra ngoài đễ dàng. Khi u
m ra khi kén, thì thân hình lớn ra nhưng đôi cánh thì nhỏ lại. Người n c
ch xem con bướm có th phát trin thêm ra không? Mong rằng đôi cánh kia
th n rộng thêm để đủ sức bay đi. Than ôi! Vô ích! Con bướm đã trọn đời tàn tt,
lê lết vi cái cánh nh bé không th bay đi được”.
Ngưi n lòng thương hp tp làm hng cuộc đời của con bướm. anh không
biết lut ca to hóa bt buc con sâu bướm phi t phấn đấu để vượt qua khi
l nh ca cái kén. Trong lúc phấn đấu đó, huyết mch s được luân lưu t thân
mình cho đến đôi nh sau khi vượt ra khỏi cái kén, m ta mới đ sc
vươn đôi cánh lớn ra mà bay bng.
Hãy tr li vi vic hc tp n luyn ca sinh viên. Trong mt k thi,
nếu có sinh viên gian lận để mt kết qu tt thì chẳng khác con sâu bướm
nh ti nghip kia. Bng gian ln, ta có th qua được k thi, nhưng về bn cht thì
vẫn chưa được biến đi nào v cht, khi hc nhng kiến thức sâu hơn, khó
hơn chắc chn ta s không tiếp thu được, không đáp ứng được yêu cu công
lOMoARcPSD| 40419767
vic sau này nếu ta giúp đỡ bn theo theo cách ca anh chàng trong câu
chuyện kia thì không khác gì chúng ta đang hại h.
* Trong hc tp nghiên cu cn tiến hành t d đến khó, tránh ngvội đốt
cháy giai đoạn
Trong quá trình hc tp và rèn luyn ca sinh viên cần tránh tư tưởng t khuynh,
tức là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện c nhy . Sinh viên
khi học đủ nhng kiến thức bản s biến đổi v cht mi th hc tiếp
nhng kiến thức sâu hơn, khó hơn. Học tp nghiên cu t d đến khó là phương
pháp hc tp mang tính khoa học chúng ta đều biết nhưng trong thc tế, không
phải ai cũng có th thc hiện được. Nhiu sinh viên trong quá trình đi học tp do
không tp trung, còn mải mê vui chơi , dẫn đến s chm ch trong hc tp, rồi
c ti chân mi nhy” khi sp thi h mi tập trung cao độ vào vic hc. Giai
đon ôn thi là lúc ta cng c li kiến thc ch không phi hc mới, do đó sinh viên
hc tập chăm chỉ trong thi gian này không th đảm bo lượng kiến thức qua được
k thi. Ngược li có nhiu sinh viên có ý thc hc ngay t đầu , nhưng họ li nóng
vi, mun hc nhanh, nhiều để hơn người khác, chưa học bản đã đến nâng
cao, “chưa học đã lo học chạy”. Như vậy, mun tiếp thu được tri thc ngày
càng nhiều và đạt đưc kết qu cao, thì mi sinh viên cn phi hàng ngày hc tp,
hc t thấp đến cao, t d đến khó đ có s biến đi v cht.
*Liên tc phn đu hc tp và rèn luyện, tránh tư tưởng ch quan
Khi bước chân vào Đại hc, có mt b phn không nh trong sinh viên t mãn vi
những đã đạt được, không tiếp tc n lc phấn đấu vươn lên, sống không
tưởng, hoài bão. Nhưng bên canh đó một s sinh viên có ý thc rèn luyn và
phn đu hc tập để có trình độ tri thc cao nht.
Xét theo quan điểm ca triết hc, chất thay đổi s tác động tr lại lượng ca s
vt. S tác động đó được th hin: Cht mi có th làm thay đổi kết cu quy mô,
trình đ, nhp điu ca s vật. Khi đã đỗ vào đại hc, tr thành sinh viên chúng ta
đưc tiếp cn nhng tri thức cao hơn, sâu hơn. Nhim v ca mi sinh viên là
phi tiếp tc hc hi, trau di thêm nhng kiến thức ( tích lũy về ng), tr thành
nhng giáo viên, nhà quản văn hóa, ha sỹ...đóng p cho hội, tránh tinh
thn tha mãn vi những gì đã đạt được.
Trong quá trình hc tp, sinh viên phi tri qua rt nhiu k thi. Kết qu tt
ca các k thi đánh dấu ta kết thúc một giai đoạn và là bước khởi đầu cho ta sang
một giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta một trình độ cao n, lượng kiến thc nhiu
hơn, chính vì vy, mi sinh viên cn phi không ngng hc tp phấn đấu để tiếp
cn nhng tri thc mi trình độ cao hơn. Nó giúp chúng ta tránh được tư tưởng
bo th, trì tr trong hc tp rèn luyn. *Rèn luyn ý thc hc tp ca sinh viên
lOMoARcPSD| 40419767
Ngn ng Trung quốc câu” Gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gt tính
cách, gieo tính cách găp s phận” câu nói đó ý nghĩa triết hc của nó. Đó là
quy luật lượng- cht trong triết hc, rõ ràng là, những thói quen mà chúng ta đang
có được hình thành t s tích lũy của nhiều hành vi được lặp đi lặp li trong cuc
sng hàng ngày, nhiều thói như thế đến lượt li quyết định đến tính cách
ca chúng ta, và s phn ca mỗi con người ph thuc vào tính cách ca h. Khi
tích lũy hành vi (lượng) dn dn s to nên thói quen (cht), sinh viên cn rèn
luyện cho mình tính chăm ch, t ch năng động trong quá trình hc tập, tích lũy
tri thc giản đơn nhất t nhng thói quen hàng ngày. Trong cuc sống cũng như
trong quá trình hc tp sinh viên phi rèn luyện hàng ngày để hình thành nhng
thói quen hc tp, rèn luyn tốt, như: phải biết tiết kim thi gian, làm vic nghiêm
túc khoa học,....tích lũy nhiều thói quen như vậy s góp phn hình thành nên
tính cách, giúp chúng ta thành công trong hc tập cũng như trong cuộc sng.
*S phát trin bn vng ca tp th ph thuc vào bn thân mi sinh viên.
Mt tp th bao gm nhiu nhân. Mi nhân phm cht tốt (lượng) s
góp phn tạo nên “chất” tốt cho tp th đó. Một lp hc tp tt, nếu trong lp có
nhiu nhân ý thc hc tp tt, luôn c gắng đ phấn đấu đạt được thành
tích cao. Mt lớp đoàn kết nếu các cá nhân luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Có
th nói uy tín, thành tích ca mt lp ph thuc vào s phấn đấu n lc ca mi
sinh viên.
Tóm li, vic vn dng ni dung quy lut v mi quan h bin chng gia lưng
và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận ca nó có vai trò to ln trong vic
hc tp và rèn luyn của sinh viên trường Đại học Văn hóa thể thao và Du lich
Thanh Hóa hiện nay. Lượng và cht là hai mt thng nht bin chng ca s
vt, ch khi nào lượng được tích lũy tới mt đ nhất đinh mới làm thay đổi v
chất, do đó trong hoạt đng nhn thc, hot đng hc tp ca sinh viên phi tích
lũy dn v ợng và đồng thi phi biết thc hin và thc hin kp thi nhng
c nhảy khi có điều kin chín mui đ biến đi v cht. Nhng việc làm vĩ đại
ca con, bao gi ng tổng hp nhng vic làm bình thường, vì vy mi sinh
viên phi luôn tích cc hc tp, ch động trong công vic hc tp và rèn luyn
ca mình c đức và tài, để tr thành một con người phát trin toàn diện, tránh tư
ng ch quan, nóng vi mà không chịu tích lũy về kiến thức (lượng). Cũng
như trong hoạt đng của mình ông cha thường có câu: “tích tiểu thành đại”,
“năng nhặt, cht b”...đó sao.
| 1/13

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40419767 lOMoAR cPSD| 40419 LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn vẻ, con người
dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của sự vật hiện tượng, từ
đó hình thành nên các khái niệm “quy luật”. Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như
của tư duy con người đều mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ
được quy luật mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng vào thực tế. Hiểu được điều đó triết học
chủ nghĩa Mác- Lênin đã khái quát các quy luật, trong đó có quy luật “chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại”
- đây là một
trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động
và phát triển. Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển khi
cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã có những thay đổi về lượng
đạt đến ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển khi
cho thấy sự thay đổi về lượng của sự vật hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi
nhảy vọt về chất làm cho sự vật hiện tượng vừa tiến bước tuần tự vừa có những bước đột
phá vượt bậc. Việc nhận thức quy luật này có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn khi chúng ta
xem xét các sự vật, hiện tượng. Muốn cho sự vật, hiện tượng phát triển cần đề ra phương
hương, cách thức , áp dụng hiệu quả quy luật này. Cuộc sống luôn luôn vận động và con
người phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh mới. Thế giới đang có sự biến đổi không
ngừng, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Để thích ứng với xu hướng đó đòi hỏi chúng
ta phải có một “ nội lực” đủ mạnh, một “ tâm thế” vững vàng mới hội nhập tốt, nhằm đưa
đất nước sánh vai với bạn bè quốc tế. Sinh viên học Đại học – là những người trẻ năng
động , sáng tạo , nắm giữ trọng trách quan trọng tới sự phát triển của đất nước, là người
tiên phong trong mọi lĩnh vực , tuy nhiên đây là giai đoạn thay đổi về môi trường sống,
sinh hoạt và học tập, đòi hỏi sự thích nghi là cần thiết.Việc nhận thức và vận dụng đúng
đắn "Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại" sẽ có ý nghĩa rất lớn,thông qua đó xây dựng cho mình phương pháp học tập và
rèn luyện phù hợp với bản thân và điều kiện sống. Đây cũng là mục đích mà em chọn đề
tài “ Quy luật chuyển hóa những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất từ
đó vận dụng quy luật trong học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay” .

Đối tượng nghiên cứu là “ Quy luật chuyển hóa từ nhũng sự thay đổi về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất”. Phạm vi nghiên cứu là sinh viên đại học trong giai đoạn hiện nay .
Cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về quy luật lOMoAR cPSD| 40419767
lượng chất. Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với các
phương pháp như: thống nhất logic với lịch sử, phân tích tổng hợp, khái quát hóa và hệ thống hóa.
Ý nghĩa lý luận: Giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quy luật chuyển hóa từ sự
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ý nghĩa thực tiễn: Nhằm vận
dụng quy luật lượng chất vào việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên. lOMoAR cPSD| 40419767 MỤC LỤC
Chương I : Quy luật từ nhũng thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại..................3
1: Khái niệm chất và lượng......................................................................................................................3
1.1: Chất là gì ?....................................................................................................................................3
1.2: Lượng là gì ?.................................................................................................................................4
2: Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng........................................................................................5
2.1: Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất..................................................................5
2.2: Sự thay đổi về chất dẫn đến thay đổi mới về lượng.....................................................................7
3: Ý nghĩa phương pháp luận...................................................................................................................7
Chương II: Vận dụng quy luật lượng-chất trong học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.....................7
1:Sự khác biệt cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại học............................................................8
2:Những khó khăn của sinh viên hiện nay...............................................................................................8
3:Giải pháp..............................................................................................................................................8 lOMoAR cPSD| 40419767
Chương I : Quy luật từ nhũng thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại
Vị trí của quy luật: Chỉ ra phương thức ( cách thức ) chung nhất của sự vận động
và phát triển của mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên xã hội và tư duy.
1: Khái niệm chất và lượng 1.1: Chất là gì ? -
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốncó
của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự
vật là nó và phân biệt nó với sự vật khác.

VD: chất của con người khác các động vật khác ở những thuộc tính ; có
ngôn ngữ, có tư duy, biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Đặc điểm : -
Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có của sự vật hiện tượng, nằm bên
trong sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn
vị mặn của muối, ngọt của đường là cái khách quan, tồn tại ở bên trong chứ không phải
do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của con người mà có thể áp đặt được nó. -
Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.Thuộc
tính là những tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc tính của sự vật
chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với
các sự vật khác. Chẳng hạn như sự quang hợp của lá cây chỉ được thể hiện thông qua sự
tác động của nó với ánh sáng mặt trời hay tính tan của muối chỉ được bộc lộ khi có sự tác động với nước.
Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bảnthuộc tính không cơ bản.
Những thuộc tính cơ bản tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật; quy định sự tồn tại vận
động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay
đổi hay mất đi. Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ các mối quan hệ cụ thể với các sự
vật khác. Bởi vậy sự phân chia thuộc tỉnh thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ
bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong mối liên hệ cụ thể này thuộc tính này là thuộc
tính cơ bản thể hiện sự chất của sự vật trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ có thêm thuộc.
VD :Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng
công cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của con người còn các thuộc tính không là thuộc
tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con người với nhau thì những thuộc tính của con
người như về nhận dạng về dấu vân tay lại trở thành thuộc tính cơ bản.
Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn
trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải
chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất.
VD : những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ =>mầm
non=> nhi đồng => thiếu niên => thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất.
Chất của sự vật không những được quy định bởi những yếu tố tạo thành mà còn bởi
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật trong
hiện thực các sự vật bật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau xong chất của chúng lại khác nhau. lOMoAR cPSD| 40419767
Ví dụ như kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học do các nguyên tố
cacbon tạo nên nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử cacbon là khác nhau vì
thế chất của chúng cũng hoàn toàn khác nhau. Kim cương rất cứng còn than chì mềm.
- Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó chưa chuyển hóa
thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Chẳng hạn như, trạng
thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về lượng của nhiệt độ từ 40-50 C chưa
làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi. 1.2: Lượng là gì ?
- Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị số
lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
- Lượng biểu hiện kích thước dài hay ngắn, quy mô to hay nhỏ, trinh độ cao hay thấp,
số lượng nhiều hay ít…
VD: Số lượng người trong một lớp học, vận tốc ánh sáng 300km/s,… Đặc điểm
- Lượng cũng mang tính khách quan như chất, là cái vốn có của sự vật
( số lượng nguyên tử của 1 nguyên tố hóa học,chiều cao chiều dài của 1 vật)
- Lượng thường được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể với con
số chính xác nhưng cũng có lượng biểu thị dưới dạng khái quát, phải dùng
tới khả năng trừu tượng hóa để nhận thức.
Ví dụ: Trình độ nhận thức, phẩm chất đạo đức của một con người..., ý thức
trách nhiệm cao hay thấp, mức độ tin cậy tín nhiệm cao hay thấp
- Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định
mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật.
Lưu ý: Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối, trong mối quan hệ này là lượng
nhưng trong mối quan hệ khác lại là chất.( số lượng sinh viên dỏi của 1 lớp sẽ nới lên cái chất học
tập giỏi của lớp đó )
VD: Trong mối quan hệ giữa người sinh viên năm thứ nhất với người học sinh năm thứ
hai là nói đến chất của sinh viên năm thứ nhất với năm thứ hai. Trong mối quan hệ với cả
khoá học thì năm thứ nhất với năm thứ hai lại là lượng.
2: Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
2.1: Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng,
chúng tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự vật, quy định về lượng không bao giờ tồn tại
nếu không có tính quy định về chất và ngược lại. Vì vậy, sự thay đổi về lượng của sự vật
có ảnh hưởng đến sự thay đổi về chất của nó và ngược lại, sự thay đổi về chất của sự vật
tương ứng với thay đổi về lượng của nó. lOMoAR cPSD| 40419767
Sự biến đổi về lượng có thể xảy ra theo hai hướng: sự tăng lên hoặc giảm đi về lượng
dẫn đến sự biến đổi ngay hoặc thay đổi dần dần về chất. Do chất là cái tương đối ổn định
còn lượng là cái thường xuyên biến đổi nên ở một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật
thay đổi chưa dẫn đến sự thay đổi về chất của nó. Giới hạn đó được gọi là độ.
Độ: là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới
hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật, sự
vật chưa biến thành cái khác.
VD: - quá trình học tập của sinh viên đại học 4 năm từ 2021-2025, 2025- 2029, ... Thì các
đoạn thời gian này chính là độ. Trong khoảng độ, lượng kiến thức không ngừng tăng lên
tuy nhiên vẫn chưa thể biến đổi chất sinh viên thành một cử nhân đã tốt nghiệp.
-độ tuổi trung bình của người Việt Nam là 73 tuổi vậy khoảng thời gian từ 0 đến
73 năm là độ của con người về mặt tuổi.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất.
Giới hạn đó chính là điểm nút.
Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về
lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.
Ví dụ : Các giới hạn 0 tuổi (khi sinh ra), 73 tuổi; các kỳ thi, các kỳ kiểm tra chính là các điểm nút.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do
sự thay đổi về lượng trước đó gây nên. Bước nhảy là sự kết thúc của một giai đoạn phát
triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới.
VD: từ học sinh tiểu học thực hiện bước nhảy thành học sinh trung học; từ cử nhân thực
hiện bước nhảy lên thạc sĩ...
Có 4 hình thức bước nhảy: Cơ sở phân loại Các loại bước nhảy Ví dụ Thời gian
Bước nhảy đột biến: là Khối lượng Uranium
bước nhảy được thực hiện 235(Ur 235) được tăng
trong một thời gian rất đến khối lượng tới hạn thì
ngắn làm thay đổi chất của sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử
toàn bộ kết cấu cơ bản của trong chốc lát. sự vật lOMoAR cPSD| 40419767
Bước nhảy dần dần: là
Quá trình chuyển hóa từ
bước nhảy được thực hiện vượn sang người
từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những
nhân tố của chất mới và
những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi. Quy mô
Bước nhảy cục bộ: là bước Chuyển từ kinh tế tập trung
nhảy làm thay đổi chất của quan liêu bao cấp sang nền
từng mặt, những yếu tố
kinh tế thị trường định riêng lẻ của sự vật. hướng XHCN
Bước nhảy toàn bộ: là Cách mạng tháng 8/1945
bước nhảy làm thay đổi
thành công đập tan xiềng
chất của toàn bộ các mặt,
xích nô lệ của thực dân
các yếu tố cấu thành sự vật
Pháp gần 1 thế kỷ của Việt Nam
VD: cho quá trình biến đổi lượng thành chất trong học tập của sinh viên:
Quá trình học tập của sinh viên là một quá trình dài, cần nhiều sự cố gắng, nỗ lực và thể
hiện một cách cụ thể, khái quát nhất mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng. [Quá
trình đó luôn có sự vận động, biến đổi mang tính quy luật.]Trong quá trình học tập dài
4 năm của sinh viên đại học, lượng không ngừng tăng lên, đó là kiến thức. Nó không chỉ
bao gồm những kiến thức cơ bản trong giáo trình, sách vở mà còn là những kĩ năng mềm
bên ngoài như cách sử dụng từ ngữ, ứng xử, xử lý thông tin, phân tích và giải quyết các
tình huống trong xã hội. Nhờ thế mà trình độ nhận thức của sinh viên cũng được thay đổi,
tầm tri thức của sinh viên được nâng cao và cải thiện hơn. Tuy nhiên quá trình đó chưa đủ
để làm nên thay đổi chất của sinh viên, nên quá trình đó chính là “độ”. Sinh viên phải
vượt qua những điểm nút, là những kì thi,đặc biệt là kì thi kết thúc học phần để nhận
bằng tốt nghiệp. Khi đạt được tấm bằng trong tay, khi đó sinh viên đã thực hiện một
“bước nhảy” quan trọng của cuộc đời, từ sinh viên đại học trở thành cử nhân đã tốt nghiệp.
2.2: S thay đ i v ch t d n đ n thay đ i m i v lự ổ ề ấ ẫ ế ổ ớ ề ượng
Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút.
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mới tác động tới
lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
VD: Sau khi đã tốt nghiệp đại học sinh viên học lên thạc sĩ, khi đó lượng kiến thức, kĩ
năng cần học cũng nhiều hơn, cần nhiều thời gian tự nghiên cứu, tìm tòi để thu nạp được nhiều hiểu biết hơn.
=>Từ đó có thể thấy với bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng
giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi
về chất thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại với lượng dẫn đến sự
thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành cách thức phổ biến của
các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
3: Ý nghĩa phương pháp luận lOMoAR cPSD| 40419767 -
Trong hoạt động thực tiễn hoạt động nhận thức chúng ta phải biết từng bước tích
lũy về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật . Cấu thanh 2 khuynh hướng
hoặc chủ quan duy ý trí hoặc bảo thủ trì trệ , không dám thực hiện bước nhảy. -
Trong linh vực xã hội phải có quyết tâm thực hiện và phải biết vận dụng linh hoạt
các hình thức của bước nhảy. Phải lựa chọn bước nhảy phù hợp để đạt chất lượng
và hiệu quả hoạt động của minh. -
Trong hoạt động thực tiễn cần phải biết sắp xếp, tổ chức tác động vào các yếu tố
của sự vật để sự vật phát triển theo chiều huơg tiến bộ.
Chương II: Vận dụng quy luật lượng-chất trong học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay.
Trong cuộc sống ,việc trang bị tri thức cho bản thân mỗi người luôn là một hành
trình dài và bền bỉ. Đòi hỏi con người ta sự kiên trì , quyết tâm không ngừng nghỉ . Điều
này còn thực sự quan trọng đối với các bạn học sinh, Bác Hồ cũng đã khẳng định điều
đấy qua câu: “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đà vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính
là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em , trong quá trình học tập không ngừng
nghỉ của mình chúng ta được trau dồi, được tiếp thu những kiến thức cơ bản về cuộc sống
qua các môn học lĩnh vực tự nhiên và xã hội . Bên cạnh đó, có tri thức thôi thì chưa đủ
,mỗi học sinh cũng cần trang bị thêm cho mình những kiến thức thực tiễn, những kĩ năng
mềm cần thiết cho cuộc sống sau này. Sau quá trình học tập 12 năm học trung học và phổ
thông, người học sinh vượt qua các nút với bước nhảy theo quy luật chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, để tích lũy đủ lượng là kiến thức, tạo cho
minh bước nhảy vọt đột phá qua điểm nút là kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia, tiến
vào môi trường mới là ngôi trường Đại học mơ ước. Trở thành một sinh viên, mở ra một
giai đoạn phát triển mới của chất và lượng.
1:S khác bi t c b n gi a vi c h c t p ph thông và Đ i h cự ệ ơ ả ữ ệ ọ ậ ở ổ ạ ọ
Sự giống nhau giữa việc học tập ở phổ thông cũng như việc học tập ở Đại học đó là đều
phải tích lũy đủ kiến thức và hòan thành các môn học , học phần đúng theo quy định đã
đề ra .Nhưng sự khác biệt cơ bản về việc trau dồi kiến thức ở bậc Đại học có sự khác biệt
về chất so với học tập ở phổ thông . Sự khác biệt đó nằm ở chỗ, sinh viên không chỉ tiếp
nhận bài học kiến thức một cách đơn thuần mà còn phải tự mình tìm tòi nghiên cứu, dựa
trên những kỹ năng mà giảng viên đã cung cấp, hướng dẫn. Rõ ràng có thể thấy ở bậc đại
học, việc học tập của sinh viên khác hẳn về chất so với học sinh ở phổ thông. Việc tiếp
thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú , từ cơ bản đến chuyên
sâu, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp. Từ sự thay đổi về chất do sự tích lũy về
lượng trước đó - ở đây là bậc học phổ thông tạo nên, chất mới ( sinh viên )cũng tác động
trở lại lượng- đó là lượng kiến thức phải tiếp thu vào tăng lên bằng quá trình học tập , tích
lũy kiến thức dài . Với nền tảng tri thức mới , nhận thức của sinh viên dần có sự thay đổi ,
có sự linh hoạt hơn không rập khuôn máy móc qua nhiều, lượng tri thức dần dần tăng lên.
2:Nh ng khó khăn c a sinh viên hi n nayữ ủ ệ
Học tập đó là một quá trình dài, khó khăn và cần sự nỗ lực không ngừng nghỉ không chỉ
từ gia đình, nhà trường mà còn cần từ chính mỗi người học. Học tập đã khó nhưng học lOMoAR cPSD| 40419767
trong thời kỳ dịch Covid-19 thì càng là một thách thức lớn đối với các bạn sinh viên đặc
biệt là sinh viên năm nhất .Các bạn sinh viên phải học online kéo dài ở nhà gây ra tình
trạng chán nản , mất tập trung ,cũng như thiếu động lực trong việc học tập. Là sinh viên
thì không thể thiếu 2 kỹ năng quan trọng đó là ngoại ngữ và công nghệ thông tin, nhưng
hầu hết sinh viên đều là học sinh từ tỉnh lẻ nên trình độ , sự tiếp cận với 2 kỹ năng này
còn rất ít .Thêm nữa là sinh viên chưa biết sắp xếp thời gian học tập một cách hợp lý nên
luôn để dồn lại rồi làm và gây nên tình trạng mệt mỏi cũng như bài làm không đạt hiểu
quả cao. Một vấn đề nan giải nữa là hiện nay sinh viên thường chỉ nghĩ đến việc học làm
sao cho qua môn , mục tiêu về việc làm , sự nghiệp tương lai vẫn còn chung chung mơ
hồ.Quả thật tuổi trẻ mà không có mục tiêu thì thật lãng phí. Muốn đạt được mục tiêu ước
mơ đó trước hết cần phải học tập thật tốt. Nhưng học như thế nào, học ra sao để đạt được
mục tiêu quả không phải là dễ.Vì vậy, trước hết mỗi chúng ta phải xác định rõ cho mình
phương pháp học tập đúng đắn . Do đó, quy luật lượng-chất có ý nghĩa vô cùng to lớn
đối với việc học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay
. 3:Gi i phápả
Là một sinh viên, với chất mới trưởng thành, chín chắn và biết suy nghĩ nhiều hơn. Phải
nhận ra được những hạn chế đang gặp phải và chủ động thay đổi và thích nghi.
Luôn tuân theo quy trình tích lũy đủ về lượng để làm thay đổi về chất. Muốn có sự thay
đổi về chất phải trải qua một quá trình lâu dài để tích lũy lượng. Trong học tập cũng vậy,
không nên vội vàng , nóng vội, phải tích lũy một cách dần dần
. Bác Hồ đã nói” vì sự
nghiệp 10 năm trông cây, vì sự nghiệp trăm năm trồng người”. Qua đó thấy được quá
trinh tích lũy là rất lâu dài không thể một sớm một chiều mà hoàn thành được. Trong quá
trình học tập,sinh viên cần xác định rõ mình phải học gì, cũng như cái mục tiêu mình
muốn hướng tới là gì , để tích lũy dần về kiến thức, theo quy trình đến độ chín muồi rồi
mới thực hiện bước nhảy ở thời điểm phù hợp. Trong đó, lượng là số tín chỉ, quá trình
học tập là độ, các bài thi là điểm nút, và hòan thành các môn là bước nhảy.
Phải có quyết tâm thực hiện bước nhảy khi đã đến điểm nút, nếu không thực hiện bước
nhảy thì cả quá trinh trong độ chỉ là sự tích lũy về lượng, gây chậm trễ, không có sự xuất
hiện của chất mới ảnh hưởng tới quá trinh phát triển và rèn luyện.
Cần phải nhìn nhận rõ cách thức để đạt được mục tiêu đó là thông qua việc vận dụng linh
hoạt các hình thức của bước nhảy. Xem xét từng đặc thù mỗi môn học, từ đó, chủ động
tìm hiểu nội dung bài học trước để có cái nhìn tổng quát và tiền đề tiếp thu sâu sắc những
kiến thức mới thông qua giao trinh, thông tin trên mạng, sách báo…Sau mỗi buổi học , tự
tổng hợp lại kiến thức, nội dung bài học đã nghe giảng, cố gắng liên hệ với thực tiễn để
có cái nhìn đa chiều, đồng thời liên kết với các nội dung trước đó để không bị đứt đoạn
quá trinh tích lũy về lượng. Không e ngại trao đổi với giảng viên về các vấn đề còn băn
khoăn hay chia sẻ kiến thức với người bạn. Thêm nữa cần cập nhật những thông tin sự
kiện những biến động mới nhất để nâng cao trinh độ hiểu biết.
Ngoài trang bị lượng kiến thức mà cần trang bị thêm nhũng kĩ năng mềm cần thiết để tự
tin bước ra đời. Bằng việc tham gia các câu lạc bộ ở trường để vừa học hỏi được những
kiến thức bổ ích mà còn có thêm những mối quan hệ mới tăng trình độ giao tiếp. Hoặc lOMoAR cPSD| 40419767
cũng có thể đi là thêm để tạo thêm thu nhập nhưng điều quan trọng hơn cả là ta được va
vấp được cọ xát với xã hội cũng như cải thiện kỹ năng giao tiếp.
Tích cực , tự giác rèn luyện phẩm chất bản linh thể hiện bản thân, tự tin chớp lấy những
cơ hội mang lại thành công cho chính mình.
Chuẩn bị một tinh thần mạnh mẽ, dám đương đầu với khó khăn thử thách trong cuộc
sống. Tự tạo động lực cho bản thân , tinh thần khiêm tốn và cầu tiến bước lên phía trước.
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý
nghĩa phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên trong môi
trường Đại Học văn hóa thể thao và du lich Thanh Hóa như sau:
*Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học
So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ Đại học tăng lên một
cách đáng kể. Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ kéo dài
trong một năm, vì thế khối lượng kiến thức được chia đều ra kiến học sinh dễ dàng
tiếp nhận hơn. Trong khi ở Đại học một môn chỉ kéo dài khoảng 8 đến 18 buổi học
(từ 1 đến 2 tháng). Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về số lượng kiến thức sẽ khiến
tân sinh viên gặp những khó khăn. Chính vì thế sinh viên cần phải chủ động tìm
hiểu và sãn sàng để thích nghi với sự thay đổi này. Không chỉ khác biệt về khối
lượng kiến thức, học đại học và phổ thông còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến
thức. Tiếp đến là các nhiệm vụ trong học tập, nếu học phổ thông hoạt động chủ
yếu là ở trên lớp còn học đại học còn đi kiến tập, thực tập,...Đây là cơ hội cũng
nhưng cũng là thách thức cho sinh viên.. Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ
không chỉ là sự thay đổi về hình thức, bởi vậy có thể nới sự chuyển đổi từ phổ
thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính
vì vậy mà người sinh viên cần phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với
hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu của ngành giáo dục đối với Đại học. Chỉ
khi nào làm được như vậy sinh viên mới hy vọng đạt được những thành tích rực
rỡ trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
* Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diến ra
bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước
nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng không nằm ngoài điều
đó. Để có một tầm bằng Đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số lượng các tín chỉ
của các môn học. Như vậy có thể coi học tập là quá trình tích lũy về lượng mà lOMoAR cPSD| 40419767
điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy và điểm số xác định quá trình tích lũy
kiến thức đã đủ dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay chưa. Do đó, trong hoạt động
nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về lượng ( tri thức)
làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật. Cần học tập đều đặn hạng
ngày để chất được thấm sâu vào mỗi sinh viên. Tránh gặp gấp rút mỗi khi sắp đến
kỳ thi, như vậy là thiếu kinh nghiệm nhận thức được trong quá trình học tập. Tránh
tư tưởng chủ quan, nóng vội trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hàng ngày.
Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu những kiến
thức mới và lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường để làm
việc ngay được vì kiến thức mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa đảm bảo để
ta làm việc. Nhưng nếu qua 4 năm mỗi sinh viên học tập và rèn luyện chăm chỉ để
tích lũy kiến thức, tích lũy kinh nghiệm qua thầy cô, qua những lần đi thực
tập...(lượng) và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, đảm bảo về chuyên môn cho
mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và biến đổi sang chất mới.
* Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc,trung thực.
Trong thực tiễn đời sống của con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần có sự
tích lũy về lượng, sự tích lũy ấy là do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu, đánh
đổi bằng sức lao động mà có được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ nào khác.
Để làm rõ ý kiến trên, chúng ta cùng suy ngẫm về câu chuyện ngụ ngôn sau: “ Một
người nọ tìm thấy cái kén của con bướm. Anh ta nhận thấy cái kén này bắt đầu
được cắn rách, sâu bướm bắt đầu bò ra. Quan sát một hồi lâu, anh thấy con sâu
bướm cố hết lách thân mình qua lỗ hổng mà không được. Động lòng thương, anh
ta lấy kéo cắt vết rách của cái kén để sâu bướm ta vượt ra ngoài đễ dàng. Khi sâu
bướm ra khỏi kén, thì thân hình lớn ra nhưng đôi cánh thì nhỏ lại. Người nọ cố
chờ xem con bướm có thể phát triển thêm ra không? Mong rằng đôi cánh kia có
thể nở rộng thêm để đủ sức bay đi. Than ôi! Vô ích! Con bướm đã trọn đời tàn tật,
lê lết với cái cánh nhỏ bé không thể bay đi được”.
Người nọ vì lòng thương mà hấp tấp làm hỏng cuộc đời của con bướm. anh không
biết luật của tạo hóa bắt buộc con sâu bướm phải tự phấn đấu để vượt qua khỏi
lỗ nhỏ của cái kén. Trong lúc phấn đấu đó, huyết mạch sẽ được luân lưu từ thân
mình cho đến đôi cánh và sau khi vượt ra khỏi cái kén, bướm ta mới có đủ sức
vươn đôi cánh lớn ra mà bay bổng.
Hãy trở lại với việc học tập và rèn luyện của sinh viên. Trong một kỳ thi,
nếu có sinh viên gian lận để một kết quả tốt thì chẳng khác gì con sâu bướm bé
nhỏ tội nghiệp kia. Bằng gian lận, ta có thể qua được kỳ thi, nhưng về bản chất thì
vẫn chưa có được biến đổi nào về chất, khi học những kiến thức sâu hơn, khó
hơn chắc chắn ta sẽ không tiếp thu được, không đáp ứng được yêu cầu công lOMoAR cPSD| 40419767
việc sau này và nếu ta giúp đỡ bạn bè theo theo cách của anh chàng trong câu
chuyện kia thì không khác gì chúng ta đang hại họ.
* Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóngvội đốt cháy giai đoạn
Trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên cần tránh tư tưởng tả khuynh,
tức là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy . Sinh viên
khi học đủ những kiến thức cơ bản có sự biến đổi về chất mới có thể học tiếp
những kiến thức sâu hơn, khó hơn. Học tập nghiên cứu từ dễ đến khó là phương
pháp học tập mang tính khoa học mà chúng ta đều biết nhưng trong thực tế, không
phải ai cũng có thể thực hiện được. Nhiều sinh viên trong quá trình đi học tập do
không tập trung, còn mải mê vui chơi , dẫn đến sự chậm chễ trong học tập, rồi “
nước tới chân mới nhảy” khi sắp thi họ mới tập trung cao độ vào việc học. Giai
đoạn ôn thi là lúc ta củng cố lại kiến thức chứ không phải học mới, do đó sinh viên
học tập chăm chỉ trong thời gian này không thể đảm bảo lượng kiến thức qua được
kỳ thi. Ngược lại có nhiều sinh viên có ý thức học ngay từ đầu , nhưng họ lại nóng
vội, muốn học nhanh, nhiều để hơn người khác, chưa học cơ bản đã đến nâng
cao, “chưa học bò đã lo học chạy”. Như vậy, muốn tiếp thu được tri thức ngày
càng nhiều và đạt được kết quả cao, thì mỗi sinh viên cần phải hàng ngày học tập,
học từ thấp đến cao, từ dễ đến khó để có sự biến đổi về chất.
*Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Khi bước chân vào Đại học, có một bộ phận không nhỏ trong sinh viên tự mãn với
những gì đã đạt được, không tiếp tục nỗ lực và phấn đấu vươn lên, sống không
có lý tưởng, hoài bão. Nhưng bên canh đó một số sinh viên có ý thức rèn luyện và
phấn đấu học tập để có trình độ tri thức cao nhất.
Xét theo quan điểm của triết học, chất thay đổi sẽ tác động trở lại lượng của sự
vật. Sự tác động đó được thể hiện: Chất mới có thể làm thay đổi kết cấu quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vật. Khi đã đỗ vào đại học, trở thành sinh viên chúng ta
được tiếp cận những tri thức cao hơn, sâu hơn. Nhiệm vụ của mỗi sinh viên là
phải tiếp tục học hỏi, trau dồi thêm những kiến thức ( tích lũy về lượng), trở thành
những giáo viên, nhà quản lý văn hóa, họa sỹ...đóng góp cho xã hội, tránh tinh
thần thỏa mãn với những gì đã đạt được.
Trong quá trình học tập, sinh viên phải trải qua rất nhiều kỳ thi. Kết quả tốt
của các kỳ thi đánh dấu ta kết thúc một giai đoạn và là bước khởi đầu cho ta sang
một giai đoạn mới đòi hỏi chúng ta có một trình độ cao hơn, lượng kiến thức nhiều
hơn, chính vì vậy, mỗi sinh viên cần phải không ngừng học tập phấn đấu để tiếp
cận những tri thức mới ở trình độ cao hơn. Nó giúp chúng ta tránh được tư tưởng
bảo thủ, trì trệ trong học tập rèn luyện. *Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên lOMoAR cPSD| 40419767
Ngạn ngữ Trung quốc có câu” Gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính
cách, gieo tính cách găp số phận” câu nói đó có ý nghĩa triết học của nó. Đó là
quy luật lượng- chất trong triết học, rõ ràng là, những thói quen mà chúng ta đang
có được hình thành từ sự tích lũy của nhiều hành vi được lặp đi lặp lại trong cuộc
sống hàng ngày, nhiều thói hư như thế đến lượt nó lại quyết định đến tính cách
của chúng ta, và số phận của mỗi con người phụ thuộc vào tính cách của họ. Khi
tích lũy hành vi (lượng) dần dần sẽ tạo nên thói quen (chất), sinh viên cần rèn
luyện cho mình tính chăm chỉ, tự chủ năng động trong quá trình học tập, tích lũy
tri thức giản đơn nhất từ những thói quen hàng ngày. Trong cuộc sống cũng như
trong quá trình học tập sinh viên phải rèn luyện hàng ngày để hình thành những
thói quen học tập, rèn luyện tốt, như: phải biết tiết kiệm thời gian, làm việc nghiêm
túc và khoa học,....tích lũy nhiều thói quen như vậy sẽ góp phần hình thành nên
tính cách, giúp chúng ta thành công trong học tập cũng như trong cuộc sống.
*Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên.
Một tập thể bao gồm nhiều cá nhân. Mỗi cá nhân có phẩm chất tốt (lượng) sẽ
góp phần tạo nên “chất” tốt cho tập thể đó. Một lớp học tập tốt, nếu trong lớp có
nhiều cá nhân có ý thức học tập tốt, luôn cố gắng để phấn đấu đạt được thành
tích cao. Một lớp đoàn kết nếu các cá nhân luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Có
thể nói uy tín, thành tích của một lớp phụ thuộc vào sự phấn đấu nỗ lực của mỗi sinh viên.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng
và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc
học tập và rèn luyện của sinh viên trường Đại học Văn hóa thể thao và Du lich
Thanh Hóa hiện nay. Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của sự
vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất đinh mới làm thay đổi về
chất, do đó trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của sinh viên phải tích
lũy dần về lượng và đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những
bước nhảy khi có điều kiện chín muồi để biến đổi về chất. Những việc làm vĩ đại
của con, bao giờ cũng tổng hợp những việc làm bình thường, vì vậy mỗi sinh
viên phải luôn tích cực học tập, chủ động trong công việc học tập và rèn luyện
của mình cả đức và tài, để trở thành một con người phát triển toàn diện, tránh tư
tưởng chủ quan, nóng vội mà không chịu tích lũy về kiến thức (lượng). Cũng
như trong hoạt động của mình ông cha thường có câu: “tích tiểu thành đại”,
“năng nhặt, chặt bị”...đó sao.