/14
lOMoARcPSD| 61432759
I. Nội dung
1. Khái niệm về lượng và chất
a) Khái niệm về chất
- Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sựvật,
hiện tượng.
- sự thống nhất hữu của các thuộc tính, yếu tố tạo nên s vật, hiện
tượngkhác.
*Đặc điểm của chất:
- Thể hiện tính tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng. Nghĩa khi
chưachuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chấ của vẫn chưa thay
đổi. - Mỗi sự vật, hiện tượng đều quá trình tồn tại phát triển qua nhiều
giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng.
→ Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ một chất mà có thể có nhiều chất.
Nhờ đó, con người thể phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng
khác.
dụ: Nguyên tố đồng (Cu) nguyên tử khối 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy
1083o C, nhiệt độ sôi 2880oC...Những thuộc tính (tính chất) này nói lên
chất riêng của đồng, phân biệt nó với các kim loại khác.
*Mối quan hệ giữa chất và sự vật:
- Có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau.
- Trong hiện thực khách quan khôn thể tồn tại sự vật không có chất và khôngthể
có chất nằm ngoài sự vật.
*Biểu hiện của chất:
Chất của sự vật được biểu hiện thông qua những thuộc tính của nó, nhưng không
phải bất kì thuộc tính nào cũng có sự biểu hiện chất ca sự vật.
lOMoARcPSD| 61432759
- Thuộc tính của sự vật những tính chất, những trạng thái, những yếu tố kếtcấu
thành sự vật. Đó là những cái của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được
hình thành trong sự vận động và phát triển của sự vật.
- Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất củasự
vật.
- Thuộc tính của sự vật thuộc tính bản thuộc tính không bản.+ Thuộc
tính bản: những thuộc tính được tổng hợp lại tạo thành vật chất của sự
vật, quy định stồn tại, vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng
thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Những thuộc tính ấy
chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác.
dụ; Con người khác với động vật chính là nhờ các quy định vốn của con
người: khả năng ché tạo khí, máy móc khả năng sử dụng công cụ, duy...
- Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những nguyên tố tạothành
mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành ( kết cấu của sự vật
). Trong hiện thực các svật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất
của chúng lại khác nhau.
dụ: Kim cương than chì đều cùng thành phần cấu tạo hóa học
nguyên tố Cacon tạo nên, nhưng do phương thức liên kết giữa các nuyên tố
Cacbon là khác nhau nên chất của chúng hoàn toàn khác nhau. → Kim cương
rất cưng còn than chì rất mềm. b) Khái niệm về lượng
- phạm trù triết học dùng để chỉ thuộc tính vốn của sự vật về mặt sốlượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc
tính của sự vật.
lOMoARcPSD| 61432759
- Lượng là cái khách quan, vốn của sự vật, quy định sự vật ấy nó. Lượngcủa
sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thực của con người.
*Biểu hiện của lượng:
- Lượng của sự vật biểu hiện kích thước dài hay ngắn , số lượng ít hay nhiều,quy
mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm. Ví dụ: Đơn
vị đo lường cụ thể như vận tốc ánh sáng xấp xỉ là 300000km trong 1 giây,...
- Lượng có thể biểu thị dưới dạng trìu tượng và khái quát.
dụ: Trình độ nhận thức của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của
một công dân,...
- Lượng còn biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của svật (số lượng nguyên tửhợp
thành nguyên tố hóa học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống hội) hoặc
những lượng còn vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài,
chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Phân biệt lượng và chất: chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ thuộc vào từng
mối quan hệ cụ thể xác định. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là
chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của svật
ngược lại.
dụ: Xét con số 16 nhiều cách xác định khác nhau: tích của 2 8, bính
phương của 4,...
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất.
- Bất sự vật, hiện tượng nào cũng sự thay đổi thống nhất giữa mặt chất
vàmặt lượng. Chúng tác động qua lại với nhau. Trong sự vật, quy định về lượng
không bao gitồn tại nếu không tính quy định về chất ngược lại. - Quy
lOMoARcPSD| 61432759
luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vật hiện tượng đã tích lũy những
thay đổi về lượng đến một ngưỡng nhất định.
- Quy luật này cũng chỉ ra tính chất của svận động phát triển, cho thấy
sựthay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng diễn ra từng bước và kết hợp với sự
thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật, hiện tượng vừa những bước tiến
tuần tự, vừa có những bước tiến đột phá.
- Chất lượng luôn luôn gắn liền với nhau, không tách rời nhau bởi
mỗisự vật, hiện tượng đều phải tính quy định về chất lại vừa tính quy định
về lượng nên không có chất thiếu lượng và ngược lại.
- Lượng có xu hướng biến đổi liên tục, nó được tích lũy dần dần. Còn chất
cóxu hướng ổn định, ít thay đổi. Do đó không phải mọi sự thay đổi về lượng đều
làm cho chất thay đổi. Khi lượng biến đổi trong một giới hạn nhất định nào đó
thì chất của sự vật về bản vẫn giữ nguyên. Giới hạn đó gọi độ. dụ: Nước
ở điều kiện thường từ 0
oC đến 100oC là chất lỏng (trạng thái lỏng)... (có độ cụ thể, có độ tương đối).
Như vậy độ là một khoảng giới hạn mà trong đó những thay đổi về lượng chưa
dẫn đến những biến đổi căn bản về chất.
-Trong quá trình phát triển của sự vật thì lượng phát triển trước. Sự tích lũy dần
dần về lượng đến một lúc nào đó sẽ vượt quá độ cho phép, khi đó chất của sự
vật sẽ thay đổi theo. Như vậy phải có sự tích lũy đủ về lượng thì mới dẫn đến sự
biến đổi về chất. Điểm giới hạn mà tại đó diễn ra sự biến đổi về chất của sự vật
được gọi là điểm nút.
lOMoARcPSD| 61432759
- Khi lượng biến đổi đạt đến điểm nút thì quá trình biến đổi về chất sẽ diễn
ra,nhưng không diễn ra tức thời, nó được thực hiện thông qua một giai đoạn
được gọi bước nhảy. Bước nhảy giai đoạn biến đổi chất của sự vật do những
thay đổi về lượng của chất đố gây nên. Các bước nhảy diễn ra theo những quy
mô và nhịp điệu khác nhau.
+ Theo quy mô: có bước nhảy cục bộ (bước nhảy quy mô nhỏ), bước nhảy toàn
bộ (bước nhảy quy mô lớn)
+ Theo nhịp điệu: bước nhảy đột biến (bùng nổ - diễn ra nhanh; dụ: phản
ứng hóa học...), bước nhảy dần dần (thời gian tương đối dài – diễn ra rất chậm;
ví dụ: hạt thóc nảy mầm, cải cách xã ội, sự tiến hóa của loài người,...) - Sau khi
chất mới ra đời thay thế cho chất cũ thì nó sẽ tác động trở lại làm cho lượng tay
đổi theo. Bởi tương ứng với chất mới phải một lượng mới, lượng này sẽ
biến đổi với một quy mô, một tốc độ mới (ví dụ: quá trình học tập của trtừ bậc
tiểu học đến bậc cao hơn). Đây sự tác động trở lại của chất đối với lương. Như
vậy cứ mỗi khi chất thay đổi thì nó đòi hỏi lượng cũng phải thay đổi theo.
a) Chất và lượng có mối quan hệ thống nhất với nhau
- Chất lượng không tách rời nhau, tác động lẫn nhau một cách
biệnchứng bởi mỗi sự vật, hiện tượng đều phải tính quy định về chất lại
vừa có tính quy định về lượng, nên không có chất thiếu lượng và ngược lại.
- Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự
thayđổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự
thay đổi về chất. Giới hạnsự thay đổi về lượng chưa làm làm chất thay đổi
gọi độ. (Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất lượng,
khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi vlượng chưa làm thay đổi căn bản
lOMoARcPSD| 61432759
chất của sự vật, hiện tượng. vậy, trong giới hạn độ, sự vật, hiện tượng vẫn
còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.)
Ví dụ: Người sống lâu nhất trên thế giới theo Guinness công nhận có tuổi thọ là
118 tưởi. Như vậy giới hạn t0 118 năm “độ” của con người xét về mặt
tuổi.
b) Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất
- Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sthay
đổivề lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến
những sự thay đổi về chất. Đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt
tới điểm nút, với những điều kiện nhất định sẽ tất yếu dẫn đến sự ra đời của
chất mới (sự thay đổi vlượng đạt đến điểm nút). Đây chính bước nhảy trong
quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng .
Ví dụ: 0oC, 100oC, 118 tuổi... là điểm nút.
- Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong
quátrình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều
hình thức bước nhảy khác nhau, được uyết định bởi mâu thuẫn, tính chất
điều kiện của mỗi sự vật. Đócác bước nhảy: nhanh và chậm, lớn nhỏ, cục
bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác,... Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận
động, phát triển; đồng thời , đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới,
sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện
tượng.
dụ: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước một bước nhảy.Có bước
nhảy này là do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100oC.
*Các hình thức bước nhảy:
lOMoARcPSD| 61432759
- Bước nhảy đột biến: bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh
chóngở tất cả các bộ phận cấu thành sự vật.
- Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian
dài.- Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật tất cả các
mặt các bộ phận các yếu tố cấu thành nên sự vật.
- Bước nhảy cục bộ: bước nhảy làm thay đổi một số bphận của sự
vật.c) Lượng tác động trở lại chất
- Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mói
tácđộng tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi
kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng.
Ví dụ: Nếu bạn tăng thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi game tsẽ thu
nhận được nhiều kiến thức hơn, làm bài sđạt được nhiều điểm cao hơn.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa
hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn
đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời , chất mới sẽ tác động
trở lại lượng, tạo ra nhữn biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá
trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức bản, phổ biến của các quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, hội
duy.
3. Ý nhĩa phương pháp luận của quy luật lượng – chất
a) Ý nghĩa trong nhận thức
- Nhờ phương pháp luận lượng chất chúng ta hiểu rằng bất cứ sự
vật,hiện tượng nào cũng đều vận động và phát triển.
lOMoARcPSD| 61432759
- Bất ksự vật, hiện tượng nào cũng đều hai mặt chất lượng, do đó
khinhận thức, ta cần phải nhận thức cả hai mặt để tri thức toàn diện, phong
phú về sự vật, hiện tượng.
- Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác
địnhgiới hạn độ, điểm nút, bước nhảy.
- Phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất. Sự
thayđổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất chất thay đổi ảnh hưởng lớn
đến lượng.
b) Ý nghĩa trong thực tiễn
- Phải biết kiên trì, tích lũy về lượng để biến đổi về chất, không được nônnóng
cũng như không được bảo thủ.
- Cần tránh hai khuynh hướng sau:
+ Nôn nóng tả khuynh: hành động bất chấp quy luật, chủ quan, không tích lũy
về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện các bước nhảy liên tục về chất. + Bảo thủ
hữu khuynh: sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước
nhảy mặc lượng đã tích lũy tới điểm nút quan niệm phát triển chỉ đơn
thuần là sự biến hóa về lượng.
- Khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy yêu cầu khách
quancủa sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Nếu không muốn sự thay đổi v chất thì cần biết các kiểm soát lượng
tronggiới hạn độ.
- Bước nhảy hết sức đa dạng phong phú về hình thức cho nên trong hoạtđộng
thực tiễn phải vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy khác nhau cho phù
hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
lOMoARcPSD| 61432759
→ Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực
hiện bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện hoàn cảnh
cụ thể để tránh được những hậu quả không đáng có như không đạt được sự thay
đổi về chất dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu. Nói cách
khác, trong hoạt động thực tiễn, không những cần xác định quy mô và nhịp điệu
bước nhảy một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khuôn mà còn
phải quyết tâm nghị lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín mùi,
chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép,
chuyển thay đổi manh tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng.
II. Thực tiễn
Sau khi được học và thuyết trình về quy luật lượng đổi chất đổi và ngược lại có
thể rút ra vài kết luận ý nghĩa phương pháp luận đối với việc nâng cao kết
quả học tập của sinh viên như sau.
So với lượng kiến thức ở các cấp dưới thì kiến thức ở đại học tăng lên một cách
đáng kể. Một dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn kéo dài trong
một năm khối lượng kiên thức của mỗi buổi học sẽ chỉ là một phần nhỏ của
một chương nhưng đối với chương trình học của đại học thì một môn shọc
trong tầm 8 đến 15 buổi ( kéo dài khoảng từ 1 đến 3 tháng ) kiến thức mỗi
buổi học thể cả một chương tùy mỗi môn. Như vậy cho thấy sự tăng lên
đáng kể về lượng kiến thức sẽ là trở ngại của các tân sinh viên. Chính vì thế đòi
hỏi sinh viên cần phải chủ động tìm hiểu và thích nghi với sự thay đổi này.
Không chỉ khác biệt vkhối lượng kiến thức, đại học còn đa dạng kiến thức hơn
những môn chúng ta đã được đề cập một phần nào đó trong sách giáo khoa
của các cấp dưới nhưng lại những môn mới lạ thậm chí chúng ta chưa nghe
lOMoARcPSD| 61432759
qua bao giờ. Tiếp đến các nhiệm vụ trong học tập, các cấp dưới chúng ta
đơn thuần chỉ là đến lớp học và đi về thì ở đại học cón nhiều hình thức học tập
khác như đi kiến tập, thực tập, đi thực tế,... Đây cũng hội nhưng cũng
những thách thức cho sinh viên để họ chứng tỏ được năng lực thực sự của mình.
Ở đây là sự khác nhau về chất chứ không phải là sự thay đổi hình thức bởi vì sự
chuyển đổi từ phổ thông lên đại học cũng giống như quá trình biến đổi lượng
thành chất. Chính vì vậy người sinh viên cần phải thay đổi sao cho phù hợp với
yêu cầu của ngành giáo dục đới với bậc đại học. Chỉ khi nào làm được như vạy
thì sinh viên mới đạt được những thành tựu rực rỡ trong quãng thời sinh viên
của mình.
Như chúng ta đã biết,sự vận động và phát triển của một sự vật diễn ra bằng cách
tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định sẽ thực hiện bước nhảy đ
chuyển về chất việc học tập ca sinh viên cũng như vậy. Để có một tấm bằng
đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số lượng tính chỉ các môn học. Như vậy
có thể coi quá trình học tập thu thập đủ số lượng tín chỉ của từng môn
là lượng mà điểm nút là các kì thi, thi cử là bước nhảy và điểm số xác định quá
trình tích lũy kiến thức đã đủ để dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay chưa. Do đó,
trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết rằng bước tích lũy về
lượng (kiến thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật. Cần tự
giác học tập mỗi ngày để lượng thấm sâu vào mỗi sinh viên. Tránh việc gáp rút
mỗi khi thi đến hay học tất cả chỉ trong một điêm (one night for all) như
thế cho thấy việc thiếu kinh nghiệm nhận thực trong quá trình học tập. Tránh
tưởng chủ quan, nóng vội trong hoạt động học tậpthực tiễn hàng ngày. Hàng
ngày, các inh viên đặc biệt là các tân sinh viên cần phải đến trường học tập đầy
lOMoARcPSD| 61432759
đủ để tiếp thu được những kiến thức mới vì những kiến thức này có khi ta nghĩ
là chẳng cần nhưng đến khi đi làm ta ngẫm nghĩ lại thì nó lại là những quy luật
ngày xưa ta đc học trên giảng đường. tích tiểu thành đại, thường là sau 4 năm
đại học những kiến thức, kinh nghiệm ta tích lũy được qua các thầy hay những
lần đi thực tập (lượng) và tốt nghiệp đại học đạt kết quả cao, đảm bảo về chuyên
mỗi thì mỗi sinh viên sra trường và đi làm. Nói cách khác chất đã thay đổi
thành chất mới.
Trong thực tiễn đời sống mỗi con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần có sự
tích lũy về lượng, sự tích lũy ấy là do bản thân mỗi chúng ta phấn đấu, đanh đổi
mới được, chứ không nhờ vào sự giúp đỡ của người khác. Chúng ta sẽ tìm
hiểu thông qua câu chuyện ngụ ngôn “Cái kén con bướm”. “Một người đàn
ông tìm thấy một cái kén của sâu bướm. Con sâu dường nđang cố gắng để
chui ra khỏi kén. Người đàn ông ngồi xuống quan sát cái kén suốt hàng giờ
nhưng dường như con sâu bướm phải vật lộn rất vất vả chỉ tạo ra được một
chiếc lỗ nhỏ xíu. Đột nhiên dừng lại dường như kiệt sức, bế tắc. Người
đàn ông quyết định giúp con bướm có thể chui ra ngoài bằng cách dùng kéo cắt
lỗ trên chiếc kén rộng thêm một chút nữa. Sau đó, con bướm nhỏ đã thể thoát
ra khỏi kén dễ dàng hơn nhưng thể dường như yếu ớt, đôi cánh m ró.
Người đàn ông vẫn đó, chờ cho đôi cánh bướm thể dang rộng và con bướm
bay lên. Tuy nhiên, điều đó không bao giờ xảy ra. Con bướm sẽ chỉ có thể sống
phần đời con lại bằng cách với thể khuyết tật đôi cánh rúm . không
bao giờ thể bay. Mặc dù, người đàn ông có lòng tốt, nhưng anh ta không hiểu
quy luật của tự nhiên. Cái kén chật hẹp thử thách để sâu thể hóa bướm. Chỉ
có tự mình nỗ lực thoát khỏi cái kén, chất lỏng trong cơ thể sâu mới chuyển hết
sang đôi cánh, giúp thể bay tự do.” Người đàn ông lòng thương đã
lOMoARcPSD| 61432759
không may làm hỏng cuộc đời của một con bướm. Anh ta không biết được theo
quy luật của tự nhiên con bướm phải tự chui ra khỏi cái kén của phải
trải qua qtrình ấy con bướm mới có thể tự mình cất cánh bay. Quay trở lại với
việc học tập của sinh viên. Nếu trong kì thi ta có sử dụng phương pháp gian lận
để vượt qua kí thi thì khác gì con bướm kia , khi ta vượt qua được kì thi là một
chuyện nhưng kiễn thức của ta không chắc khi học sâu sẽ thấy khó hiểu
hồ, nếu gặp các kiến thức khó hơn thta sẽ không tiếp thu được sau
này sẽ không hoàn thành được yêu cầu của công việc.
Trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên cần tránh tưởng tả khuynh,
tức là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy. Sinh viên
khi học đủ những kiến thức bản sbiến đổi về chất mới thể học tiếp
những kiến thức sâu hơn, khơn. Học tập nghiên cứu từ dễ đến khó là phương
pháp học tập mang tính khoa học chúng ta đều biết nhưng trong thực tế,
không phải ai cũng có thể thực hiện được. Nhiều sinh viên trong quá trình học
tập do không tập trung, còn mải vui chơi, dẫn đến sự chậm chễ trong học
tập, rồi “nước tới chân mới nhảy” khi sắp thi hmới tập trung cao độ vào việc
học. Giai đoạn ôn thi là lúc ta củng cố lại kiến thức chứ không phải học mới, do
đó sinh viên học tập chăm chỉ trong thời gian này không thể đảm bảo lượng kiến
thức qua được kỳ thi. Ngược lại nhiều sinh viên ý thức học ngay từ đầu,
nhưng họ lại nóng vội, muốn học nhanh, nhiều để hơn người khác, chưa hc cơ
bản đã đến nâng cao, chưa học xong đại cương đã muốn học chuyên ngành luôn.
Như vậy, muốn tiếp thu được tri thức ngày càng nhiều và đạt được kết quả cao,
thì mỗi sinh viên cần phải hàng ngày học tập, học từ thấp đến cao, từ dễ đến khó
để có sự biến đổi về chất.
lOMoARcPSD| 61432759
Khi tích lũy hành vi (lượng) để hình thành thơi quen (chất) các bạn sinh viên cần
phải chăm chỉ, tự chủ trong quá trình học tập, tích lũy từ các kiến thức bản
nhất cũng như trong cuộc sống sinh viên phải rèn luyện đhình thành các thói
quen tốt như: tiết kiệm thời gian, làm việc nghiêm túc khoa học,... tích lũy
nhiều thói quen tốt góp phần hình thành nên tính cách tốt.
Tóm lại việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng
chất cũng như ý nhĩa phương pháp luận của ý nghĩa lớn đới với quá
trình học tập của sinh viên. Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của
sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất đinh mới làm thay đổi về
chất, do đó trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của sinh viên phải tích
lũy dần về lượng đồng thời phải biết thực hiện thực hiện kịp thời những
bước nhảy khi điều kiện chín mùi để biến đổi về chất. Vì vậy mỗi sinh viên
phải luôn ch cực học tập, chủ động trong công việc học tập rèn luyện của
mình cả đức và tài, để trở thành một con người phát triểntoàn diện, tránh tưởng
chủ quan, nóng vội không chịu tích lũy về kiến thức (lượng). Ông cha thường
câu: “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”. Nâng cao chất lượng giảng
dạy học tập ở bậc đại học không chỉ một mục tiêu của giáo dục còn
một phần quan trọng vủa quá rình xây dựng và phát triển xã hội. III. Các tài liệu
tham khảo
1. Giáo trình Triết học Mác Lenin (Dành cho bậc đại học hệ không
chuyênlý luận chính trị)
2. Các nguồn tham khảo kháchttps://luatminhkhue.vn/noi-dung-quy-luat-
luong-chat.aspx
lOMoARcPSD| 61432759
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-ton-duc-thang/triet-
hoc/trietnhom-4-abcd/38821906
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-kinh-te-quoc-dan/triet-
1/baitap-lon-quy-luat-thay-doi-luong-chat/
https://thtranquoctoangovap.hcm.edu.vn/nhung-cau-chuyen-giao-duc/caiken-
va-con-buom/ctmb/129243/107670162692824?origin=home-recent-3
http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/van-dung-quy-luat-tu-su-
thaydoi-ve-luong-dan-den-thay-doi-ve-chat-va-nguoc-lai-vao-qua-trinh-hoc-
tapcua-sinh-vien-hien-nay-505.html

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61432759 I. Nội dung
1. Khái niệm về lượng và chất a) Khái niệm về chất
- Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sựvật, hiện tượng.
- Là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượngkhác. *Đặc điểm của chất:
- Thể hiện tính tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng. Nghĩa là khi nó
chưachuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chấ của nó vẫn chưa thay
đổi. - Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều
giai đoạn, trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng.
→ Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có thể có nhiều chất.
Nhờ đó, con người có thể phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ: Nguyên tố đồng (Cu) có nguyên tử khối là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy
là 1083o C, nhiệt độ sôi là 2880oC...Những thuộc tính (tính chất) này nói lên
chất riêng của đồng, phân biệt nó với các kim loại khác.
*Mối quan hệ giữa chất và sự vật:
- Có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau.
- Trong hiện thực khách quan khôn thể tồn tại sự vật không có chất và khôngthể
có chất nằm ngoài sự vật. *Biểu hiện của chất:
Chất của sự vật được biểu hiện thông qua những thuộc tính của nó, nhưng không
phải bất kì thuộc tính nào cũng có sự biểu hiện chất của sự vật. lOMoAR cPSD| 61432759
- Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố kếtcấu
thành sự vật. Đó là những cái của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được
hình thành trong sự vận động và phát triển của sự vật.
- Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất củasự vật.
- Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.+ Thuộc
tính cơ bản: là những thuộc tính được tổng hợp lại tạo thành vật chất của sự
vật, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng
thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Những thuộc tính ấy
chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác.
Ví dụ; Con người khác với động vật chính là nhờ các quy định vốn có của con
người: khả năng ché tạo vũ khí, máy móc và khả năng sử dụng công cụ, tư duy...
- Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những nguyên tố tạothành
mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành ( kết cấu của sự vật
). Trong hiện thực các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất
của chúng lại khác nhau.
Ví dụ: Kim cương và than chì đều có cùng thành phần cấu tạo hóa học là
nguyên tố Cacon tạo nên, nhưng do phương thức liên kết giữa các nuyên tố
Cacbon là khác nhau nên chất của chúng hoàn toàn khác nhau. → Kim cương
rất cưng còn than chì rất mềm. b) Khái niệm về lượng
- Là phạm trù triết học dùng để chỉ thuộc tính vốn có của sự vật về mặt sốlượng,
quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật. lOMoAR cPSD| 61432759
- Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượngcủa
sự vật không phụ thuộc vào ý chí, ý thực của con người.
*Biểu hiện của lượng:
- Lượng của sự vật biểu hiện kích thước dài hay ngắn , số lượng ít hay nhiều,quy
mô lớn hay nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm. Ví dụ: Đơn
vị đo lường cụ thể như vận tốc ánh sáng xấp xỉ là 300000km trong 1 giây,...
- Lượng có thể biểu thị dưới dạng trìu tượng và khái quát.
Ví dụ: Trình độ nhận thức của một người, ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,...
- Lượng còn biểu thị yếu tố kết cấu bên trong của sự vật (số lượng nguyên tửhợp
thành nguyên tố hóa học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) hoặc
có những lượng còn vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài,
chiều rộng, chiều cao của sự vật).
Phân biệt lượng và chất: chỉ mang tính tương đối. Điều này phụ thuộc vào từng
mối quan hệ cụ thể xác định. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là
chất của sự vật, song trong mối quan hệ khác lại biểu thị lượng của sự vật và ngược lại.
Ví dụ: Xét con số 16 có nhiều cách xác định khác nhau: tích của 2 và 8, bính phương của 4,...
2. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất. -
Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thay đổi thống nhất giữa mặt chất
vàmặt lượng. Chúng tác động qua lại với nhau. Trong sự vật, quy định về lượng
không bao giờ tồn tại nếu không có tính quy định về chất và ngược lại. - Quy lOMoAR cPSD| 61432759
luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vật hiện tượng đã tích lũy những
thay đổi về lượng đến một ngưỡng nhất định. -
Quy luật này cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển, cho thấy
sựthay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng diễn ra từng bước và kết hợp với sự
thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật, hiện tượng vừa có những bước tiến
tuần tự, vừa có những bước tiến đột phá. -
Chất và lượng luôn luôn gắn liền với nhau, không tách rời nhau bởi vì
mỗisự vật, hiện tượng đều phải có tính quy định về chất lại vừa có tính quy định
về lượng nên không có chất thiếu lượng và ngược lại. -
Lượng có xu hướng biến đổi liên tục, nó được tích lũy dần dần. Còn chất
cóxu hướng ổn định, ít thay đổi. Do đó không phải mọi sự thay đổi về lượng đều
làm cho chất thay đổi. Khi lượng biến đổi trong một giới hạn nhất định nào đó
thì chất của sự vật về cơ bản vẫn giữ nguyên. Giới hạn đó gọi là độ. Ví dụ: Nước
ở điều kiện thường từ 0
oC đến 100oC là chất lỏng (trạng thái lỏng)... (có độ cụ thể, có độ tương đối).
Như vậy độ là một khoảng giới hạn mà trong đó những thay đổi về lượng chưa
dẫn đến những biến đổi căn bản về chất.
-Trong quá trình phát triển của sự vật thì lượng phát triển trước. Sự tích lũy dần
dần về lượng đến một lúc nào đó sẽ vượt quá độ cho phép, khi đó chất của sự
vật sẽ thay đổi theo. Như vậy phải có sự tích lũy đủ về lượng thì mới dẫn đến sự
biến đổi về chất. Điểm giới hạn mà tại đó diễn ra sự biến đổi về chất của sự vật
được gọi là điểm nút. lOMoAR cPSD| 61432759 -
Khi lượng biến đổi đạt đến điểm nút thì quá trình biến đổi về chất sẽ diễn
ra,nhưng không diễn ra tức thời, mà nó được thực hiện thông qua một giai đoạn
được gọi là bước nhảy. Bước nhảy là giai đoạn biến đổi chất của sự vật do những
thay đổi về lượng của chất đố gây nên. Các bước nhảy diễn ra theo những quy
mô và nhịp điệu khác nhau.
+ Theo quy mô: có bước nhảy cục bộ (bước nhảy quy mô nhỏ), bước nhảy toàn
bộ (bước nhảy quy mô lớn)
+ Theo nhịp điệu: có bước nhảy đột biến (bùng nổ - diễn ra nhanh; ví dụ: phản
ứng hóa học...), bước nhảy dần dần (thời gian tương đối dài – diễn ra rất chậm;
ví dụ: hạt thóc nảy mầm, cải cách xã ội, sự tiến hóa của loài người,...) - Sau khi
chất mới ra đời thay thế cho chất cũ thì nó sẽ tác động trở lại làm cho lượng tay
đổi theo. Bởi vì tương ứng với chất mới phải là một lượng mới, lượng này sẽ
biến đổi với một quy mô, một tốc độ mới (ví dụ: quá trình học tập của trẻ từ bậc
tiểu học đến bậc cao hơn). Đây là sự tác động trở lại của chất đối với lương. Như
vậy cứ mỗi khi chất thay đổi thì nó đòi hỏi lượng cũng phải thay đổi theo.
a) Chất và lượng có mối quan hệ thống nhất với nhau -
Chất và lượng không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách
biệnchứng bởi vì mỗi sự vật, hiện tượng đều phải có tính quy định về chất lại
vừa có tính quy định về lượng, nên không có chất thiếu lượng và ngược lại. -
Tuy nhiên không phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự
thayđổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự
thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm làm chất thay đổi
gọi là độ. (Độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là
khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản lOMoAR cPSD| 61432759
chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn độ, sự vật, hiện tượng vẫn
còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.)
Ví dụ: Người sống lâu nhất trên thế giới theo Guinness công nhận có tuổi thọ là
118 tưởi. Như vậy giới hạn từ 0 → 118 năm là “độ” của con người xét về mặt tuổi.
b) Lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất -
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay
đổivề lượng. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến
những sự thay đổi về chất. Đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt
tới điểm nút, với những điều kiện nhất định sẽ tất yếu dẫn đến sự ra đời của
chất mới (sự thay đổi về lượng đạt đến điểm nút). Đây chính là bước nhảy trong
quá trình vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng .
Ví dụ: 0oC, 100oC, 118 tuổi... là điểm nút. -
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa tất yếu trong
quátrình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra với nhiều
hình thức bước nhảy khác nhau, được uyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và
điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục
bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác,... Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận
động, phát triển; đồng thời , đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới,
là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Sự chuyển hóa từ nước lỏng thành hơi nước là một bước nhảy.Có bước
nhảy này là do nước lỏng có sự thay đổi về nhiệt độ và đạt đến 100oC.
*Các hình thức bước nhảy: lOMoAR cPSD| 61432759 -
Bước nhảy đột biến: là bước nhảy làm thay đổi căn bản về chất nhanh
chóngở tất cả các bộ phận cấu thành sự vật. -
Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra trong thời gian
dài.- Bước nhảy toàn bộ: làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ở tất cả các
mặt các bộ phận các yếu tố cấu thành nên sự vật. -
Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi một số bộ phận của sự
vật.c) Lượng tác động trở lại chất -
Khi chất mới ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất mói
tácđộng tới lượng của sự vật, hiện tượng trên nhiều phương diện: làm thay đổi
kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: Nếu bạn tăng thời gian tự học ở nhà, giảm thời gian chơi game thì sẽ thu
nhận được nhiều kiến thức hơn, làm bài sẽ đạt được nhiều điểm cao hơn. →
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa
hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn
đến sự thay đổi về chất thông qua bước nhảy; đồng thời , chất mới sẽ tác động
trở lại lượng, tạo ra nhữn biến đổi mới về lượng của sự vật, hiện tượng. Quá
trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
3. Ý nhĩa phương pháp luận của quy luật lượng – chất
a) Ý nghĩa trong nhận thức -
Nhờ có phương pháp luận lượng chất mà chúng ta hiểu rằng bất cứ sự
vật,hiện tượng nào cũng đều vận động và phát triển. lOMoAR cPSD| 61432759 -
Bất kể sự vật, hiện tượng nào cũng đều có hai mặt chất và lượng, do đó
khinhận thức, ta cần phải nhận thức cả hai mặt để có tri thức toàn diện, phong
phú về sự vật, hiện tượng. -
Cần phải làm rõ quy luật phát triển của sự vật, hiện tượng bằng cách xác
địnhgiới hạn độ, điểm nút, bước nhảy. -
Phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất. Sự
thayđổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và chất thay đổi ảnh hưởng lớn đến lượng.
b) Ý nghĩa trong thực tiễn
- Phải biết kiên trì, tích lũy về lượng để có biến đổi về chất, không được nônnóng
cũng như không được bảo thủ.
- Cần tránh hai khuynh hướng sau:
+ Nôn nóng tả khuynh: hành động bất chấp quy luật, chủ quan, không tích lũy
về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện các bước nhảy liên tục về chất. + Bảo thủ
hữu khuynh: sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước
nhảy mặc dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn
thuần là sự biến hóa về lượng.
- Khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách
quancủa sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Nếu không muốn có sự thay đổi về chất thì cần biết các kiểm soát lượng tronggiới hạn độ.
- Bước nhảy hết sức đa dạng và phong phú về hình thức cho nên trong hoạtđộng
thực tiễn phải vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy khác nhau cho phù
hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể. lOMoAR cPSD| 61432759
→ Chỉ thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy lượng đến giới hạn điểm nút và thực
hiện bước nhảy một cách phù hợp với từng thời điểm, điều kiện và hoàn cảnh
cụ thể để tránh được những hậu quả không đáng có như không đạt được sự thay
đổi về chất dẫn đến việc phải thực hiện sự thay đổi về lượng lại từ đầu. Nói cách
khác, trong hoạt động thực tiễn, không những cần xác định quy mô và nhịp điệu
bước nhảy một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khuôn mà còn
phải quyết tâm và nghị lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chín mùi,
chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp thời bước nhảy khi điều kiện cho phép,
chuyển thay đổi manh tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng. II. Thực tiễn
Sau khi được học và thuyết trình về quy luật lượng đổi chất đổi và ngược lại có
thể rút ra vài kết luận có ý nghĩa phương pháp luận đối với việc nâng cao kết
quả học tập của sinh viên như sau.
So với lượng kiến thức ở các cấp dưới thì kiến thức ở đại học tăng lên một cách
đáng kể. Một ví dụ đơn giản, nếu học ở phổ thông thì một môn kéo dài trong
một năm và khối lượng kiên thức của mỗi buổi học sẽ chỉ là một phần nhỏ của
một chương nhưng đối với chương trình học của đại học thì một môn sẽ học
trong tầm 8 đến 15 buổi ( kéo dài khoảng từ 1 đến 3 tháng ) và kiến thức mỗi
buổi học có thể là cả một chương tùy mỗi môn. Như vậy cho thấy sự tăng lên
đáng kể về lượng kiến thức sẽ là trở ngại của các tân sinh viên. Chính vì thế đòi
hỏi sinh viên cần phải chủ động tìm hiểu và thích nghi với sự thay đổi này.
Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức, đại học còn đa dạng kiến thức hơn
vì có những môn chúng ta đã được đề cập một phần nào đó trong sách giáo khoa
của các cấp dưới nhưng lại có những môn mới lạ thậm chí chúng ta chưa nghe lOMoAR cPSD| 61432759
qua bao giờ. Tiếp đến là các nhiệm vụ trong học tập, ở các cấp dưới chúng ta
đơn thuần chỉ là đến lớp học và đi về thì ở đại học cón nhiều hình thức học tập
khác như đi kiến tập, thực tập, đi thực tế,... Đây cũng là cơ hội nhưng cũng là
những thách thức cho sinh viên để họ chứng tỏ được năng lực thực sự của mình.
Ở đây là sự khác nhau về chất chứ không phải là sự thay đổi hình thức bởi vì sự
chuyển đổi từ phổ thông lên đại học cũng giống như quá trình biến đổi lượng
thành chất. Chính vì vậy người sinh viên cần phải thay đổi sao cho phù hợp với
yêu cầu của ngành giáo dục đới với bậc đại học. Chỉ khi nào làm được như vạy
thì sinh viên mới đạt được những thành tựu rực rỡ trong quãng thời sinh viên của mình.
Như chúng ta đã biết,sự vận động và phát triển của một sự vật diễn ra bằng cách
tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định sẽ thực hiện bước nhảy để
chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng như vậy. Để có một tấm bằng
đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ số lượng tính chỉ các môn học. Như vậy
có thể coi quá trình học tập thu thập đủ số lượng tín chỉ của từng môn
là lượng mà điểm nút là các kì thi, thi cử là bước nhảy và điểm số xác định quá
trình tích lũy kiến thức đã đủ để dẫn tới sự chuyển hóa về chất hay chưa. Do đó,
trong hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết rằng bước tích lũy về
lượng (kiến thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật. Cần tự
giác học tập mỗi ngày để lượng thấm sâu vào mỗi sinh viên. Tránh việc gáp rút
mỗi khi kì thi đến hay là học tất cả chỉ trong một điêm (one night for all) như
thế cho thấy việc thiếu kinh nghiệm nhận thực trong quá trình học tập. Tránh tư
tưởng chủ quan, nóng vội trong hoạt động học tập và thực tiễn hàng ngày. Hàng
ngày, các inh viên đặc biệt là các tân sinh viên cần phải đến trường học tập đầy lOMoAR cPSD| 61432759
đủ để tiếp thu được những kiến thức mới vì những kiến thức này có khi ta nghĩ
là chẳng cần nhưng đến khi đi làm ta ngẫm nghĩ lại thì nó lại là những quy luật
ngày xưa ta đc học trên giảng đường. Và tích tiểu thành đại, thường là sau 4 năm
đại học những kiến thức, kinh nghiệm ta tích lũy được qua các thầy cô hay những
lần đi thực tập (lượng) và tốt nghiệp đại học đạt kết quả cao, đảm bảo về chuyên
mỗi thì mỗi sinh viên sẽ ra trường và đi làm. Nói cách khác chất đã thay đổi thành chất mới.
Trong thực tiễn đời sống mỗi con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần có sự
tích lũy về lượng, sự tích lũy ấy là do bản thân mỗi chúng ta phấn đấu, đanh đổi
mới có được, chứ không nhờ vào sự giúp đỡ của người khác. Chúng ta sẽ tìm
hiểu thông qua câu chuyện ngụ ngôn “Cái kén và con bướm”. “Một người đàn
ông tìm thấy một cái kén của sâu bướm. Con sâu dường như đang cố gắng để
chui ra khỏi kén. Người đàn ông ngồi xuống và quan sát cái kén suốt hàng giờ
nhưng dường như con sâu bướm phải vật lộn rất vất vả mà chỉ tạo ra được một
chiếc lỗ nhỏ xíu. Đột nhiên nó dừng lại và dường như kiệt sức, bế tắc. Người
đàn ông quyết định giúp con bướm có thể chui ra ngoài bằng cách dùng kéo cắt
lỗ trên chiếc kén rộng thêm một chút nữa. Sau đó, con bướm nhỏ đã có thể thoát
ra khỏi kén dễ dàng hơn nhưng cơ thể nó dường như yếu ớt, đôi cánh rúm ró.
Người đàn ông vẫn ở đó, chờ cho đôi cánh bướm có thể dang rộng và con bướm
bay lên. Tuy nhiên, điều đó không bao giờ xảy ra. Con bướm sẽ chỉ có thể sống
phần đời con lại bằng cách bò với cơ thể khuyết tật và đôi cánh rúm ró. Nó không
bao giờ có thể bay. Mặc dù, người đàn ông có lòng tốt, nhưng anh ta không hiểu
quy luật của tự nhiên. Cái kén chật hẹp là thử thách để sâu có thể hóa bướm. Chỉ
có tự mình nỗ lực thoát khỏi cái kén, chất lỏng trong cơ thể sâu mới chuyển hết
sang đôi cánh, giúp nó có thể bay tự do.” Người đàn ông vì lòng thương đã lOMoAR cPSD| 61432759
không may làm hỏng cuộc đời của một con bướm. Anh ta không biết được theo
quy luật của tự nhiên là con bướm phải tự chui ra khỏi cái kén của nó và phải
trải qua quá trình ấy con bướm mới có thể tự mình cất cánh bay. Quay trở lại với
việc học tập của sinh viên. Nếu trong kì thi ta có sử dụng phương pháp gian lận
để vượt qua kí thi thì khác gì con bướm kia , khi ta vượt qua được kì thi là một
chuyện nhưng kiễn thức của ta không chắc khi học sâu sẽ thấy nó khó hiểu và
mơ hồ, nếu gặp các kiến thức khó hơn có thể ta sẽ không tiếp thu được và sau
này sẽ không hoàn thành được yêu cầu của công việc.
Trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên cần tránh tư tưởng tả khuynh,
tức là, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy. Sinh viên
khi học đủ những kiến thức cơ bản có sự biến đổi về chất mới có thể học tiếp
những kiến thức sâu hơn, khó hơn. Học tập nghiên cứu từ dễ đến khó là phương
pháp học tập mang tính khoa học mà chúng ta đều biết nhưng trong thực tế,
không phải ai cũng có thể thực hiện được. Nhiều sinh viên trong quá trình học
tập do không tập trung, còn mải mê vui chơi, dẫn đến sự chậm chễ trong học
tập, rồi “nước tới chân mới nhảy” khi sắp thi họ mới tập trung cao độ vào việc
học. Giai đoạn ôn thi là lúc ta củng cố lại kiến thức chứ không phải học mới, do
đó sinh viên học tập chăm chỉ trong thời gian này không thể đảm bảo lượng kiến
thức qua được kỳ thi. Ngược lại có nhiều sinh viên có ý thức học ngay từ đầu,
nhưng họ lại nóng vội, muốn học nhanh, nhiều để hơn người khác, chưa học cơ
bản đã đến nâng cao, chưa học xong đại cương đã muốn học chuyên ngành luôn.
Như vậy, muốn tiếp thu được tri thức ngày càng nhiều và đạt được kết quả cao,
thì mỗi sinh viên cần phải hàng ngày học tập, học từ thấp đến cao, từ dễ đến khó
để có sự biến đổi về chất. lOMoAR cPSD| 61432759
Khi tích lũy hành vi (lượng) để hình thành thơi quen (chất) các bạn sinh viên cần
phải chăm chỉ, tự chủ trong quá trình học tập, tích lũy từ các kiến thức cơ bản
nhất cũng như trong cuộc sống sinh viên phải rèn luyện để hình thành các thói
quen tốt như: tiết kiệm thời gian, làm việc nghiêm túc và khoa học,... tích lũy
nhiều thói quen tốt góp phần hình thành nên tính cách tốt.
Tóm lại việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng
và chất cũng như ý nhĩa phương pháp luận của nó có ý nghĩa lớn đới với quá
trình học tập của sinh viên. Lượng và chất là hai mặt thống nhất biện chứng của
sự vật, chỉ khi nào lượng được tích lũy tới một độ nhất đinh mới làm thay đổi về
chất, do đó trong hoạt động nhận thức, hoạt động học tập của sinh viên phải tích
lũy dần về lượng và đồng thời phải biết thực hiện và thực hiện kịp thời những
bước nhảy khi có điều kiện chín mùi để biến đổi về chất. Vì vậy mỗi sinh viên
phải luôn tích cực học tập, chủ động trong công việc học tập và rèn luyện của
mình cả đức và tài, để trở thành một con người phát triểntoàn diện, tránh tư tưởng
chủ quan, nóng vội mà không chịu tích lũy về kiến thức (lượng). Ông cha thường
có câu: “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”. Nâng cao chất lượng giảng
dạy và học tập ở bậc đại học không chỉ là một mục tiêu của giáo dục mà còn là
một phần quan trọng vủa quá rình xây dựng và phát triển xã hội. III. Các tài liệu tham khảo 1.
Giáo trình Triết học Mác – Lenin (Dành cho bậc đại học hệ không
chuyênlý luận chính trị) 2.
Các nguồn tham khảo kháchttps://luatminhkhue.vn/noi-dung-quy-luat- luong-chat.aspx lOMoAR cPSD| 61432759
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-ton-duc-thang/triet- hoc/trietnhom-4-abcd/38821906
https://www.studocu.com/vn/document/dai-hoc-kinh-te-quoc-dan/triet-
1/baitap-lon-quy-luat-thay-doi-luong-chat/
https://thtranquoctoangovap.hcm.edu.vn/nhung-cau-chuyen-giao-duc/caiken-
va-con-buom/ctmb/129243/107670162692824?origin=home-recent-3
http://gdcttc.saodo.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/van-dung-quy-luat-tu-su-
thaydoi-ve-luong-dan-den-thay-doi-ve-chat-va-nguoc-lai-vao-qua-trinh-hoc-
tapcua-sinh-vien-hien-nay-505.html