-
Thông tin
-
Quiz
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Sau hơn 30 năm kể từ khi chính sách Đổi mới được thực hiện vào năm 1986, nước ta đã có được những bước tiến vượt bậc. Từ chỗ là một nước nông nghiệp lac hậu, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể cả về kinh tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Sau hơn 30 năm kể từ khi chính sách Đổi mới được thực hiện vào năm 1986, nước ta đã có được những bước tiến vượt bậc. Từ chỗ là một nước nông nghiệp lac hậu, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể cả về kinh tế. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105) 646 tài liệu
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 3.1 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài 12 : Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng của Đảng ta
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Sinh viên 1 : 11 - Lương Vũ Đình Duy – 21133018
Sinh viên 2 : 47 - Đái Triệu Phi – 21133068
Sinh viên 3 : 67 - Lương Tường Vy – 21133093
Sinh viên 4 : 58 - Lê Minh Thuận – 1
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài 12 : Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng của Đảng
ta trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Sinh viên 1 : 11 - Lương Vũ Đình Duy – 21133018
Sinh viên 2 : 47 - Đái Triệu Phi – 21133068
Sinh viên 3 : 67 - Lương Tường Vy – 21133093
Sinh viên 4 : 58 - Lê Minh Thuận –
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................2
PHẦN NỘI DUNG..............................................4
I. QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ
PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT...................4
1.1. Các khái niệm cơ bản.....................................................4
1.1.1.Lực lượng sản xuất..................................................4
1.1.2.Quan hệ sản xuất....................................................5
1.1.3.Phương thức sản xuất..............................................6
1.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.........................................................................6
1.2.1.Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất.........................................................................6
1.2.2.Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan
hệ sản xuất ............................................................7
1.2.3.Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực
lượng sản xuất ........................................................8
1.3. Ý nghĩa của phương pháp luận ......................................8
II. VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY ..........8
2.1. Thực trạng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi
mới ở Việt Nam .............................................................9
2.1.1.Quá trình vân dụng trong thực tế của nước ta trước năm
1986........................................................................9
2.1.2.Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa...................................10 1
2.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam................11
2.2.1.Nguồn lực của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay.11
2.2.2.Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất........13
2.2.3.Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất....................................14
KẾT LUẬN..................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................18 LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Sau hơn 30 năm kể từ khi chính sách Đổi mới được thực hiện
vào năm 1986, nước ta đã có được những bước tiến vượt bậc. Từ
chỗ là một nước nông nghiệp lac hậu, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kể cả về kinh tế, chính trị và văn hóa, xã
hội. Để được như vậy, ta không thể không nhắc đến những đường
lối và chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự
vận dụng hợp lý, đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất.
Hiện nay, đất nước ta đang trong công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
đang diễn ra mạnh mẽ. Nền sản xuất đang từng ngày phát triển,
đem đến năng suất và hiệu quả ngày càng cao. Đảng và Nhà nước
ta cũng đang không ngừng xây dừng và hoàn thiện quan hệ sản
xuất để theo kịp xu thế phát triển hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội, việc nghiên cứu
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực 2
lượng sản xuất đóng vai trò không hề nhỏ. Áp dụng đúng đắn và
hợp lý quy luật này là chìa khóa cho sự thành công của việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, em đã chọn viết về đề
tài: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và vận dụng vào sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay.
Bài tiểu luận này giúp ta có thêm phần hiểu biết về quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản
xuất, từ đó áp dụng vào thực tiễn của đất nước ta hiện nay nhằm
đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Thời gian môn học tuy không nhiều, nhưng được sự hướng dẫn
của ThS. Nguyễn Tùng Lâm đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận
này. Rất mong nhận được sự góp ý của cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn! 3
Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lựclượng sản xuất.
- Nêu thực tại và đánh giá công cuộc phát triển kinh tế ở Việt Nam.
- Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển củalực lượng sản xuất vào công cuộc Đổi mới ở Việt Nam.
- Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất các giải pháp
phù hợp vớinhu cầu đất nước hiện nay. 4 PHẦN NỘI DUNG
I. QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI
TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
1.1. Các khái niệm cơ bản :
1.1.1. Lực lượng sản xuất :
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những nhân tố vật chất, kỹ
thuật của quá trình sản xuất, tồn tại trong mối quan hệ biện
chứng với nhau tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn làm
thay đổi tự nhiên. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng
đóng vai trò phản ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận cơ bản: tư liệu sản
xuất và người lao động.
Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao
gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu
lao động có thể hiểu là công cụ lao động, còn đối tượng lao
động là những yếu tố vật chất của sản xuất mà lao động
con người dùng tư liệu lao động tác động lên, nhằm biến đổi
chúng cho phù hợp với mục đích sử dụng của con người.
Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản
xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến
đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước
đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn
phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất,
là chủ thể tạo ra và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng
lao động để tạo ra sản phẩm. Lênin đã viết: “Lực lượng sản 5
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, người
lao động”. Có thể nói yếu tố quan trọng nhất trong lực
lượng sản xuất chính là con người. Bởi suy cho cùng, người
lao động quyết định giá trị và hiệu quả thực tế của tư liệu
sản xuất và tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người.
Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội
dung vật chất của quá trình sản xuất. Không một quá trình
sản xuất hiện thực nào có thể diễn ra nếu thiếu một trong hai
nhân tố là người lao động và tư liệu sản xuất.
Lực lượng sản xuất được chuyển giao từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Mỗi thế hệ dựa trên những lực lượng sản xuất cũ
để tạo ra lực lượng sản xuất mới. Lực lượng sản xuất vừa do
các thế hệ nối tiếp nhau tạo ra, vừa do các cá nhân trong mỗi
giai đoạn xã hội bảo tồn và không ngừng phát triển lên.
1.1.2. Quan hệ sản xuất :
Quan hệ sản xuất là toàn bộ những quan hệ giữa người
với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội.
Nó được thể hiện ở ba mặt quan hệ cơ bản sau:
Quan hệ giữa người với người trong trong việc chiếm hữu tư
liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Quan hệ giữa người với người trong việc tổ chức quản lý sản
xuất xã hội và trong trao đổi hoạt động với nhau.
Quan hệ giữa người với người trong phân phối và lưu thông sản phẩm xã hội. 6
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành
một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội của sản xuất; giữa ba mặt của quan hệ sản
xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính
ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng
của lực lượng sản xuất. Trong ba mặt của quan hệ sản xuất ,
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan
hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ
chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như
các quan hệ xã hội khác. Tuy nhiên, quan hệ về tổ chức quản
lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng có sự ảnh
hưởng đến quan hệ sở hữu.
1.1.3. Phương thức sản xuất :
Sự tồn tại của một phương thức sản xuất được quy định
bởi sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất ở trình
độ phát triển nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Sự
vận động phát triển của phương thức sản xuất bị quy định bởi
sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Như vậy qua sự tác động biện chứng giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất phù hợp sẽ hình thành một
phương thức sản xuất mới. Phương thức sản xuất chính là
cách thức con người tiến hành sản xuất vật chất ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định của xã hội loại người.
Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất
cả các mặt của đời sống: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Sự 7
thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch
sử quyết định sự phát triển của xă hội loài người từ thấp đến cao.
1.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất :
1.2.1. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất :
Từ khái niệm về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng ta thấy chúng
là hai mặt cơ bản, tất yếu của qua trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội
dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là “hình thức xã hội”
của quá trình đó. Chúng tồn tại thống nhất, không tách rời nhau, tác động qua lại
lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này chỉ ra sự phụ thuộc tất yếu
khách quan của quan hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất và sự tác động trở lại của
quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản nhất của sự
vận động, phát triển xã hội.
1.2.2. Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với qua hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất nên trong quá trình
sản xuất, lực lượng sản xuất không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất được được thể hiện qua trình độ của lực lượng sản
xuất, cụ thể là qua trình độ của công cụ lao động, trình độ kinh nghiệm và kĩ năng
lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, tổ chức
quản lý sản xuất và quy mô của nền sản xuất. Khi một phương thức sản xuất mới
ra đời, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
trạng thái mà trong đó, quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản
xuất. Đến một thời điểm nhất định, tính chất của lực lượng sản xuất thay đổi về cơ 8
bản, khi đó mẫu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất nảy sinh, quan
hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất vốn là nội dung vật chất còn quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội của nền sản xuất vật chất. Nội dung thì quyết định hình thức.
Khi lực lượng sản xuất thay đổi, quan hệ sản xuất cũ trở thành rào cản, kìm hãm
lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản
xuất tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi trong quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất cũ được giải quyết bằng cách thay thế
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với lực lượng sản xuất.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn này được giải quyết thông qua đấu
tranh giai cấp, mà đỉnh cao là cách mạng xã hội. Khi quan hệ sản xuất cũ được
thay thế bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn cũng có nghĩa là phương thức sản xuất
cũ mất đi, một phương thức sản xuất mới ra đời, một hình thái kinh tế xã hội mới xuất hiện.
1.2.3. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với
lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của
con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến
phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ,... Do đó, quan hệ sản xuất không
phải hoàn toàn thụ động mà có tác động trở lại lực lượng sản xuất. Sự tác động này
của quan hệ sản xuất diễn ra theo 2 hướng cơ bản: Nếu như quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển; ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến”
hơn một cách hình thức so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, mặc dù chỉ là sự kìm hãm tạm thời.
1.3. Ý nghĩa của phương pháp luận :
Vì lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất trong quá trình sản xuất xã
hội, cho nên trong hoạt động thực tiễn cần coi trọng vị trí, vai trò của lực lượng sản 9
xuất đối với quan hệ sản xuất. Muốn thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội cần phải
phát huy vai trò của lực lượng sản xuất; cần phải ưu tiên, mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển tối đa. Vì quan hệ sản xuất có sự tác động tích cực trở lại đối
với lực lượng sản xuất (thể hiện thông qua sự phù hợp và không phù hợp với trình
độ lực lượng sản xuất) trong quá trình sản xuất xã hội, cho nên không được xem
thường, bỏ qua vai trò này và cần phải biết phát huy vai trò của quan hệ sản xuất
nhằm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho lực lượng sản xuất phát triển. Vì giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại trong mối quan hệ vừa thống nhất,
vừa đấu tranh lẫn nhau, cho nên cần phải tôn trọng quy luật này. Việc tôn trọng quy
luật giúp chúng ta chủ động trong việc giải quyết mối quan hệ cũng như có những
biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội phát triển.
II. VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH
ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY:
2.1. Thực trạng của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong công
cuộc đổi mới ở Việt Nam:
2.1.1. Quá trình vân dụng trong thực tế của nước ta trước năm 1986:
Do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong công cuộc cải tạo quan
hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra
sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở
rộng phát triển quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy, xí
nghiệp lớn mà không tính đến trình độ của lực lượng sản xuất
đang còn thời kỳ thấp kém chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn
và ngộ nhận là chúng ta đã có “Quan hệ sản xuất xã hội chủ 10
nghĩa” và còn nói rằng: mỗi bước cải tiến quan hệ sản xuất cũ,
xây dựng quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn
mạnh của lực lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa có khả năng “vượt trước”, “mở đường” cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Thực tế trong nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó là
sai lầm. Sự vượt trước này của quan hệ sản xuất trong khi trình độ
của lực lượng sản xuất chưa cho phép đã kìm hãm sự phát triển
của sản xuất xã hội. Đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng
kinh tế xã hội: sản xuất tăng chậm, hiệu quả sản xuất và đầu tư
thấp, phân phối lưu thông có nhiều rối ren, nhữngmất cân đối lớn
trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa chưa được củng cố, đời sống nhân dân lao động còn
nhiều khó khăn... Bởi vậy, nhận định trong đại hội đảng lần thứ VI
là có căn cứ: “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ là trong
trường hợp quan hệ sản xuất bị lạc hậu mà ngay cả khi quan hệ
sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Nhìn chung, chúng
ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề
ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
2.1.2. Đường lối phát triển quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Qua quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước ta đi lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm bổ ích và xác
định rằng: một trong những nguyên nhân sâu xa làm cho sản xuất
chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp khó khăn là do “không 11
nắm vững quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất”. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình
hình đất nước, tự phê bình về những sailầm khuyết điểm, đổi mới
tư lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội
đề ra đường lối đổi mới, trong đó đề cao việc xây dựng và củng cố
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn
các thành phần kinh tế. Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải
tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc:
Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để
xác định bước đi và hình thức thích hợp.
Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và vận dụng quan điểm
của Lênin, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ.
Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng
quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt: chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có
mâu thuẫn không thay đổi. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ
cũng tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc
điểm nhất định với trình độ nào đó của lực lượng sản xuất. Trong
thời kỳ đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế không còn là
nền kinh tế tư bản nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa. Bởi vậy công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải 12
chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần.
Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản
xuất mới, đại hội Đảng VI đã nhấn mạnh là phải quyết tâm giải
quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sở hữu, chế độ quản lý và
chế độ phân phối. Không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ sở
hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ kia. Thực tế chỉ rõ, nếu
chế độ quản lý và chế độ phân phối không được xác lập theo
những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất thì sẽ cản trở lực lượng sản xuất phát triển.
Đại hội VI đã chỉ rõ “đảm bảo sự phù hợp giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo quan hệ
sản xuất với tổ chức và phát triển sản xuất”. Không nên nóng vội
duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đi cũng như việc chọn
lựa các hình thức kinh tế cần phải tạo ra nền sản xuất nhỏ, có thể
đưa nền sản xuất từng bước tiến lên sản xuất lớn. Trên cơ sở sản
xuất nhỏ xây dựng những hình thức của quan hệ sản xuất phù
hợp từng bước và đồng bộ. Rà soát lại toàn bộ quá trình cải tạo xã
hội chủ nghĩa trong thời gian qua, Đảng ta đã đưa ra kết luận:
“Theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình cải tạo xã
hội chủ nghĩa phải có bước đi và hình thức thích hợp; phải coi
trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao,
từ quy mô nhỏ đến quy lớn”. Trong mỗi bước đi của quá trình cải
tạo xã hội chủ nghĩa phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa 13
quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô thích hợp để thúc đẩy
nhanh lực lượng sản xuất phát triển.
2.2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
2.2.1. Nguồn lực của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay.
Sau gần 20 năm Đổi mới, với tư duy kinh tế mới, với quyết tâm cao và với
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng cùng với xu thế toàn cầu hoá kinh tế, lực lượng sản
xuất của nước ta dã phát triển một cách mạnh mẽ từ tư liệu sản xuất đến con người
và khoa học công nghệ. Tuy nhiên, so với trình độ phát triển chung của lực lượng
sản xuất trên thế giới thì lực lượng sản xuất chúng ta còn có những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, trình độ của lực lượng sản xuất của chúng ta hiện nay so với mặt
bằng chung thế giới còn thấp, chúng ta còn đi sau họ hàng thập kỷ. Điều này được
thể hiện rõ trên tất cả các mặt của lực lượng sản xuất:
Về tư liệu sản xuất .Tư liệu lao động từ công cụ lao động, cái được coi là
“xương cốt và bắp thịt” của nền sản xuất đến tư liệu lao động với tư cách là
phương tiện để bảo quản những đối tượng lao động, được gọi chung là “hệ thống
bình chứa của nền sản xuất” và tư liệu lao động với tư cách là kết cấu hạ tầng sản
xuất, nói chung đều lạc hậu so với các nước trên thế giới.
Về lực lượng lao động Yếu .
tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất cũng còn
có rất nhiều vấn đề cần phải bàn. Người lao động Việt Nam được đánh giá là dồi
dào, cần cù, chịu khó và thông minh nhưng đáng tiếc trình độ lao động của chúng
ta nhìn chung còn thấp. Lực lượng lao động đa số là thiếu kỹ năng, chưa được đào
tạo chuyên sâu về nghề nghiệp lại thiếu tác phong làm việc công nghiệp nên giá
nhân công của chúng ta rẻ là một điều dễ hiểu. Chúng ta có nguồn chất xám rất lớn 14
nhưng nguồn lực vô giá này lại chưa được biến thành sức mạnh vật chất, thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
Về khoa học, công nghệ. Ngày nay khoa học công nghệ cũng đã trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Đến nay khoa học công nghệ nước ta có nhiều bước
phát triển mới, thu được những thành tựu quan trọng, đóng góp đáng kể vào việc
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, vào quá trình phát triển của kinh tế xã hội.
Tuy nhiên so với yêu cầu do Đảng và Nhà nước đặt ra, so với sự phát triển như vũ
bảo của khoa học công nghệ trên thế giới thì khoa học công nghệ của Việt Nam
vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự trở thành yếu tố động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, trình độ lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay không chỉ thấp mà
còn phát triển ở nhiều mức độ khác nhau, không đồng đều giữa các vùng, các
ngành. Hiện nay, trình độ lực lượng sản xuất trên cả ba mặt là tư liệu sản xuất,
người lao động và khoa học công nghệ giữa các vùng kinh tế của đất nước như Hà
Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng với các vùng kinh tế khác của đất nước
đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, giữa thành thị và nông thôn,
giữa đồng bằng và miền núi còn có sự chênh lệch rõ rệt.
Sự chênh lệch này không chỉ tồn tại giữa các vùng, miền và giữa các ngành của
nền kinh tế quốc dân. Nếu như cơ sở vật chất kỹ thuật trong các ngành bưu chính
viễn thông, ngân hàng, hàng không đã hiện đại hoá gần hết các khâu, các công
đoạn thì trong các ngành thuộc khu vực kinh tế nông nghiệp vẫn chủ yếu là thủ công.
Nói tóm lại lực lượng sản xuất của chúng ta mặc dù đã có những bước tiến mới
nhưng trình độ vẫn còn thấp và không đồng đều.
2.2.2. Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất.
Để phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta phải tác động vào hai yếu tố: con
người lao động và tư liệu sản xuất. 15
Con người là yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế tri thức hiện nay, xây dựng đội ngũ người lao động đáp
ứng đòi hỏi của thời kỳ mới là một nhiệm vụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
đất nước. Chúng ta phải đẩy mạnh công tác xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực, cải
tổ nền giáo dục đào tạo, tăng cường hệ thống đào tạo nghề phù hợp với xu thế xã
hội hiện nay; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công
nhân lành nghề nắm bắt được khoa học kỹ thuật mới áp dụng trong sản xuất.
Bên cạnh đó, chúng ta phải phát triển, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
tăng hàm lượng tri thức trong sản phẩm, tăng cường hợp tác về khoa học kỹ thuật
với nước ngoài, áp dụng các hình thức chuyển giao công nghệ phù hợp để nâng
nền sản xuất trong nước lên một bước phát triển mới đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Mặt khác nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện tiền vốn ít, khả năng khoa học còn hạn chế và còn nhiều yếu tố
khác quy định thì chưa thể đổi mới ngay lực lượng sản xuất cũ bằng lực lượng sản
xuất tiên tiến. Do đó những yếu tố của lực lượng truyền thống vẫn cần phải được
duy trì và khai thác. Trong hoàn cảnh hiện nay, lực lượng sản xuất bổ sung quan
trọng đối với giai đoạn chuyển tiếp của lực lượng sản xuất. Cần phải sàng lọc trong
lực lượng sản xuất truyền thống những yếu tố nào có giá trị cho việc xây dựng lực
lượng sản xuất hiện đại; cần phải kết hợp các yếu tố truyền thống với các yếu tố
hiện đại, bảo đảm tính phủ định có thừa nhận, tiếp thu những cái có chọn lọc cho
phép tạo nên một sự phát triển ổn định lâu dài.
2.2.3. Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất luôn luôn là yêu cầu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội. Vận dụng
quy luật này như thế nào với những đặc điểm của lực lượng sản xuất của nước ta
như đã phân tích ở trên để thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất nhằm tạo 16
cơ sở vật chất cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ
trọng tâm của sự nghiệp đổi mới hiện nay của nước ta.
Đa dạng hóa các hình thức sở hữu
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ chuyển đổi; lực lượng sản xuất, như đã
phân tích ở trên, phát triển chưa cao và có nhiều trình độ khác nhau. Chính vì thế
đòi hỏi phải có các hình thức sở hữu tương ứng, phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất ở từng vùng, miền và từng ngành kinh tế khác nhau.
Trong nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản
xuất, đó là: sở hữu công cộng, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp. Trong mỗi loại
hình sở hữu tư liệu sản xuất lại tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau và vì thế
trong nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở
hữu các thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước và tư nhân...
Thực hiện nhất quán đường lối đa dạng hoá hình thức sở hữu đã góp phần thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, đưa nền kinh tế nước ta từng bước thoát
ra khỏi khủng hoảng và hiện nay đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Trong thời kỳ Đổi mới hiện nay ở nước ta, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều
thang bậc khác nhau, do đó như đã nêu trên, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có
nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần.
Theo tinh thần Nghị quyết IV của Đảng hiện nay nước ta đang duy trì sáu
thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh
tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 17
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề khắc phục tình trạng độc quyền,
tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất.
Thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập cá nhân
Tương ứng với trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém lại không đồng đều là
nền kinh tế nhiều thành phần có nhiều hình thức sở hữu và kéo theo nó là tính tất
yếu của đa dạng hoá các hình thức phân phối thu nhập cá nhân.
Sự biến đổi lịch sử của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến
đổi của quan hệ phân phối. Đồng thời quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu
với lực lượng sản xuất. Phân phối thu nhập cá nhân và do đó đối
(phân phối hiểu theo nghĩa hẹp) đúng đắn có vai trò đảm bảo tái sản xuất sức lao
động, kích thích sản xuất phát triển. 18