Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập và việc vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn | Tiểu luận môn Triết học Mác – Lênin
Ngay từ thời cổ đại đã có những pháng đoán thiên tài về sự tác động qua lại của các mặt đối lập và xem xét sự tác động đó là cơ sở vận động của thế giới. Nhiều đại biểu triết học cổ đại
Phương Đông đã xem vận động do sự hình thành những đối lập và các đối lập ấy luôn luôn vận động. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêracơlit- người được Lênin coi là ông tổ của phép biện, Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác - Lenin (LLCT130105)
Trường: Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA ĐÀO TẠO QUỐC TẾ
NGÀNH ĐIỆN TỬ VIỄN THÔNG
___________________________________ BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH
GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀ VIỆC VẬN DỤNG QUY
LUẬT NÀY TRONG HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN
Giảng viên: GVC.TS. ĐỖ THỊ THÙY TRANG Nhóm: 8
Thành viên: Nguyễn Đắc Gia Huy Tô Quốc Hiệp Nguyễn Đình Tuấn Ngô Gia Bảo Trương Quốc Phú Mã lớp học: 22161FIE2 1 MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU 3 1. Tính cấp thiết 3
2. Đối tượng nghiên cứu 4
3. Phương pháp nghiên cứu 4 4. Kết cấu đề tài 5 B. NỘI DUNG 6
1.Lý luận chung về quy luật 6
1.1 Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến 7
1.2 Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập
vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau 8
1.2.1 Sự thống nhất của các mặt đối lập 8
1.2.2 Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập 9
1.2.3 Sự chuyển hóa của các mặt đối lập 9
2. Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập vào thực tiễn 10 2
2.1 Vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt vào đời sống hiện nay 10
2.2 Ví dụ về sự thống nhất giữa các mặt đối lập 11
2.3 Ví dụ về sự thống nhất giữa các mặt đối lập 11 C. KẾT LUẬN 12 TÀI LIỆU THAM KHẢO 14 3 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết
- Ngay từ thời cổ đại đã có những pháng đoán thiên tài về sự
tác động qua lại của các mặt đối lập và xem xét sự tác động đó
là cơ sở vận động của thế giới. Nhiều đại biểu triết học cổ đại
Phương Đông đã xem vận động do sự hình thành những đối lập
và các đối lập ấy luôn luôn vận động. Nhà triết học Hy Lạp cổ
đại Hêracơlit- người được Lênin coi là ông tổ của phép biện
chứng cho rằng trong sự vận động biện chứng vĩnh viễn của
mình, các sự vật đều có xu hướng chuyển sang các mặt đối
lập… Tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được đỉnh cao
nhất trong sự phát triển của phép biện chứng của các nhà triết
học cổ điển Đức, tiêu biểu là I. Cantơ và G. V. Hêghen.
- Các antinômi của Cantơ xuất hiện trên cơ sở vượt quá trình độ
nhận thức có tính chất kinh nghiệm khi Cantơ xem các mặt đối
lập la những đối lập về chất. Song không giải quyết được vấn
đề Các antinômi, Cantơ đã đi tới từ bỏ việc thừa nhận các mâu
thuẫn khách quan. Ông xem sự tồn tại của mâu thuẫn là bằng
chứng nói lên tính bất lực của con người trong việc nhận thức thế giới.
- Khi nghiên cứu phép biện chứng trong sự vận động và phát
triển của “ý niệm tuyệt đối “, Hêghen đã kịch liệt phê phán
quan điểm siêu hình về sự đồng nhất (quan điểm này cho rằng
đã đồng nhất thì loại trừ mọi sự khác biệt về mâu thuẫn). Theo
ông, đó là sự đồng nhất trừu tượng trống rỗng, không bao hàm
một nhân tố chân lí nào. Ông quan niệm bất kì sự đồng nhất
nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu thuẫn. Ông là người
sớm nhận ra vai trò của mâu thuẫn trong quá trình vận động và
phát triển:”Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động
và của tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa
đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động,
mới có xung lực và hoạt động. Tất cả mọi vật đều có tính chất
mâu thuẫn trong bản thân nó. Song do bị chi phối bởi quan
niệm duy tâm và lợi ích giai cấp Hêghen đã đẩy việc giải quyết
mâu thuẫn không thể điều hoà được trong “xã hội công dân”
vào lĩnh vực tư tưởng thuần tuý. 4
- Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu tư
tưởng về mâu thuẫn, bằng việc tổng kết từ thực tế lịch sử loài
người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã cho rằng chúng
ta phải tìm xung lực vận động và sự phát triển của sự vật trong
chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật.
Quan điểm lý luận đó được thể hiện trong quy luật thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập – Quy luật mâu thuẫn – đây là
hạt nhân của phép biện chứng.
- Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, hoạt động thực tiễn
đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn, bởi bên cạnh những ưu điểm, thực
tiến luôn chứa đựng những mặt tiêu cực mang tính nội tại kìm
hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới. Giải quyết được
những mâu thuẫn ấy chính là tạo động lực cho sự phát triển đời
sống xã hội một cách vững chắc và ổn định theo đúng những
định hướng đã đặt ra.Vì vậy, trong phạm vi của một bài tiểu
luận, em chọn đề tài: ” Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập và việc vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn”.
2.Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là các khái niệm, quan
điểm, lý luận, các quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập và việc vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
3.Phương pháp nghiên cứu
- Trong quá trình nghiên cứu, bài tiểu luận có sử dụng phối hợp
các phương pháp như: phương pháp thảo luận nhóm, phương
pháp thu thập và phân tích thông tin, phương pháp tổng hợp,
phương pháp khái quát... để giải quyết các vấn đề về lý luận và
thực tiễn mà đề tài đề ra. Lí luận dựa trên nghiên cứu của Chủ
nghĩa C.Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 4. Bố cục đề tài
Phần 1: Lý luận chung của quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập:
+ Các khái niệm, lý luận cơ bản về quy luật thống nhất và đấu
trang giữa các mặt đối lập. 5
+ Các yếu tố cấu thành nên quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập.
Phần 2: Một số vấn đề về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Phần 3: Vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn: + Vận dụng. + Ví dụ. B. NỘI DUNG
Phần 1: Lý luận chung của quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập 1. Lý luận chung
- Là một trong ba quy luật cơ bản, quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập là hạt nhân và là thực chất của phép
biện chứng duy vật. Với quy luật này, nguyên nhân, nguồn gốc
và động lực của sự tự vận động và phát triển, được giải quyết
triệt để trong triết học Mác. Ngày nay, quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập vẫn là công cụ triết học hữu hiệu
giúp con người kiểm soát được động lực của sự phát triển và
tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, vận dụng đúng và có hiệu quả quy
luật này vào đời sống xã hội bao giờ cũng không giản đơn.
Trong khi đó, đồng thuận xã hội, ổn định xã hội, đoàn kết xã
hội,... lại cũng là những động lực của sự phát triển xã hội mà
từng quốc gia cũng như cộng đồng thế giới, từ lâu đã coi là hiển
nhiên và vẫn đang không mệt mỏi thực hiện.
1.1 - Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến:
- Mỗi một sự vật, hiện tượng đang tồn tại đêu là một thể thống
nhất được cấu thành bởi các mặt, các khuynh hướng, các thuộc
tính phát triển ngược chiều nhau, đối nhau…
- Trong phép biện chứng duy vật,khái niệm “mặt đối lập” là
phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những
khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau tồn tại một cách 6
khách quan trong tự nhiên, xã hội, tư duy. Chính những mặt như
vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành
mâu thuẫn biện chứng.Do đó cần phải phân biệt rằng không
phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi
vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, không
phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập mà trong cùng một thời
điểm ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, có
những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật
nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài
trừ phủ định và chuyển hoá lẫn nhau.Sự chuyển hóa này tạo
thành nguồn gốc động lực, đồng thời quy định các bản chất,
khuynh hướng phát triển của sự vật thì hai mặt đối lập như vậy
mới gọi là hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là
một hiện tượng khách quan và phổ biến.
- Mâu thuẫn mang tính khách quan vì là cái vốn có trong các sự
vật, hiện tượng và tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy nên có tính phổ biến. Chính vì vậy mâu thuẫn rất
đa dạng và phức tạp.Mâu thuẫn trong mỗi sự vật hiện tương và
trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau và trong bản
thân mỗi sự vật hiện tượng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn.
Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm ,vai
trò tác động lẫn nhau đối với sự vận động và phát triển của sự
vật .Vì vậy cần phải có phương pháp phân tích và giải quyết
mâu thuẫn một cách cụ thể.
1.2 - Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai
mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
1.2.1 - Sự thống nhất của các mặt đối lập:
- Hai mặt đối lập trong sự vật tồn tại trong sư thống nhất của
chúng.”Sự thống nhất” của các mặt đối lập được hiểu với ý
nghĩa không phải chúng đứng bên cạnh nhau mà là “nương
tựa” vào nhau,tạo ra sự phù hợp, cân bằng như liên hệ phụ
thuộc, qui định và ràng buộc lẫn nhau.Mặt đối lập này lấy mặt
đối lập làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại.
Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì
nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất
của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiêú được cho sư 7
tồn tại của bất kì sự vật hiện tượng nào. Sự thống nhất này do
những đặc điểm riêng có của bản thấn sự vật tạo nên.
*Ví dụ: Quan hệ lực lưọng sản xuất-quan hệ sản xuất trong
phương thức sản xuất:khi lự lượng sản xuất phát triển thì cùng
với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển, hai hình thức này
chính là điều kiện tiền đề cho sự phất triển của phương thức
sản xuất.Nhưng quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau:
-Thứ nhất: Đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát
từ các mặt phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với lượng sản xuất.
-Thứ hai: Đó phải là một khái niệm “động” phản ánh được trạng
thái biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong
quan hệ của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
-Thứ ba: Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý
nghĩa nhận thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất được coi là thoã đáng phải có tác dụng định hướng, chỉ
dẫn cho việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan
hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.
- Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống
nhau, “đồng nhất” với nhau. Với ý nghĩa đó, sự thống nhất của
các mặt đối lập còn bao hàm cả sự “đồng nhất” của các mặt
đó. Do đó sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển
khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, mặt đối lập này có thể
chuyển hoá sang mặt đối lập kia-khi xét về một vài đặc trưng nào đó
*Ví dụ:Sự phát triển kinh tế trong chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi
ích giai cấp tư sản nhưng lại tạo tiền đề cho sự thay thế chủ
nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
- Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động
ngang nhau của chúng. Song đó chỉ là trạng thái vận động của
mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển, khi diễn ra sự cân bằng
của các mặt đối lập.
- Tuy nhiên khái niệm thống nhất này cũng chỉ là tương đối. Bản
thân nội dung khái niệm cũng đã nói lên tính chất tương đối 8
của nó: thống nhất của cái đối lập, trong thống nhất đã bao
hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.
1.2.2 - Sự đấu tranh của các mặt đốí lập:
- Tồn tại trong một thể thống nhất, hai mặt đối lập luôn luôn tác
động qua lại với nhau, ”đấu tranh” với nhau. Đấu tranh giữa các
mặt đối lập là sự tác động qua laị theo xu hướng bài trừ và phủ
định lẫn nhau giữa các mặt đó. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn
tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn
nhưng không nằm yên bên nhau điều chỉnh chuyển hoá lẫn
nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu
tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt
trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
- Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có
giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến
với quan hệ sản xuất lạc hậu, kìm hãm nó diễn ra gay gắt và
quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng
nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu
thuẫn một cách căn bản.
- Không thể hiểu đấu tranh của các mặt đối lập chỉ là sự thủ
tiêu lẫn nhau giữa các mặt đó. Sự thủ tiêu chỉ là một trong
những hình thức đấu tranh cảu các mặt đối lập.Tính đa dạng
của hình thức đấu tranh giữa các mặt đối lập tuỳ thuộc vào tính
chất của các mặt đối lập cũng như mối quan hệ qua lại giữa
chúng, phụ thuộc vào lĩnh vực tồn tại của các mặt đối lập, phụ
thuộc vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
- Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại
giữa hai mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất có quan hệ
hữu cơ với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của vật. Sự đấu
tranh của mối quan hệ gắn bó với tính tuyệt đối của sự vận
động và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các
mặt đối lập là tương đối, sự đấu tranh của các mặt đối lập là
tuyệt đối. Lênin viết: “Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự
vật tồn tại với ý nghĩa nó chính là nó nhờ có sự thống nhất của
các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật, hiện tượng
tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống 9
nhất chỉ là tính tương đối tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối
lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên và liên tục trong
suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật
ổn định cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất của các mặt
đối lập là có điều kiện thoáng qua, tạm thời tương đối. Sự đấu
tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối
cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Mâu thuẫn biện chứng có quan hệ như thế nào với nguồn gốc
của sự vận động và sự phát triển?
-Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia ra làm
nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối
lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt. Tất nhiên không
phải xung khắc bất kì sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu
thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong một sự vật
nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau,
tạo thành động lực bên trong của sự phát triển, thì hai mặt đối
lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn.Khi hai mặt đối
lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt,
nó biến thành đối lập. Nếu hội đủ các mặt cần thiết hai mặt đối
lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật
mới hơn xuất hiện với trình độ cao hơn… Cứ như thế, đấu tranh
giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ
thấp lên cao, chính vì vậy Mác viết: “Cái cấu thành bản chất
của sự vận động biện chứng chính là sự cùng nhau tồn tại của
hai mặt đối lập, sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập ấy và sự dung
hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới”. Nhấn mạnh hơn
nữa tư tưởng ấy Lênin khẳng định: “Sự phát triển là một cuộc
đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
1.2.3-Sự chuyển hoá của các mặt đối lập:
- Không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn đến
sự chuyển hoá giữ chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối
lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện
cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn
nhau. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn
được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là 10
quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau.
- Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt
đối lập chỉ là sự hoán vị đổi chỗ một cách giản đơn máy
móc.Thông thường mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
+Phương thức thứ 1: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối
lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật .
Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội
phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan
hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực
lượng sản xuất mới cao hơn về trình độ.
+Phương thức thứ 2: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để
hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch tập trung,
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại: Từ lý luận về mâu thuẫn cho ta thấy trong thế giới hiện
thực bất kì sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản
thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát
triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh và chuyển hoá của các
mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu
thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành,
sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các
mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau
để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và
biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động
lực của mọi sự phát triển.
Phần 2: Một số vấn đề về quy luật thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập 11
2.1. Triết học duy vật biện chứng là học thuyết kế
thừa được những tinh hoa hợp lý nhất của các
học thuyết triết học từ thời cổ đại đến Hêghen về mâu thuẫn
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, thường
được gọi tắt là quy luật mâu thuẫn (trong Biện chứng của tự
nhiên, Ph.Ăngghen còn gọi là “Quy luật về sự xâm nhập lẫn
nhau của các mặt đối lập”, là quy luật phổ quát của hiện thực,
kể cả trong tư duy và sự nhận thức hiện thực đó bằng chính tư duy của con người.
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chứa
đựng thực chất và hạt nhân của phép biện chứng duy vật.
Chính V.I.Lênin đã khẳng định như vậy. Ông viết: “Có thể định
nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất
của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép
biện chứng”. Theo V.I.Lênin, “sự phân đôi của cái thống nhất và
sự nhận thức các bộ phận đối lập của nó..., đó là thực chất...
của phép biện chứng”. Trong phép biện chứng, mối liên hệ giữa
các mặt đối lập chính là mâu thuẫn; sự thống nhất, đấu tranh
và chuyển hóa giữa các mặt đối lập chính là quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
- Cần thiết phải nói rõ rằng, mâu thuẫn không phải là tri thức
của riêng chủ nghĩa duy vật biện chứng hay của chủ nghĩa Mác.
Mặc dù chủ nghĩa Mác đã có công cải tạo phép biện chứng từ
duy tâm trở thành duy vật, làm cho quy luật mâu thuẫn đạt tới
trình độ “mô hình tư tưởng” gần như vạn năng để con người
giải thích và cải tạo thế giới, tuy nhiên việc phê phán triết học
Mác - Lênin nhằm vào học thuyết mâu thuẫn là sự phê phán
không đúng địa chỉ và không đúng đối tượng.
- Bởi lẽ, ngay từ thời Cổ đại, bằng sự cảm nhận và “phỏng đoán
thiên tài”, các nhà thông thái Hy Lạp đã xác nhận được những
mối liên hệ phổ biến của mọi tồn tại, trong đó sự tác động qua
lại của các mặt đối lập được xem là cái “hoàn toàn khách quan,
là nguyên lý của tất cả cái gì tồn tại”. Những nhà tư tưởng được
biết đến trong lịch sử triết học như là những người có công đặt
nền móng cho học thuyết mâu thuẫn là Heraclitus, Lão Tử,
Zeno, N.Kuzansky, D.Bruno..., và Hêghen. Nhưng công bằng mà 12
nói, công lao đặc biệt đối với học thuyết mâu thuẫn (trước
C.Mác) thuộc về Hêghen. Chính là nhờ Hêghen mà lý luận triết
học về mâu thuẫn và về phép biện chứng trở nên có giá trị và
có sức sống mãnh liệt kể từ thế kỷ XIX đến nay.
- Với G.Hêghen, “tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn
trong bản thân nó”... Mâu thuẫn “là cái phủ định trong sự quy
định bản chất của nó, là nguyên tắc của mọi sự tự vận động,
mà sự tự vận động này không phải là cái gì khác mà chỉ là sự
biểu hiện nào đấy của mâu thuẫn... Vận động là bản thân mâu
thuẫn đang tồn tại”... “Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi
sự vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực
một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó
mới vận động, mới có xung lực (импульс) và hoạt động”. Theo
C.Mác, “sai lầm chủ yếu của Hêghen là ở chỗ ông hiểu mâu
thuẫn của hiện tượng là sự thống nhất trong bản chất, trong ý
niệm, kỳ thực bản chất của mâu thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì
đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất”.
- Cải tạo phép biện chứng Hêghen, chủ nghĩa Mác đã giải thích
một cách duy vật về quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập như là “định luật của tri thức” và của thế giới khách quan.
2.2 Mâu thuẫn tồn tại khách quan với sự thống
nhất tương đối và sự đấu tranh tuyệt đối của các mặt đối lập
- Mặt đối lập (opposites, contraires, противоположности - thực
ra không chỉ là “mặt” như trong tiếng Việt, mà là đối lập, cái đối
lập, sự đối lập) là các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng,
các quá trình, các sự vật, hiện tượng... vốn có trong “cái thống
nhất” (đối tượng được xem xét). Chúng là “sự phân đôi của cái
thống nhất” nên tồn tại và vận động trong sự phụ thuộc lẫn
nhau, theo chiều hướng trái ngược nhau và loại trừ lẫn nhau,
tạo thành mâu thuẫn nội tại của sự vật; nhưng đồng thời lại
thống nhất với nhau. Nghĩa là, được gọi là mặt đối lập bởi vì
chúng chỉ tồn tại trong sự phụ thuộc lẫn nhau (mặt đối lập này
không thể tồn tại mà không có mặt kia) và loại trừ lẫn nhau (sự
vận động của chúng đối lập trực tiếp với nhau). 13
- Trong thực tế, mâu thuẫn không chỉ là mối quan hệ giữa các
mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập của một đối
tượng hoặc giữa các đối tượng (thuộc sự vật và hiện tượng), mà
còn là mối quan hệ của đối tượng với chính nó. Nghĩa là mâu
thuẫn còn là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
tạo nên sự tự vận động của một đối tượng.
- Khi sự đối lập chưa vận động tới trình độ cực đoan cần phải
được giải quyết (mâu thuẫn chưa chín muồi), các mặt đối lập
tác động ngang nhau, cân bằng nhau phản ánh sự đấu tranh
chưa thắng thế giữa cái mới với cái cũ. Tuy thế, triết học duy
vật biện chứng nhấn mạnh, sự thống nhất của các mặt đối lập
chỉ là tương đối, thể hiện sự ổn định tương đối, nhất thời của sự
vật và hiện tượng. Sự đấu tranh của các mặt đối lập mới là
tuyệt đối, thể hiện tính vô hạn của quá trình vận động và phát
triển. Ph.Ăngghen viết: “Tính đồng nhất và tính khác biệt - tính
tất yếu và tính ngẫu nhiên - nguyên nhân và kết quả - đó là
những đối lập chủ yếu, những đối lập, nếu xét một cách riêng
rẽ, thì sẽ chuyển hoá lẫn nhau”. Khi nghiên cứu vấn đề này,
V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng
ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời,
thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ
lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là
tuyệt đối”. Điều này phản ánh một thực tế là, trong thế giới
này, chẳng có sự ổn định hay đứng im nào là vĩnh viễn tồn tại -
“Vận động là một mâu thuẫn, là một sự thống nhất của các mâu thuẫn”.
- Trong lôgíc hình thức cũng có quy luật mâu thuẫn, gọi đầy đủ
và chính xác là “quy luật cấm mâu thuẫn”. Tuy nhiên, đây là
quy luật đòi hỏi các thao tác tư duy không được phép mâu
thuẫn với nhau khi đưa ra các phán đoán về cùng một đối
tượng. Mâu thuẫn ở đây chỉ là mâu thuẫn lôgíc nảy sinh khi tư
duy mắc sai lầm. Quy luật này dĩ nhiên cũng vô cùng quan
trọng, nhưng chỉ tồn tại trong lôgíc học hình thức với chức năng
là giúp cho con người tư duy đúng.
- Khác với lôgíc học hình thức, quy luật mâu thuẫn trong phép
biện chứng có đối tượng của nó là mâu thuẫn biện chứng.
Ph.Ăngghen khẳng định, mâu thuẫn biện chứng “tồn tại một
cách khách quan ở trong bản thân các sự vật và các quá trình 14
và có thể bộc lộ ra dưới một hình thức hữu hình”; “trong sinh
vật học cũng như trong lịch sử xã hội loài người, quy luật ấy
đều được xác nhận”. Nghiên cứu vấn đề này, V.I.Lênin nhận xét:
“Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
- Triết học duy vật biện chứng khẳng định, mâu thuẫn biện
chứng tồn tại khách quan, phổ biến. Nghĩa là, mâu thuẫn biện
chứng cũng tồn tại trong tư duy. Nhưng đó không phải là tư duy
có mâu thuẫn hay sự ngụy biện, mà là kết quả của sự phản ánh
mâu thuẫn trong hiện thực, kể cả hiện thực của bản thân tư duy
(tự nhận thức, phản tư). Và do vậy, mâu thuẫn biện chứng trong
tư duy là nguồn gốc vận động của nhận thức, của tư duy trong
quá trình tìm kiếm chân lý. Ph.Ăngghen viết: “Biện chứng gọi là
khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện
chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản
ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động
thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự
đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng
của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, resp (tương
tự) với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”.
- Trong đời sống xã hội, sự đấu tranh và thống nhất của các mặt
đối lập là sự thống nhất và đấu tranh của các lực lượng, các
nhóm, các hệ thống xã hội theo các mặt, các tính chất, các
khuynh hướng xã hội đã quy định và tạo thành các thực thể xã
hội đó. Toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần xã hội
đều bao hàm những mặt đối lập, những mâu thuẫn như vậy.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã nhiều lần bàn đến mâu
thuẫn xã hội, và thực ra toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của các
ông cũng là nhằm giải quyết các vấn đề về mâu thuẫn xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Theo quan điểm của chúng tôi - tất
cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa
những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp” (“Hình thức
giao tiếp” về sau được C.Mác gọi là “Quan hệ sản xuất”). Theo
Ph.Ăngghen, “mâu thuẫn giữa sản xuất xã hội và sự chiếm hữu
tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản”. Với V.I.Lênin, “tính chất biện chứng
của sự phát triển xã hội, diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn”. 15
- Cần lưu ý rằng, đối với mỗi con người, trạng thái đối lập, mâu
thuẫn với chính mình, với những người xung quanh và với xã
hội... (loại trừ trường hợp mâu thuẫn lôgíc) là trạng thái tự
nhiên, vốn có, vận động theo các bước, các trình độ đối lập
khác nhau đi từ đồng nhất, khác biệt đến mâu thuẫn hoặc xung
đột. Những mâu thuẫn biện chứng ấy đóng vai trò là nguồn gốc
và động lực để thúc đẩy phát triển con người, hình thành và
phát triển nhân cách cá nhân. Con người mẫu thuẫn với chính
mình, đó không phải là một căn bệnh - đối lập càng gay gắt,
động lực phát triển càng mạnh.
2.3. Về vai trò động lực của mâu thuẫn trong sự
vận động và phát triển
- Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không nói
mâu thuẫn là động lực của phát triển, nhưng từ tinh thần của lý
thuyết C.Mác, cũng một phần là từ tư tưởng coi mâu thuẫn là
xung lực (Импульс) của Hêghen, mà các nhà triết học mácxít
hậu thế đều coi mâu thuẫn là động lực của sự vận động và phát
triển của thế giới nói chung, đặc biệt của sự vận động và phát
triển xã hội. Nội dung này của lý luận mâu thuẫn đã gây tranh
cãi không có hồi kết suốt từ cuối những năm 70 thế kỷ XX đến
nay. Đều thừa nhận mâu thuẫn là động lực của phát triển,
nhưng ở mỗi tác giả, cách giải thích và chi tiết biện luận thì
luôn có sự khác nhau. Ngay trong các tài liệu giáo khoa việc lý
giải cũng không thống nhất.
- Một số tác giả cho rằng, mâu thuẫn tự nó không phải động lực
của sự phát triển, việc con người can thiệp vào mâu thuẫn, tìm
cách giải quyết nó mới là cái có ý nghĩa thúc đẩy hay kìm hãm
sự phát triển. Mâu thuẫn nói chung chỉ là nguồn gốc của sự
phát triển, vì nó giải thích nguyên nhân tận gốc của sự vận
động. Còn động lực của sự phát triển chỉ có thể là việc giải
quyết mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn vận động đến một giai đoạn
nhất định, xung lực của các mặt đối lập đạt đến trình độ “chín
muồi” (Зрелости, Maturity), lúc đó mâu thuẫn mới có đủ điều
kiện để được giải quyết. Giải quyết mâu thuẫn, thậm chí giải
quyết mâu thuẫn theo đúng tinh thần của quy luật, nghĩa là
được giải quyết kịp thời, triệt để, không khoan nhượng, mặt tích
cực, đại diện cho sự tiến bộ thắng thế... khi đó mâu thuẫn mới
đóng vai trò là nguồn gốc của sự phát triển. Không được giải 16
quyết kịp thời, hay giải quyết mâu thuẫn để cho mặt tiêu cực
thắng thế, mâu thuẫn sẽ gây thêm những hậu quả và hệ lụy
cho sự vận động và phát triển của sự vật.
- Một vài tác giả khác nữa coi mâu thuẫn có vai trò động lực của
sự phát triển chỉ ở một trong những mặt, những khâu, những
giai đoạn, những yếu tố... đại diện cho cái mới, cái tiến bộ của
sự đấu tranh của các mặt đối lập. Chẳng hạn, động lực của sự
phát triển chỉ thuộc về một trong hai mặt đối lập, hoặc chỉ ở
giai đoạn mâu thuẫn chưa chín muồi, hoặc chỉ ở sự đấu tranh,
chứ không phải ở sự thống nhất của các mặt đối lập...
- Mặc dù việc nhận thức các mâu thuẫn biện chứng đòi hỏi phải
nhận thức được quá trình và phương thức chúng vận động và
được giải quyết như thế nào, tuy nhiên, chúng tôi không muốn
trình bày kỹ hơn những ý kiến vừa nêu, vì thật khó biết đúng
sai. Hơn thế nữa, theo chúng tôi, với một học thuyết triết học
phổ quát như học thuyết mâu thuẫn, đến Hêghen còn bị phê
phán suốt gần 200 năm qua, thì việc chia nhỏ các công đoạn,
các nội dung, các yếu tố... của mâu thuẫn để xem xét vai trò
của chúng, chưa chắc đã phải là cách tư duy hợp lý.
- Bởi vậy, có thể tạm chấp nhận ý kiến của số đông các nhà
triết học hậu thế rằng, mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của
sự phát triển ở tất cả các khâu, các mặt, các giai đoạn và các
phương diện của nó - thống nhất, đấu tranh và giải quyết với
tính cách là những quá trình diễn ra từ khi mâu thuẫn được
hình thành đến khi bị thủ tiêu để cái mới xuất hiện. Nếu thừa
nhận động lực là cái có ý nghĩa kích thích, thúc đẩy, đóng vai
trò là xung lực của sự vận động, thì khó có thể phủ nhận vai trò
của các nhân tố, các mặt trong giai đoạn mâu thuẫn chưa đạt
tới trình độ chín muồi. Hơn thế nữa, nếu coi động lực là cái luôn
có sự tham gia của yếu tố tinh thần, ý chí thì động lực là cái chỉ
có ở con người và ở một số loài động vật ít nhiều có trí khôn khi
chủ thể có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn. Không thể nói đến ý
chí giải quyết mâu thuẫn của bản thân thế giới vật chất ngoài con người.
- Thời gian trôi đi cho thấy, tham vọng thiết kế thật chi tiết các
bước, các thao tác của cơ chế giải quyết mâu thuẫn có thể
khiến triết học duy vật biện chứng từ chỗ là những chỉ dẫn thế 17
giới quan và phương pháp luận lại trở thành một thứ tri thức
cứng nhắc, máy móc trong hoạt động thực tiễn.
2.4. Đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội là động
lực của sự vận động và phát triển
- Ngày nay, trong đời sống xã hội, hầu hết các mâu thuẫn xã
hội và các hiện tượng có liên quan đến xung đột xã hội, dù ở
phạm vi nhóm nhỏ hay cộng đồng, quốc gia cũng như quốc tế,
cũng đều tiềm ẩn những nguy cơ tiêu cực, luôn có khuynh
hướng dẫn tới những hậu quả nguy hiểm làm đổ vỡ xã hội,
thậm chí chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà các chủ đề
đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội, giảm thiểu xung đột xã hội,
chung sống hòa bình, giải quyết tranh chấp bằng phương pháp
phi bạo lực, hòa giải và hoà hợp dân tộc hay mềm dẻo về sách
lược... luôn luôn là chủ đề thường trực trong đời sống chính trị
xã hội của các quốc gia và cộng đồng thế giới.
- Vấn đề là ở chỗ, nếu chủ trương không thể sử dụng giải pháp
nhân nhượng trong việc giải quyết mâu thuẫn, mọi mâu thuẫn
xã hội cần phải được giải quyết triệt để, cả hai mặt đối lập đều
cần phải đấu tranh đến mức tự xóa bỏ, làm cho sự vật trở thành
cái mới..., như đòi hỏi của lý thuyết mâu thuẫn, thì hậu quả xã
hội của điều đó rõ ràng là khôn lường. Học thuyết mâu thuẫn
của triết học duy vật biện chứng trong những trường hợp rất
phổ biến này, cần phải được giải thích như thế nào, liệu nó (học
thuyết mâu thuẫn - quy luật đấu tranh và thống nhất của các
mặt đối lập) có sai hay hoặc có gì bất hợp lý ở đây không?
- Thực ra vấn đề này không mới. Từ lâu các nội dung có liên
quan đến vấn đề đã được tranh cãi và thảo luận trong khuôn
khổ các chủ đề như điều hòa mâu thuẫn, sự kết hợp giữa các
mặt đối lập hay sự thỏa hiệp, liên minh nhất thời giữa các lực
lượng đối lập, sự tự tiêu hủy của mâu thuẫn... Lý luận về xung
đột xã hội được cho là khởi nguồn từ C.Mác, nhưng ngày nay
cũng trở thành một bộ môn trong xã hội học phương Tây có
mục đích là giải quyết xung đột xã hội chủ yếu bằng các công
cụ pháp lý và chính trị, để tránh bạo lực xã hội.
- Về phương diện triết học, những người ủng hộ phương thức
triệt để trong giải quyết mâu thuẫn thường cho rằng, ở đây có
sự lầm lẫn trong phân loại mâu thuẫn xã hội: Không phải tất cả, 18
mà chỉ có số ít mâu thuẫn xã hội hay xung đột xã hội là mâu
thuẫn biện chứng. Chỉ những hiện tượng nào chứa trong nó sự
đối lập về một thuộc tính hoặc về một khuynh hướng đối lập
nhau thì mới được xem là mâu thuẫn biện chứng. Tuy vậy, ngay
cả điều này cũng đã từng tranh cãi không hồi kết. Bởi ngay cả
mâu thuẫn giữa hai cá nhân, mâu thuẫn trong nội bộ dân cư,
hay các xung đột ngẫu nhiên trong đời sống xã hội... cũng hoàn
toàn có thể tìm thấy sự đối lập về lợi ích hoặc đối lập về một
khuynh hướng, một tính chất nào đó.
- Không cần thiết phải sa vào những tranh cãi khá phức tạp đó,
chúng tôi muốn nói rằng những vấn đề như điều hòa mâu
thuẫn, sự kết hợp giữa các mặt đối lập, đoàn kết xã hội, đồng
thuận xã hội. (trong đa số các trường hợp) đều là những nội
dung lý luận có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển và tiến bộ
xã hội. Không thể chỉ vì trung thành với lý luận về quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập mà buộc phải xem
nhẹ hay phủ nhận ý nghĩa tích cực của việc giải quyết mâu
thuẫn xã hội theo các chiều hướng đó.
- Trong khi thừa nhận mâu thuẫn là động lực của sự phát triển,
chúng tôi cho rằng việc giải quyết mâu thuẫn xã hội bằng các
biện pháp điều hòa mâu thuẫn, kết hợp giữa các mặt đối lập,
đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội, thương lượng giữa các lực
lượng xã hội,... cũng đều là các phương thức có ý nghĩa tích cực
đối với sự phát triển xã hội, nếu việc giải quyết triệt để mâu
thuẫn xã hội có thể gây những tổn thất lớn hơn đối với xã hội.
Với những vấn đề như mâu thuẫn cá nhân, mâu thuẫn nhóm xã
hội trong nội bộ dân cư, xung đột sắc tộc, mâu thuẫn quốc gia,
chiến tranh và hòa bình..., thì điều hòa mâu thuẫn để đạt tới
đoàn kết xã hội, đồng thuận xã hội, ổn định xã hội và tránh
chiến tranh... gần như có nghĩa tuyệt đối. Nghĩa là không thể
phủ nhận đó là những động lực thực sự của sự phát triển xã hội,
có ý nghĩa tích cực cả trước mắt và lâu dài đối với tiến bộ xã hội.
- Không nên coi một thái độ như trên là thiếu trung thành với
chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù C.Mác đã từng viết rất rõ rằng,
“cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng, chính là
sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh của
hai mặt ấy là sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù 19
mới. Chỉ với việc tự đề ra cho mình vấn đề loại bỏ mặt xấu,
người ta cũng đã chặn đứng sự vận động biện chứng rồi”.
- Chính V.I.Lênin lúc sinh thời cũng đã nhiều lúc sử dụng các
phương thức thỏa hiệp, nhân nhượng, dung hợp để giải quyết
các mâu thuẫn thời kỳ Cách mạng tháng Mười Nga mới thành
công. Về sự thỏa hiệp, V.I.Lênin viết: “Thái độ của chủ nghĩa
Mác đối với con đường quanh co của lịch sử, về thực chất, cũng
giống như thái độ của chủ nghĩa đó đối với sự thỏa hiệp. Mọi
bước chuyển biến quanh co của lịch sử đều là sự thỏa hiệp, sự
thỏa hiệp giữa cái cũ không còn đủ sức để phủ định hoàn toàn
cái mới, và cái mới còn chưa đủ sức để lật đổ hoàn toàn cái cũ.
Chủ nghĩa Mác không khăng khăng khước từ những sự thỏa
hiệp, chủ nghĩa Mác cho rằng cần phải lợi dụng những sự thỏa
hiệp, nhưng tuyệt nhiên không phải vì thế mà chủ nghĩa Mác,
với tư cách là một lực lượng lịch sử sinh động và hành động, lại
không mang hết nghị lực của mình ra để đấu tranh chống
những sự thỏa hiệp. Người nào không có khả năng lĩnh hội được
cái điều tựa hồ như mâu thuẫn ấy, thì người đó không hiểu
những điều sơ đẳng của chủ nghĩa Mác”.
- Đối với Việt Nam, ngay từ khi cách mạng thành công, trong
khi trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, với lý thuyết mâu
thuẫn của triết học Mác, Đảng và Nhà nước Việt Nam chưa khi
nào xem nhẹ vấn đề đoàn kết các dân tộc, đoàn kết trong và
ngoài Đảng, đại đoàn kết toàn dân hay liên minh giai cấp công
nông và đội ngũ trí thức. Tất cả các văn kiện Đảng qua các thời
kỳ đều đã đề cao vai trò của đoàn kết; nhiều đại hội gần đây coi
đoàn kết là động lực của sự phát triển đất nước. Văn kiện Đại
hội IX viết: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông
dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”. Văn kiện Đại hội X của Đảng
tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lồi chiến lược của
cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và
là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tại Đại hội XI,
Đảng ta không những khẳng định mà còn nhấn mạnh thêm vai
trò động lực tầm vóc chiến lược của khối đại đoàn kết toàn dân 20