Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vận dụng quy luật vào việc tìm hiểu mâu thuẫn cơ bản của nước ta trong thời kì quá độ đi lên nghĩa xã hội | Tiểu luận cuối kì môn Triết học Mác – Lênin

Tiểu luận có thể được xem là một công trình nghiên cứu khoa học nhỏ. Do vậy để hoàn thành một đề tài tiểu luận là một việc không dễ dàng đối với sinh viên chúng em Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

TRƯỜNG ĐẠ ỌC SƯ PHẠI H M K THU T TP.HCM
KHOA ĐIỆN ĐIỆN T




MÔN H C: TRI Ê
T HOC MA
C - LÊNIN
TIU LU N CU I K
QUY LU T V S NG NH U TRANH C A CÁC M TH ẤT VÀ ĐẤ ẶT ĐỐI
LP V N D NG QUY LU T VÀO VI C TÌM HI U MÂU THU ẪN CƠ BẢN
CỦA NƯỚ ỜI KÌ QUÁ ĐC TA TRONG TH ĐI LÊN CH NGHĨA XÃ HỘI
GVHD:TS.Nguy n Th t Quyế
Mã LHP: Tri t h c_04CLC ế
(Sáng th 3, ti t 1,2,3) ế
Nhóm STVH: 1 MSSV
Nguy 23119051 ễn Văn Bền
Nguy 23119097 ễn Đức Phương
Nguy n Thành Trung 23119117
Trn Phan Thanh Tùng 23119121
Phm Trí Tâ 23119104 n
TP.HCM, Ngày 25 Tháng 12 Năm 2023
LI C ẢM ƠN
Tiểu luận có thđược xem là một ng trình nghiên cứu khoa học nhỏ.
Do vậy đhoàn tnh một đề tài tiểu luận một việc kng dễ ng đối với
sinh vn cng em. Chúng em xin y t lòng bi ết ơn cn thành sâu sc
đến Cô Nguyn Thị Quyết, người đã dùng những tri thức và m huyết c ủa
mình đcó thể truyền đạt cho cng em vốn kiến thức quý u, cảm ơn
đã giúp đỡ hướng dẫn cng em tận nh trong suốt thời gian viết i tiểu
luận này, tạo cho chúng em những tiền đề, những kiến thức để tiếp cận, pn
tích giải quyết vấn đề.
Thành công ln đi kèm với nlực, trong vòng nhiu tun, nghiên cu
đề i Quy luậ ất đ t đt v s thng nh u tranh ca các m i lp vn dng
quy lu t vào vi c m hi u u thu n c c ta trong th i quá n cơ b ủa nư
độ đi lên Nghĩa X chúng em cũng đã gp không ít k khăn Ch ã Hi , th
thách nhưng nh giúp đỡ ủa chúng em đã vượt qua. Cng em đã có s c
c g ng v n d ng nh ng ki ến th c trong h c k hoàn ức đã học đượ qua đ
thành bài ti u lu u kinh nghi n này nhưng do chưa có nhi m m đ i cũng
như nhng hn chế v kiến thc n chc chn s không tránh khi nhng
thiếu sót. Chúng em r t mong nh c s n xét, ý ki n đư nh ến đóng góp, phê
nh t i ti u lu c hoàn thi phía đ n đư n n.
Chúng em cũng xin cm ơn b đã tn , anh ch n tình ch bo cng
em trong quá trình hn thành bài ti u lu n, t u cho cng em o đi kin
hi nhu thêm v ng ki n th c th c t . ế ế
Mt l n n a, nhóm chúng em xin c m ng d y và trang b ơn Cô đã gi
ki phến th n thi t c c ế để c v cho n h m nh trang cho ọc cũng n
cuc s ng c a cng em sau y.
Chúng em xin chân thành cm ơn!
Nhóm sinh viên th c hi n.
NHN XÉT C A GI NG VIÊN
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
..............................................................................
Điểm:
.................................................................................................................................
Kí tên
TS. Nguy n Th Quy ết
MC L C
M ĐẦU ............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: QUY LU ẤT VÀ ĐẤT V S THNG NH U TRANH
CA CÁC M I L P ẶT ĐỐ
1. t s khái ni m c a quy lu t M ................................................. 2
2. i dung c a quy lu t N .............................................................. 4
3. Ý nghĩa phương pháp luận ...................................................... 10
CHƯƠNG 2: VẬN DNG QUY LUT VÀO TÌM HIU MÂU THUN
CƠ BẢ ỦA NƯỚ ỜI KÌ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN N C C TA TRONG TH CH
NGHĨA XÃ HỘI
1. m mâu thu . Đặc điể ẫn cơ bả ời kì quá độ đi lên n trong th Ch Nghĩa
Xã H i ....................................................................................... 11
2. u tranh và th ng nh t trong quá trình xây d ng . S đấ Ch Nghĩa
Xã H i t Nam Vi ................................................................... 16
3. . M t s thành t u và v t ra trong vi c áp d ng quy lu t vào ấn đề đặ
xây d ng Ch Nghĩa Xã Hội Vit Nam ................................
3.1 . Thành t u ..................................................................... 18
3.2 . Khó khăn 24 ......................................................................
4. . Gi i pháp gi i quy t mâu thu n trong xây d ng ế ẫn cơ b Ch Nghĩa
Xã H i t Nam Vi ................................................................... 25
K T LU N ......................................................................................... 26
TÀI LI U THAM KH O ..................................................................
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề:
Lựa chọn chủ đề về quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong
thời kỳ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội của nước ta là sự kết hợp linh hoạt giữa lý
thuyết triết học và hiểu biết về bối cảnh lịch sử cụ thể. Bằng cách này, nghiên cứu có
thể không chỉ tập trung vào mâu thuẫn cơ bản mà còn phản ánh đối thoại giữa lý
thuyết và thực tế, giúp hiểu sâu hơn về cách mà quy luật triết học có thể đóng vai trò
trong việc giải mã và giải quyết mâu thuẫn xã hội trong quá trình xây dựng Chủ Nghĩa
Xã Hội ở Việt Nam.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của chủ đề này có thể bao gồm cả lịch sử xã hội, chính trị, và
kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Điều này có thể
bao hàm cả n
hững sự kiện chính trị, cải cách xã hội, và đối thoại văn hóa trong giai đoạn này.
Nghiên cứu cũng có thể tập trung vào các tầng lớp xã hội, các phong trào và nhóm
cộng đồng, để hiểu rõ hơn về cách mà quy luật về sự thống nhất và đấu tranh có ảnh
hưởng đến mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam trong thời kỳ quan trọng này.
3. Mục tiêu phương pháp nghiên cứu:
Mục tiêu của phương pháp nghiên cứu trong chủ đề này là thấu hiểu sâu sắc về cách
quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có thể được áp dụng để
phân tích và giải thích mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam thời kỳ quá độ đi lên
Chủ Nghĩa Xã Hội. Nghiên cứu có thể sử dụng phương pháp lịch sử để theo dõi các sự
kiện quan trọng, cũng như phân tích xã hội học để hiểu sâu hơn về tầng lớp và nhóm
cộng đồng. Phương pháp đối chiếu lý luận và thực tế cũng có thể được sử dụng để
đánh giá tác động của quy luật này trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam, tạo ra một cái
nhìn toàn diện về mối quan hệ giữa triết học và thực tế xã hội.
2
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT VỀ SỰ THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA
CÁC MẶT ĐỐI LẬP
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM:
Là một trong ba quy luật cơ bản, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
là hạt nhân và là thực chất của phép biện chứng duy vật. Với quy luật này, nguyên
nhân, nguồn gốc và động lực của sự tự vận động và phát triển, được giải quyết triệt để
trong triết học Mác. Ngày nay, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
vẫn là công cụ triết học hữu hiệu giúp con người kiểm soát được động lực của sự phát
triển và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, vận dụng đúng và có hiệu quả quy luật này vào đời
sống xã hội bao giờ cũng không giản đơn. Trong khi đó, đồng thuận xã hội, ổn định xã
hội, đoàn kết xã hội,... lại cũng là những động lực của sự phát triển xã hội mà từng
quốc gia cũng như cộng đồng thế giới, từ lâu đã coi là hiển nhiên và vẫn đang không
mệt mỏi thực hiện.
Quy luật thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập, thường được gọi tắt quy luật
mâu thuẫn (trong Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen còn gọi “Quy luật về sự xâm
nhập lẫn nhau của các mặt đối lập”, quy luật phổ quát của hiện thực, kể cả trong
duy và sự nhận thức hiện thực đó bằng chính tư duy của con người.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chứa đựng thực chất và hạt nhân
của phép biện chứng duy vật. Chính V.I.Lênin đã khẳng định như vậy. Ông viết: “Có
thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối
lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng”. Theo V.I.Lênin, “sự phân đôi
của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận đối lập của nó..., đó thực chất... của
phép biện chứng”. Trong phép biện chứng, mối liên hệ giữa các mặt đối lập chính
mâu thuẫn; sự thống nhất, đấu tranh chuyển hóa giữa các mặt đối lập chính quy
luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Cần thiết phải nói rõ rằng, mâu thuẫn không phải là tri thức của riêng chủ nghĩa duy vật
biện chứng hay của chủ nghĩa Mác. Mặc dù chủ nghĩa Mác đã có công cải tạo phép biện
chứng từ duy tâm trở thành duy vật, làm cho quy luật mâu thuẫn đạt tới trình độ “mô
hình tư tưởng” gần như vạn năng để con người giải thích cải tạo thế giới, tuy nhiên
3
việc phê phán triết học Mác Lênin nhằm vào học thuyết mâu thuẫn sự phê phán -
không đúng địa chỉ và không đúng đối tượng.
Bởi lẽ, ngay từ thời Cổ đại, bằng sự cảm nhận và “phỏng đoán thiên tài”, các nhà thông
thái Hy Lạp đã xác nhận được những mối liên hệ phổ biến của mọi tồn tại, trong đó sự
tác động qua lại của các mặt đối lập được xem là cái “hoàn toàn khách quan, là nguyên
lý của tất cả cái gì tồn tại”. Những nhà tư tưởng được biết đến trong lịch sử triết học như
là những người có công đặt nền móng cho học thuyết mâu thuẫn là Heraclitus, Lão Tử,
Zeno, N.Kuzansky, D.Bruno..., và Hêghen. Nhưng công bằng mà nói, công lao đặc biệt
đối vi học thuyết mâu thuẫn (trước C.Mác) thuộc về Hêghen. Chính là nhờ Hêghen mà
luận triết học về mâu thuẫn về phép biện chứng trở nên có giá trị và có sức sống
mãnh liệt kể từ thế kỷ XIX đến nay.
Với G.Hêghen, “tất cả mọi vật đều tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó”... Mâu
thuẫn “là cái phủ định trong sự quy định bản chất của nó, nguyên tắc của mọi sự tự
vận động, mà sự tự vận động này không phải là cái khác mà chỉ sự biểu hiện nào
đấy của mâu thuẫn... Vận động bản thân mâu thuẫn đang tồn tại”... “Mâu thuẫn
nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực
một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung
lực hoạt động”. Theo C.Mác, “sai lầm chủ yếu của Hêghen chỗ ông hiểu mâu
thuẫn của hiện tượng sự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của
mâu thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất”.
Cải tạo phép biện chứng Hêghen, chủ nghĩa Mác đã giải thích một cách duy vật về quy
luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như “định luật của tri thức” của
thế giới khách quan.
1
1
Hồ sĩ quý, Một số vấn đề về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Tạp chí Triết học, số
4 (347), năm 2020, https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi- -nhan-van/Mot- -van-de- -quy-luat-va so ve
thong-nhat- -dau-tranh-cua-cac-va mat-doi-lap-137#_ednref1 (8/12/2023)
4
2. á : Nội dung của c c quy luật
2.1 . à á c mặt đối lập, sự thống nhất v đấu tranh giữa c c mặt đối lập:
Trong sự thống nhất có sự đối lập tiềm ẩn trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt ,
đối lập không thể tách rời khỏi cuộc đấu tranh giữa chúng. Bởi trong quy định ràng buộc
lẫn nhau, hai phe đối lập luôn có xu hướng phát triển đối kháng và đấu tranh với nhau.
Cuộc đấu tranh giữa các phe đối lập thường được chia thành nhiều giai đoạn. Thông
thường, khi mới xuất hiện, hai bên đối lập không thể hiện rõ sự mâu thuẫn, đối lập nhau.
Nhưng khi các phe đối lập này di chuyển theo hướng trái ngược nhau ở một mức độ nào
đó, xung đột sẽ hình thành. Lúc này các bên đối lập có xu hướng chống đối, loại trừ
phủ nhận lẫn nhau.
Mặt đối lập là các mặt, các thuộc tính, các khuynh hưng, các quá trình, các sự vật, hiện
tượng... vốn có trong “cái thống nhất” (đối tượng được xem xét). Chúng là “sự phân đôi
của cái thống nhất” nên tồn tại vận động trong sự phụ thuộc lẫn nhau, theo chiều
hướng trái ngược nhau loại trừ lẫn nhau, tạo thành mâu thuẫn nội tại của sự vật;
nhưng đồng thời lại thống nhất với nhau. Nghĩa là, được gọi là mặt đối lập bởi vì chúng
chỉ tồn tại trong sự phụ thuộc lẫn nhau (mặt đối lập này không thể tồn tại mà không có
mặt kia) và loại trừ lẫn nhau (sự vận động của chúng đối lập trực tiếp với nhau).
Trong thực tế, mâu thuẫn không chỉ mối quan hệ giữa các mặt, các thuộc tính, các
khuynh hướng đối lập của một đối tượng hoặc giữa các đối tượng (thuộc sự vật và hiện
tượng), mà còn mối quan hệ của đối tượng với chính nó. Nghĩa mâu thuẫn còn
sự thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập tạo nên sự tự vận động của một đối
tượng.
Khi sự đối lập chưa vận động tới trình độ cực đoan cần phải được giải quyết (mâu thuẫn
chưa chín muồi), các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau phản ánh sự đấu
tranh chưa thắng thế giữa cái mi với cái cũ. Tuy thế, triết học duy vật biện chứng nhấn
mạnh, sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ là tương đối, thể hiện sự ổn định tương đối,
nhất thời của sự vật hiện tượng. Sự đấu tranh của các mặt đối lập mới tuyệt đối,
thể hiện tính vô hạn của quá trình vận động và phát triển. Ph.Ăngghen viết: “Tính đồng
nhất và tính khác biệt tính tất yếu và tính ngẫu nhiên n nhân và kết quả đó - - nguyê -
5
những đối lập chủ yếu, những đối lập, nếu xét một cách riêng rẽ, thì sẽ chuyển hoá lẫn
nhau”. Khi nghiên cứu vấn đề này, V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất,
tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương
đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau tuyệt đối, cũng như sự phát
triển, sự vận động tuyệt đối”. Điều này phản ánh một thực tế là, trong thế giới này,
chẳng có sự ổn định hay đứng im nào là vĩnh viễn tồn tại - “Vận động là một mâu thuẫn,
là một sự thống nhất của các mâu thuẫn”.
Trong lôgíc hình thức cũng có quy luật mâu thuẫn, gọi đầy đủ và chính xác là “quy luật
cấm mâu thuẫn”. Tuy nhiên, đây là quy luật đòi hỏi các thao tác tư duy không được phép
mâu thuẫn với nhau khi đưa ra các phán đoán về cùng một đối tượng. Mâu thuẫn ở đây
chỉ là mâu thuẫn lôgíc nảy sinh khi tư duy mắc sai lầm. Quy luật này dĩ nhiên cũng
cùng quan trọng, nhưng chỉ tồn tại trong lôgíc học hình thức với chức năng là giúp cho
con người tư duy đúng.
Khác với lôgíc học hình thức, quy luật mâu thuẫn trong phép biện chứng đối tượng
của mâu thuẫn biện chứng. Ph.Ăngghen khẳng định, mâu thuẫn biện chứng “tồn
tại một cách khách quan ở trong bản thân các sự vật và các quá trình và có thể bộc lộ ra
dưới một hình thức hữu hình”; “trong sinh vật học cũng như trong lịch sử hội loài
người, quy luật ấy đều được xác nhận”. Nghiên cứu vấn đề này, V.I.Lênin nhận xét: “Sự
phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
Triết học duy vật biện chứng khẳng định, mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan, phổ
biến. Nghĩa là, mâu thuẫn biện chứng cũng tồn tại trong tư duy. Nhưng đó không phải
tư duy có mâu thuẫn hay sự ngụy biện, mà là kết quả của sự phản ánh mâu thuẫn trong
hiện thực, kể cả hiện thực của bản thân tư duy (tự nhận thức, phản tư). Và do vậy, mâu
thuẫn biện chứng trong duy nguồn gốc vận động của nhận thức, của tư duy trong
quá trình tìm kiếm chân lý. Ph.Ăngghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối
trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi chủ quan, tức là tư duy biện chứng,
thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua
những mặt đối lập, tức những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng
sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, resp
(tương tự) với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”.
6
Trong đời sống xã hội, sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập là sự thống nhất
đấu tranh của các lực lượng, các nhóm, các hệ thống hội theo các mặt, các tính
chất, các khuynh hướng xã hội đã quy định và tạo thành các thực thể xã hội đó. Toàn bộ
đời sống vật chất và đời sống tinh thần hội đều bao hàm những mặt đối lập, những
mâu thuẫn như vậy. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã nhiều lần bàn đến mâu
thuẫn hội, thực ra toàn bộ cuộc đời sự nghiệp của các ông cũng nhằm giải
quyết các vấn đề về mâu thuẫn hội. C.Mác Ph.Ăngghen viết: “Theo quan điểm
của chúng tôi - tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những
lực lượng sản xuất hình thức giao tiếp” (“Hình thức giao tiếp” về sau được C.Mác
gọi là “Quan hệ sản xuất”). Theo Ph.Ăngghen, “mâu thuẫn giữa sản xuất hội và s
chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản”. Với V.I.Lênin, “tính chất biện chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra trong
mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn”.
Cần lưu ý rằng, đối với mỗi con người, trạng thái đối lập, mâu thuẫn với chính mình,
với những người xung quanh với hội... (loại trừ trường hợp mâu thuẫn lôgíc)
trạng thái tự nhiên, vốn có, vận động theo các bước, các trình độ đối lập khác nhau đi từ
đồng nhất, khác biệt đến mâu thuẫn hoặc xung đột. Những mâu thuẫn biện chứng ấy
đóng vai trò là nguồn gốc và động lực để thúc đẩy phát triển con người, hình thành
phát triển nhân cách nhân. Con người mẫu thuẫn với chính mình, đó không phải
một căn bệnh đối lập càng gay gắt, động lực phát triển càng mạnh- .
2
2
Hồ Sĩ Quý , Mt s v v quy lu t th ng nhấn đề ất và đấu tranh c a các m i l p ặt đố , Tạp chí Triết học, số
4 (347), năm 2020, https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi- -nhan-van/Mot- -van-de- -quy-luat-va so ve
thong-nhat- -dau-tranh-cua-cac-va mat-doi-lap-137#_ednref1 (8/12/2023).
7
2.2 . Vai trò mâu thu n v i s v ng và phát tri ận độ n:
Kể từ khi xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, các cấp xã hội chủ nghĩa đều xây dựng nền kinh
tế kế hoạch. chế vận hành quản kinh tế này đã được duy trì khá lâu được
quan tâm từ lâu. một đặc điểm khác biệt của Chủ Nghĩa Xã Hội, phản đối nền
kinh tế thị trường.
Các nước bản cũng vận dụng chế kinh tế tập trung nhưng nhanh chóng xóa
bỏ ngay sau chiến tranh đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, hội.
Nhưng kinh tế thị trường vẫn còn nhiều mâu thuẫn
Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin không nói mâu thuẫn là động lực -
của phát triển, nhưng từ tinh thần của lý thuyết C.Mác, cũng một phần là từ tư tưởng coi
mâu thuẫn là xung lực (Импульс) của Hêghen, mà các nhà triết học mácxít hậu thế đều
coi mâu thuẫn là động lực của sự vận động và phát triển của thế giới nói chung, đặc biệt
của sự vận động và phát triển xã hội. Nội dung này của lý luận mâu thuẫn đã gây tranh
cãi không có hồi kết suốt từ cuối những năm 70 thế kỷ XX đến nay. Đều thừa nhận mâu
thuẫn động lực của phát triển, nhưng mỗi tác giả, cách giải thích chi tiết biện
luận thì luôn có sự khác nhau. Ngay trong các tài liệu giáo khoa việc lý giải cũng không
thống nhất
Một số tác giả cho rằng, mâu thuẫn tự không phải động lực của sự phát triển, việc
con người can thiệp vào mâu thuẫn, m cách giải quyết mới cái ý nghĩa thúc
đẩy hay kìm hãm sự phát triển. Mâu thuẫn nói chung chỉ là nguồn gốc của sự phát triển,
vì nó giải thích nguyên nhân tận gốc của sự vận động. Còn động lực của sự phát triển
chỉ có thể là việc giải quyết mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn vận động đến một giai đoạn nhất
định, xung lực của các mặt đối lập đạt đến trình độ “chín muồi” (Зрелости, Maturity),
lúc đó mâu thuẫn mới có đủ điều kiện để được giải quyết. Giải quyết mâu thuẫn, thậm
chí giải quyết mâu thuẫn theo đúng tinh thần của quy luật, nghĩa là được giải quyết kịp
thời, triệt để, không khoan nhưng, mặt tích cực, đại diện cho sự tiến bộ thắng thế... khi
đó mâu thuẫn mới đóng vai trò nguồn gốc của sự phát triển. Không được giải quyết
kịp thời, hay giải quyết mâu thuẫn để cho mặt tiêu cực thắng thế, mâu thuẫn sẽ gây thêm
những hậu quả và hệ lụy cho sự vận động và phát triển của sự vật.
Một vài tác giả khác nữa coi mâu thuẫn có vai trò động lực của sự phát triển chỉ ở một
trong những mặt, những khâu, những giai đoạn, những yếu tố... đại diện cho cái mới,
8
cái tiến bộ của sự đấu tranh của các mặt đối lập. Chẳng hạn, động lực của sự phát triển
chỉ thuộc về một trong hai mặt đối lập, hoặc chỉ ở giai đoạn mâu thuẫn chưa chín muồi,
hoặc chỉ ở sự đấu tranh, chứ không phải ở sự thống nhất của các mặt đối lập...
Mặc dù việc nhận thức các mâu thuẫn biện chứng đòi hỏi phải nhận thức được quá trình
phương thức chúng vận động được giải quyết như thế nào, tuy nhiên, chúng tôi
không muốn trình bày khơn những ý kiến vừa nêu, vì thật khó biết đúng sai. Hơn thế
nữa, theo chúng tôi, với một học thuyết triết học phổ quát như học thuyết mâu thuẫn,
đến Hêghen còn bị phê phán suốt gần 200 năm qua, thì việc chia nhỏ các công đoạn, các
nội dung, các yếu tố... của mâu thuẫn để xem xét vai trò của chúng, chưa chắc đã phải
là cách tư duy hợp lý.
Bởi vậy, thể tạm chấp nhận ý kiến của số đông các nhà triết học hậu thế rằng, mâu
thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển ở tất cả các khâu, các mặt, các giai đoạn
và các phương diện của thống nhất, đấu tranh và giải quyết với tính cách là những -
quá trình diễn ra từ khi mâu thuẫn được hình thành đến khi bị thủ tiêu để cái mới xuất
hiện. Nếu thừa nhận động lực là cái có ý nghĩa kích thích, thúc đẩy, đóng vai trò là xung
lực của sự vận động, thì khó có thể phủ nhận vai trò của các nhân tố, các mặt trong giai
[
đoạn mâu thuẫn chưa đạt tới trình độ chín muồi. n thế nữa, nếu coi động lực cái
luôn có sự tham gia của yếu tố tinh thần, ý chí thì động lực là cái chỉ có ở con người và
ở một số loài động vật ít nhiều có trí khôn khi chủ thể có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn.
Không thể nói đến ý chí giải quyết mâu thuẫn của bản thân thế giới vật chất ngoài con
người.
Thời gian trôi đi cho thấy, tham vọng thiết kế thật chi tiết các bước, các thao tác của cơ
chế giải quyết mâu thuẫn có thể khiến triết học duy vật biện chứng từ chỗ những chỉ
dẫn thế giới quan phương pháp luận lại trở thành một thứ tri thức cứng nhắc, máy
móc trong hoạt động thực tiễn.
9
2.3 . Tí ách quan và nh kh ph n cbiế a quy lu t th ng nh t và u tranh gi đấ a
các m t d i l p (còn g i là quy lu t mâu thu n):
Một điều chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy là mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới luôn
khác nhau nhưng tất cả những sự vật, hiện tượng đó luôn mối quan hệ chung với
nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là khách quan vì những gì vốn có
của sự vật, hiện tượng và có tính phổ biến vì sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập tồn tại trong mọi lĩnh vực.
Bởi sự thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập khách quan phổ quát nên
chúng rất đa dạng và phức tạp. Xung đột trong mọi việc mọi lĩnh vực. Hoặc, trong
mọi hiện tượng, không chỉ một mức độ mâu thuẫn nhất định, sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập đạt đến một mức độ nhất định thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết và một sự
vật mới sẽ ra đời. Những mâu thuẫn cũ biến mất, những mâu thuẫn mới nảy sinh và hình
thành một quá trình mới, vạn vật không ngừng vận động và phát triển.
3
3
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Quy lu t th ng nhất và đấu tranh gi a các m ặt đối l p ,
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy_lu%E1%BA%ADt_th%E1%BB%91ng_nh%E1%BA%A5t_v%C3%A0_%C4
%91%E1%BA%A5u_tranh_gi%E1%BB%AFa_c%C3%A1c_m%E1%BA%B7t_%C4%91%E1%BB%91i_l%E
1%BA%ADp (8/12/2023).
10
3. Ý NGA PHƯƠNG PHÁP LUẬN :
Phân tích mâu thuẫn phải xem xét mâu thuẫn một cách toàn diện và cụ thể. Bởi vì, khi
sự vật khác nhau thì mâu thuẫn của chúng cũng khác nhau; phải tìm cho ra mâu thuẫn
cụ thể của từng sự vật để có biện pháp giải quyết phù hợp. Trong cùng một sự vật có
nhiều mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn có đặc điểm riêng; cho nên phải phân loại các mâu
thuẫn của sự vật để có biện pháp giải quyết phù hợp với từng loại mâu thuẫn. Quá
trình phát triển mâu thuẫn có nhiều giai đoạn; mỗi giai đoạn, bản thân mâu thuẫn và
từng mặt của nó có đặc điểm riêng và cách giải quyết cũng khác nhau… Thực hiện tốt
yêu cầu này sẽ giúp chúng ta hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận
động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Giải quyết mâu thuẫn phải giải quyết đúng lúc, đúng chỗ và đủ điều kiện. Bởi vì mâu
thuẫn thường trải qua 3 giai đoạn: trong giai đoạn đầu chỉ mới xuất hiện sự khác nhau,
hai mặt đối lập bắt đầu hình thành, đấu tranh thấp; trong giai đoạn thứ hai, xuất hiện
mâu thuẫn và thể hiện rõ sự đối lập, đấu tranh giữa hai mặt đối lập trở nên gay gắt; giai
đoạn thứ ba là giai đoạn chuyển hóa, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
Mỗi thời đại lịch sử đều có mâu thuẫn cơ bản - mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản
trong xã hội. Sự đấu tranh giữa các giai cấp ấy quyết định chiều hướng của sự phát
triển. Tuy nhiên, bên cạnh mâu thuẫn của những giai cấp cơ bản còn có nhiều mâu
thuẫn của các tầng lớp khác, thậm chí ngay trong giai cấp vô sản cũng có sự khác
nhau… Tất cả những cái đó cần phải được tính đến khi lựa chọn phương pháp và hình
thức đấu tranh giai cấp, khi định ra chính sách. Trong cuộc đấu tranh thực tế, nếu
không nhìn thấy tất cả cái lưới mâu thuẫn phức tạp ấy, tức là giản đơn hóa bức tranh
đúng đắn về đấu tranh của các mặt đối lập. Việc hiểu đúng tính chất phức tạp và nhiều
vẻ đó của các mâu thuẫn xã hội, có ý nghĩa to lớn đối với sự hoạt động thực tiễn của
Đảng giai cấp vô sản.
Tóm lại, qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện
chứng duy vật; chỉ rõ nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của các sự vật,
hiện tượng.
11
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT VÀO VIỆC TÌM HIỂU MÂU
THUẪN CƠ BẢN CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. . Đặc điểm mâu thuẫn cơ bản trong thời kì quá độ đi lên Chủ Nghĩa
Hội:
Lịch sử tư tưởng nhân loại đã sớm phát hiện ra mâu thuẫn và tìm cách giải quyết mâu
thuẫn theo những hướng tiếp cận khác nhau. Song, phải cho đến khi triết học mác-xít
ra đời mới tạo ra bước phát triển vượt bậc cho lý luận về mâu thuẫn. C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã tách phép biện chứng ra khỏi cái vỏ duy tâm thần bí trong triết học Hê-
ghen khi khẳng định: “Sai lầm chủ yếu của Hê ghen là ở chỗ ông hiểu mâu thuẫn của -
hiện tượng là sự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của mâu
thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất”. C. Mác
và Ph. Ăng ghen đã xác định mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa và đề ra -
nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ph. Ăng ghen viết: “Mâu thuẫn giữa -
sản xuất xã hội và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”.
Tuy nhiên, sinh thời C. Mác và Ph. Ăng ghen, vấn đề quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên -
Chủ Nghĩa Xã Hội trên thực tế chưa trở nên cấp thiết mà phải đến sau này thời kỳ -
cách mạng xã hội chủ nghĩa với sự kế tục của V. I. Lê nin, chủ nghĩa Mác nói chung -
và học thuyết mác xít về mâu thuẫn nói riêng không những được bổ sung, phát triển -
mà còn từ lý luận trở thành hiện thực.
V. I. Lê-nin tiếp tục phát triển lý luận mâu thuẫn khi chỉ rõ sự phát triển xã hội trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa nổi lên hai hình thức mâu thuẫn cơ bản. Hình thức thứ nhất
là các mâu thuẫn đối kháng, điển hình là mâu thuẫn của các giai cấp cơ bản trong xã
hội có giai cấp, giữa một bên bảo thủ, phản động với một bên tiến bộ, cách mạng; giữa
tư bản với lao động, chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc bị áp bức. Giải quyết mâu
thuẫn này chỉ có thể thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Hình thức thứ hai là các mâu thuẫn không đối kháng, tiêu biểu là mâu thuẫn giữa giai
cấp vô sản với giai cấp nông dân và các tầng lớp nghèo khổ khác... Người viết: “Ở
Nga, giai cấp vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi trong một tương lai rất gần nếu
12
ngay từ bước đầu của thắng lợi đó, công nhân đã nhận được sự ủng hộ của đại đa số
nông dân...” .
Khi đất nước bước vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội đặt
ra yêu cầu phải có nhận thức mới về các mâu thuẫn xã hội. Một điều hợp quy luật là
trong thời kỳ ấy luôn chứa đựng cái cũ và cái mới, diễn ra cuộc đấu tranh của các giai
cấp dưới các hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, đã xuất hiện những mầm mống,
những yếu tố của tính thống nhất và sự thuần nhất về mặt xã hội bộc lộ những quy luật
vận động hoàn toàn khác so với xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, V. I. Lê nin vừa chú -
ý đến các mâu thuẫn, vừa xem xét các mối quan hệ giữa chúng với sự thống nhất xã
hội đang phôi thai. Đó là sự phát triển mới của V. I. Lê nin được thể hiện trên một số -
khía cạnh như sau:
Một là, Người chỉ ra tính cấp thiết của việc nghiên cứu về các mâu thuẫn xã hội trong
thời kỳ quá độ. Phát hiện ra những mâu thuẫn quyết định sự hiểu biết khoa học về hiện
thực và không thể lãnh đạo bước quá độ nếu không phân tích các mâu thuẫn. “Mâu
thuẫn của cuộc sống sinh động: đó là toàn bộ then chốt của vấn đề” và “vậy thì danh từ
quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện
nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và Chủ
Nghĩa Xã Hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Song không phải mỗi người
thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế xã hội khác -
nhau... chính là như thế nào” . Trong thời kỳ quá độ, V.I. Lê nin chỉ ra nhiều thành -
phần kinh tế còn tồn tại gắn với các giai cấp, tầng lớp mà mục đích và lợi ích khác
nhau. Điều đó làm cho tính chất mâu thuẫn càng thêm phức tạp và biểu hiện tính đặc
thù.
Hai là, V. I. Lê-nin đã vạch ra hệ thống các kiểu mâu thuẫn mới nảy sinh trong thời kỳ
quá độ như: mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu
thuẫn bên trong và bên ngoài, đồng thời xác định vai trò của chúng trong sự phát triển
của xã hội. Đặc biệt, Người đã chú trọng cụ thể hóa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn
bên ngoài trong điều kiện nước Cộng hòa Xô viết ở giữa vòng vây của các nước -
bản, nhận thức đúng kẻ thù bên trong, kẻ thù bên ngoài nhằm xác định phương thức
đấu tranh phù hợp. Mối quan hệ ấy cũng chính là một trong những cơ sở quan trọng
cho V. I. Lê-nin phát triển lý luận về cách mạng xã hội. Người chỉ rõ: các cuộc cách
13
mạng “chín muồi trong quá trình phát triển lịch sử và nó bùng nổ vào lúc mà toàn bộ
hàng loạt những nguyên nhân ở trong và ngoài nước quyết định” .
Ba là, V. I. Lê-nin đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội mâu thuẫn giữa chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa tư bản:
“... Không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có
một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm
hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào -
lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ
nghĩa cộng sản đang phát sinh...” . Hơn nữa, V. I. Lê nin còn vạch ra mâu thuẫn của -
toàn bộ lịch sử thời đại mới. Người viết: “Chúng ta không thể biết những phong trào
lịch sử cá biệt của một thời đại nào đó sẽ phát triển nhanh chóng đến mức nào...
Nhưng chúng ta có thể biết và chúng ta biết giai cấp nào đứng ở trung tâm thời đại này
hay thời đại khác và xác định nội dung căn bản, phương hướng phát triển chính của
thời đại ấy, những đặc điểm chủ yếu của bối cảnh lịch sử của thời đại ấy, v.v.”
“việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và các tàn tích của nó, việc thiết lập những cơ sở của
chế độ cộng sản là nội dung của cái thời đại mới vừa mới bắt đầu của lịch sử toàn thế
giới” .
Bốn là, trong khi phát hiện và luận chứng một cách khoa học những kiểu mâu thuẫn
mới, V.I. Lê nin đã phân tích một cách sâu sắc về mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn -
không đối kháng và chỉ ra: mâu thuẫn không đối kháng là một kiểu mâu thuẫn đặc thù
của Chủ Nghĩa Xã Hội. Người chỉ ra sự đối kháng và mâu thuẫn hoàn toàn không phải
là một, cái thứ nhất sẽ mất đi, cái thứ hai vẫn còn trong Chủ Nghĩa Xã Hội.
Bàn về mâu thuẫn không đối kháng, V.I. Lê nin lưu ý đến mâu thuẫn giữa giai cấp -
công nhân với giai cấp nông dân. Người chỉ ra: “nông dân với tư cách là người lao
động = bạn đồng minh; với tư cách là người tư hữu và đầu cơ = kẻ thù” và “toàn thể
nông dân đã đi theo viết đã tập hợp được nông dân nói chung” . Do chúng ta... Các Xô-
vậy, theo Người, giai cấp nông dân cơ bản có mâu thuẫn với giai cấp công nhân nhưng
sự thống nhất lợi ích cơ bản đã vượt qua sự bất đồng giữa họ. Đây chính là đặc điểm
quan trọng nhất của mâu thuẫn không đối kháng. Loại mâu thuẫn này vừa chứa đựng
các khuynh hướng mâu thuẫn, lại vừa bao hàm những lợi ích cơ bản thống nhất đang
ợt qua sự mâu thuẫn đó làm cho sự đối lập của chúng giảm dần trong quá trình phát
14
triển. Để giải quyết nó cũng phải thông qua đấu tranh nhưng với tính chất hoàn toàn
khác, là một quá trình lâu dài, tiến hành từng bước dưới các hình thức giáo dục, thuyết
phục là chủ yếu.
Những cống hiến của V. I. Lê nin trong phát triển học thuyết mác xít về mâu thuẫn - -
còn diễn tiến khi lần đầu tiên Người đưa ra phương pháp kết hợp các mặt đối lập, hình
thành sự thống nhất xã hội. Cơ sở khách quan là các mặt đối lập không đối lập tuyệt
đối mà trong những điều kiện nhất định sẽ có những khuynh hướng chung, những yếu
tố đồng nhất chiếm ưu thế dẫn đến sự thống nhất. Theo V. I. Lê nin, mặc dù “Sự thống -
nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện,
tạm thời, thoáng qua, tương đối” nhưng: “... dù sao chúng ta cũng học được ít nhiều
chủ nghĩa Mác, đã học được làm thế nào và khi nào có thể và cần phải thống nhất các
mặt đối lập, và điều chủ yếu là trong thời gian ba năm rưỡi của cuộc cách mạng của
chúng ta, trong thực tiễn chúng ta đã nhiều lần thống nhất các mặt đối lập” . Cũng từ
chủ trương này, V. I. Lê đã nhìn ra khả năng lợi dụng sự bất đồng trong nội bộ giai -nin
cấp tư sản để tạo ra sự trùng nhau một cách khách quan lợi ích cho phép thống nhất
với nhau để đạt mục đích của giai cấp vô sản. V. I. Lê nin giải thích: “Tôi và người -
Pháp theo phái quân chủ đó đã bắt tay nhau, tuy rằng hai bên đều biết chắc rằng mình
rất muốn treo cổ “đồng minh” của mình lên. Nhưng tạm thời lợi ích của chúng tôi
thống nhất với nhau... chúng tôi vì lợi ích của cách mạng xã hội chủ nghĩa Nga và
quốc tế, đã lợi dụng những lợi ích đối chọi nhau, cũng không kém tham tàn, của bọn
đế quốc khác” .
Chính sách kinh tế mới (NEP) là một sản phẩm của tư duy kết hợp các mặt đối lập của
V. I. Lê-nin. NEP cho phép chủ nghĩa tư bản và sự tự do buôn bán tồn tại trong những
phạm vi nhất định. “Một nhà buôn sỉ, cái đó có vẻ như một loại điển hình kinh tế, cách
xa chủ nghĩa cộng sản chẳng khác nào đất với trời. Nhưng trong thực tế sinh động,
chính đó lại là một trong những mối mâu thuẫn sẽ dẫn chúng ta từ nền kinh tế tiểu
nông tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội” . Tất nhiên, không phải tất cả các mặt đối lập đều có
thể kết hợp mà cần tính toán nghiêm ngặt khả năng cho sự kết hợp ấy. Vấn đề trọng
yếu là kết hợp thế nào để có được sự thống nhất hài hòa, không phải theo nghĩa hoàn
15
toàn triệt tiêu sự đối lập mà làm cho cái chung trùng hợp với nhau tạo ra hiệu quả
lợi ích lớn nhất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
4
4
Nguy n Tu n Linh, HC VI N CHÍNH TR , B QUC PHÒNG,H c thuy t Mác - -nin v ế Lê mâu
thun và s v n d ng trong th i k quá độ lên CH NGHĨA XÃ HỘI Vit Nam hin
nay,https://tapchicongsan.org.vn/en_US/nghien-cu/-/2018/38926/hoc-thuyet-mac -nin- -mau-thuan----le ve
va-su-van-dung-trong-thoi- -qua- -chu-nghia- -hoi-o-viet-nam-hien-nay.aspxky do-len xa
| 1/33

Preview text:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM K THUT TP.HCM
KHOA ĐIỆN ĐIỆN T    
MÔN HC: TRIÊ  T HOC MA C - LÊNIN
TIU LUN CUI K
QUY LUT V S THNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CA CÁC MẶT ĐỐI
LP VN DNG QUY LUT VÀO VIC TÌM HIU MÂU THUẪN CƠ BẢN
CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CH NGHĨA XÃ HỘI
GVHD:TS.Nguyn Th Quyết
Mã LHP: Triết hc_04CLC
(Sáng th 3, tiết 1,2,3) Nhóm STVH: 1 MSSV Nguyễn Văn Bền 23119051
Nguyễn Đức Phương 23119097 Nguyn Thành Trung 23119117
Trn Phan Thanh Tùng 23119121 Phm Trí Tân 23119104
TP.HCM, Ngày 25 Tháng 12 Năm 2023 LI CẢM ƠN
Tiểu luận có thể được xem là một công trình nghiên cứu khoa học nhỏ.
Do vậy để hoàn thành một đề tài tiểu luận là một việc không dễ dàng đối với
sinh viên chúng em. Chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc
đến Cô Nguyễn Thị Quyết, người đã dùng những tri thức và tâm huyết của
mình để có thể truyền đạt cho chúng em vốn kiến thức quý báu, cảm ơn Cô
đã giúp đỡ và hướng dẫn chúng em tận tình trong suốt thời gian viết bài tiểu
luận này, tạo cho chúng em những tiền đề, những kiến thức để tiếp cận, phân
tích giải quyết vấn đề.
Thành công luôn đi kèm với nỗ lực, trong vòng nhiều tuần, nghiên cứu
đề tài “Quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập vận dụng
quy luật vào việc tìm hiểu mâu thuẫn cơ bản của nước ta trong thời kì quá
độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội” chúng em cũng đã gặp không ít khó khăn, thử
thách nhưng nhờ có sự giúp đỡ của Cô chúng em đã vượt qua. Chúng em đã
cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua để hoàn
thành bài tiểu luận này nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm làm đề tài cũng
như những hạn chế về kiến thức nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê
bình từ phía Cô để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Chúng em cũng xin cảm ơn bạn bè, anh chị đã tận tình chỉ bảo chúng
em trong quá trình hoàn thành bài tiểu luận, tạo điều kiện cho chúng em
hiểu thêm về những kiến thức thực tế.
Một lần nữa, nhóm chúng em xin cảm ơn Cô vì đã giảng dạy và trang bị
kiến thức cần thiết để phục vụ cho môn học cũng như làm hành trang cho
cuộc sống của chúng em sau này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Nhóm sinh viên thực hiện.
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
.............................................................................. Điểm:
................................................................................................................................. Kí tên
TS. Nguyễn Thị Quyết MC LC
M ĐẦU ............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT V S THNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH
CA CÁC MẶT ĐỐI LP
1. Mt s khái nim ca quy lut ................................................. 2
2. Ni dung ca quy lut .............................................................. 4
3. Ý nghĩa phương pháp luận ...................................................... 10
CHƯƠNG 2: VẬN DNG QUY LUT VÀO TÌM HIU MÂU THUN
CƠ BẢN CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CH NGHĨA XÃ HỘI
1. . Đặc điểm mâu thuẫn cơ bản trong thời kì quá độ đi lên Ch Nghĩa
Xã Hi ....................................................................................... 11
2. . S đấu tranh và thng nht trong quá trình xây dng Ch Nghĩa
Xã Hi Vit Nam ................................................................... 16
3. . Mt s thành tu và vấn đề đặt ra trong vic áp dng quy lut vào
xây dng Ch Nghĩa Xã Hội Vit Nam ................................
3.1 . Thành tu ..................................................................... 18
3.2 . Khó khăn ...................................................................... 24
4. . Gii pháp gii quyết mâu thuẫn cơ bản trong xây dng Ch Nghĩa
Xã Hi Vit Nam ................................................................... 25
KT LUN ......................................................................................... 26
TÀI LIU THAM KHO .................................................................. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn chủ đề:
Lựa chọn chủ đề về quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong
thời kỳ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội của nước ta là sự kết hợp linh hoạt giữa lý
thuyết triết học và hiểu biết về bối cảnh lịch sử cụ thể. Bằng cách này, nghiên cứu có
thể không chỉ tập trung vào mâu thuẫn cơ bản mà còn phản ánh đối thoại giữa lý
thuyết và thực tế, giúp hiểu sâu hơn về cách mà quy luật triết học có thể đóng vai trò
trong việc giải mã và giải quyết mâu thuẫn xã hội trong quá trình xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của chủ đề này có thể bao gồm cả lịch sử xã hội, chính trị, và
kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Điều này có thể bao hàm cả n
hững sự kiện chính trị, cải cách xã hội, và đối thoại văn hóa trong giai đoạn này.
Nghiên cứu cũng có thể tập trung vào các tầng lớp xã hội, các phong trào và nhóm
cộng đồng, để hiểu rõ hơn về cách mà quy luật về sự thống nhất và đấu tranh có ảnh
hưởng đến mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam trong thời kỳ quan trọng này.
3. Mục tiêu phương pháp nghiên cứu:
Mục tiêu của phương pháp nghiên cứu trong chủ đề này là thấu hiểu sâu sắc về cách
quy luật về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có thể được áp dụng để
phân tích và giải thích mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam thời kỳ quá độ đi lên
Chủ Nghĩa Xã Hội. Nghiên cứu có thể sử dụng phương pháp lịch sử để theo dõi các sự
kiện quan trọng, cũng như phân tích xã hội học để hiểu sâu hơn về tầng lớp và nhóm
cộng đồng. Phương pháp đối chiếu lý luận và thực tế cũng có thể được sử dụng để
đánh giá tác động của quy luật này trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam, tạo ra một cái
nhìn toàn diện về mối quan hệ giữa triết học và thực tế xã hội. 1
CHƯƠNG 1: QUY LUẬT VỀ SỰ THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA
CÁC MẶT ĐỐI LẬP
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM:
Là một trong ba quy luật cơ bản, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
là hạt nhân và là thực chất của phép biện chứng duy vật. Với quy luật này, nguyên
nhân, nguồn gốc và động lực của sự tự vận động và phát triển, được giải quyết triệt để
trong triết học Mác. Ngày nay, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
vẫn là công cụ triết học hữu hiệu giúp con người kiểm soát được động lực của sự phát
triển và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, vận dụng đúng và có hiệu quả quy luật này vào đời
sống xã hội bao giờ cũng không giản đơn. Trong khi đó, đồng thuận xã hội, ổn định xã
hội, đoàn kết xã hội,... lại cũng là những động lực của sự phát triển xã hội mà từng
quốc gia cũng như cộng đồng thế giới, từ lâu đã coi là hiển nhiên và vẫn đang không mệt mỏi thực hiện.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, thường được gọi tắt là quy luật
mâu thuẫn (trong Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen còn gọi là “Quy luật về sự xâm
nhập lẫn nhau của các mặt đối lập”, là quy luật phổ quát của hiện thực, kể cả trong tư
duy và sự nhận thức hiện thực đó bằng chính tư duy của con người.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chứa đựng thực chất và hạt nhân
của phép biện chứng duy vật. Chính V.I.Lênin đã khẳng định như vậy. Ông viết: “Có
thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối
lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng”. Theo V.I.Lênin, “sự phân đôi
của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận đối lập của nó..., đó là thực chất... của
phép biện chứng”. Trong phép biện chứng, mối liên hệ giữa các mặt đối lập chính là
mâu thuẫn; sự thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập chính là quy
luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Cần thiết phải nói rõ rằng, mâu thuẫn không phải là tri thức của riêng chủ nghĩa duy vật
biện chứng hay của chủ nghĩa Mác. Mặc dù chủ nghĩa Mác đã có công cải tạo phép biện
chứng từ duy tâm trở thành duy vật, làm cho quy luật mâu thuẫn đạt tới trình độ “mô
hình tư tưởng” gần như vạn năng để con người giải thích và cải tạo thế giới, tuy nhiên 2
việc phê phán triết học Mác - Lênin nhằm vào học thuyết mâu thuẫn là sự phê phán
không đúng địa chỉ và không đúng đối tượng.
Bởi lẽ, ngay từ thời Cổ đại, bằng sự cảm nhận và “phỏng đoán thiên tài”, các nhà thông
thái Hy Lạp đã xác nhận được những mối liên hệ phổ biến của mọi tồn tại, trong đó sự
tác động qua lại của các mặt đối lập được xem là cái “hoàn toàn khách quan, là nguyên
lý của tất cả cái gì tồn tại”. Những nhà tư tưởng được biết đến trong lịch sử triết học như
là những người có công đặt nền móng cho học thuyết mâu thuẫn là Heraclitus, Lão Tử,
Zeno, N.Kuzansky, D.Bruno..., và Hêghen. Nhưng công bằng mà nói, công lao đặc biệt
đối với học thuyết mâu thuẫn (trước C.Mác) thuộc về Hêghen. Chính là nhờ Hêghen mà
lý luận triết học về mâu thuẫn và về phép biện chứng trở nên có giá trị và có sức sống
mãnh liệt kể từ thế kỷ XIX đến nay.
Với G.Hêghen, “tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó”... Mâu
thuẫn “là cái phủ định trong sự quy định bản chất của nó, là nguyên tắc của mọi sự tự
vận động, mà sự tự vận động này không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện nào
đấy của mâu thuẫn... Vận động là bản thân mâu thuẫn đang tồn tại”... “Mâu thuẫn là
nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức sống, chỉ trong chừng mực
một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung
lực và hoạt động”. Theo C.Mác, “sai lầm chủ yếu của Hêghen là ở chỗ ông hiểu mâu
thuẫn của hiện tượng là sự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của
mâu thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất”.
Cải tạo phép biện chứng Hêghen, chủ nghĩa Mác đã giải thích một cách duy vật về quy
luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập như là “định luật của tri thức” và của thế giới khách quan. 1
1 Hồ sĩ quý, Một số vấn đề về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Tạp chí Triết học, số
4 (347), năm 2020, https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Mot-s - o van-de-v - e quy-luat-
thong-nhat-va-dau-tranh-cua-cac-mat-doi-lap-137#_ednref1 (8/12/2023) 3
2. Nội dung của các quy luật :
2.1 . Các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Trong sự thống nhất có sự đối lập tiềm ẩn, trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt
đối lập không thể tách rời khỏi cuộc đấu tranh giữa chúng. Bởi trong quy định ràng buộc
lẫn nhau, hai phe đối lập luôn có xu hướng phát triển đối kháng và đấu tranh với nhau.
Cuộc đấu tranh giữa các phe đối lập thường được chia thành nhiều giai đoạn. Thông
thường, khi mới xuất hiện, hai bên đối lập không thể hiện rõ sự mâu thuẫn, đối lập nhau.
Nhưng khi các phe đối lập này di chuyển theo hướng trái ngược nhau ở một mức độ nào
đó, xung đột sẽ hình thành. Lúc này các bên đối lập có xu hướng chống đối, loại trừ và phủ nhận lẫn nhau.
Mặt đối lập là các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng, các quá trình, các sự vật, hiện
tượng... vốn có trong “cái thống nhất” (đối tượng được xem xét). Chúng là “sự phân đôi
của cái thống nhất” nên tồn tại và vận động trong sự phụ thuộc lẫn nhau, theo chiều
hướng trái ngược nhau và loại trừ lẫn nhau, tạo thành mâu thuẫn nội tại của sự vật;
nhưng đồng thời lại thống nhất với nhau. Nghĩa là, được gọi là mặt đối lập bởi vì chúng
chỉ tồn tại trong sự phụ thuộc lẫn nhau (mặt đối lập này không thể tồn tại mà không có
mặt kia) và loại trừ lẫn nhau (sự vận động của chúng đối lập trực tiếp với nhau).
Trong thực tế, mâu thuẫn không chỉ là mối quan hệ giữa các mặt, các thuộc tính, các
khuynh hướng đối lập của một đối tượng hoặc giữa các đối tượng (thuộc sự vật và hiện
tượng), mà còn là mối quan hệ của đối tượng với chính nó. Nghĩa là mâu thuẫn còn là
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo nên sự tự vận động của một đối tượng.
Khi sự đối lập chưa vận động tới trình độ cực đoan cần phải được giải quyết (mâu thuẫn
chưa chín muồi), các mặt đối lập tác động ngang nhau, cân bằng nhau phản ánh sự đấu
tranh chưa thắng thế giữa cái mới với cái cũ. Tuy thế, triết học duy vật biện chứng nhấn
mạnh, sự thống nhất của các mặt đối lập chỉ là tương đối, thể hiện sự ổn định tương đối,
nhất thời của sự vật và hiện tượng. Sự đấu tranh của các mặt đối lập mới là tuyệt đối,
thể hiện tính vô hạn của quá trình vận động và phát triển. Ph.Ăngghen viết: “Tính đồng
nhất và tính khác biệt - tính tất yếu và tính ngẫu nhiên - nguyên nhân và kết quả - đó là 4
những đối lập chủ yếu, những đối lập, nếu xét một cách riêng rẽ, thì sẽ chuyển hoá lẫn
nhau”. Khi nghiên cứu vấn đề này, V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất,
tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương
đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát
triển, sự vận động là tuyệt đối”. Điều này phản ánh một thực tế là, trong thế giới này,
chẳng có sự ổn định hay đứng im nào là vĩnh viễn tồn tại - “Vận động là một mâu thuẫn,
là một sự thống nhất của các mâu thuẫn”.
Trong lôgíc hình thức cũng có quy luật mâu thuẫn, gọi đầy đủ và chính xác là “quy luật
cấm mâu thuẫn”. Tuy nhiên, đây là quy luật đòi hỏi các thao tác tư duy không được phép
mâu thuẫn với nhau khi đưa ra các phán đoán về cùng một đối tượng. Mâu thuẫn ở đây
chỉ là mâu thuẫn lôgíc nảy sinh khi tư duy mắc sai lầm. Quy luật này dĩ nhiên cũng vô
cùng quan trọng, nhưng chỉ tồn tại trong lôgíc học hình thức với chức năng là giúp cho con người tư duy đúng.
Khác với lôgíc học hình thức, quy luật mâu thuẫn trong phép biện chứng có đối tượng
của nó là mâu thuẫn biện chứng. Ph.Ăngghen khẳng định, mâu thuẫn biện chứng “tồn
tại một cách khách quan ở trong bản thân các sự vật và các quá trình và có thể bộc lộ ra
dưới một hình thức hữu hình”; “trong sinh vật học cũng như trong lịch sử xã hội loài
người, quy luật ấy đều được xác nhận”. Nghiên cứu vấn đề này, V.I.Lênin nhận xét: “Sự
phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
Triết học duy vật biện chứng khẳng định, mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan, phổ
biến. Nghĩa là, mâu thuẫn biện chứng cũng tồn tại trong tư duy. Nhưng đó không phải
là tư duy có mâu thuẫn hay sự ngụy biện, mà là kết quả của sự phản ánh mâu thuẫn trong
hiện thực, kể cả hiện thực của bản thân tư duy (tự nhận thức, phản tư). Và do vậy, mâu
thuẫn biện chứng trong tư duy là nguồn gốc vận động của nhận thức, của tư duy trong
quá trình tìm kiếm chân lý. Ph.Ăngghen viết: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối
trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng,
thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua
những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng
và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, resp
(tương tự) với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”. 5
Trong đời sống xã hội, sự đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập là sự thống nhất
và đấu tranh của các lực lượng, các nhóm, các hệ thống xã hội theo các mặt, các tính
chất, các khuynh hướng xã hội đã quy định và tạo thành các thực thể xã hội đó. Toàn bộ
đời sống vật chất và đời sống tinh thần xã hội đều bao hàm những mặt đối lập, những
mâu thuẫn như vậy. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã nhiều lần bàn đến mâu
thuẫn xã hội, và thực ra toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của các ông cũng là nhằm giải
quyết các vấn đề về mâu thuẫn xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Theo quan điểm
của chúng tôi - tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những
lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp” (“Hình thức giao tiếp” về sau được C.Mác
gọi là “Quan hệ sản xuất”). Theo Ph.Ăngghen, “mâu thuẫn giữa sản xuất xã hội và sự
chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai
cấp tư sản”. Với V.I.Lênin, “tính chất biện chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra trong
mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn”.
Cần lưu ý rằng, đối với mỗi con người, trạng thái đối lập, mâu thuẫn với chính mình,
với những người xung quanh và với xã hội... (loại trừ trường hợp mâu thuẫn lôgíc) là
trạng thái tự nhiên, vốn có, vận động theo các bước, các trình độ đối lập khác nhau đi từ
đồng nhất, khác biệt đến mâu thuẫn hoặc xung đột. Những mâu thuẫn biện chứng ấy
đóng vai trò là nguồn gốc và động lực để thúc đẩy phát triển con người, hình thành và
phát triển nhân cách cá nhân. Con người mẫu thuẫn với chính mình, đó không phải là
một căn bệnh - đối lập càng gay gắt, động lực phát triển càng mạnh.2
2Hồ Sĩ Quý , Một số vấn đề về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Tạp chí Triết học, số
4 (347), năm 2020, https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Mot-s - o van-de-v - e quy-luat-
thong-nhat-va-dau-tranh-cua-cac-mat-doi-lap-137#_ednref1 (8/12/2023). 6
2.2 . Vai trò mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:
Kể từ khi xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội, các cấp xã hội chủ nghĩa đều xây dựng nền kinh
tế kế hoạch. Cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này đã được duy trì khá lâu và được
quan tâm từ lâu. Là một đặc điểm khác biệt của Chủ Nghĩa Xã Hội, nó phản đối nền kinh tế thị trường.
Các nước tư bản cũng vận dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng nhanh chóng xóa
bỏ ngay sau chiến tranh và đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội.
Nhưng kinh tế thị trường vẫn còn nhiều mâu thuẫn
Mặc dù các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin không nói mâu thuẫn là động lực
của phát triển, nhưng từ tinh thần của lý thuyết C.Mác, cũng một phần là từ tư tưởng coi
mâu thuẫn là xung lực (Импульс) của Hêghen, mà các nhà triết học mácxít hậu thế đều
coi mâu thuẫn là động lực của sự vận động và phát triển của thế giới nói chung, đặc biệt
của sự vận động và phát triển xã hội. Nội dung này của lý luận mâu thuẫn đã gây tranh
cãi không có hồi kết suốt từ cuối những năm 70 thế kỷ XX đến nay. Đều thừa nhận mâu
thuẫn là động lực của phát triển, nhưng ở mỗi tác giả, cách giải thích và chi tiết biện
luận thì luôn có sự khác nhau. Ngay trong các tài liệu giáo khoa việc lý giải cũng không thống nhất
Một số tác giả cho rằng, mâu thuẫn tự nó không phải động lực của sự phát triển, việc
con người can thiệp vào mâu thuẫn, tìm cách giải quyết nó mới là cái có ý nghĩa thúc
đẩy hay kìm hãm sự phát triển. Mâu thuẫn nói chung chỉ là nguồn gốc của sự phát triển,
vì nó giải thích nguyên nhân tận gốc của sự vận động. Còn động lực của sự phát triển
chỉ có thể là việc giải quyết mâu thuẫn. Khi mâu thuẫn vận động đến một giai đoạn nhất
định, xung lực của các mặt đối lập đạt đến trình độ “chín muồi” (Зрелости, Maturity),
lúc đó mâu thuẫn mới có đủ điều kiện để được giải quyết. Giải quyết mâu thuẫn, thậm
chí giải quyết mâu thuẫn theo đúng tinh thần của quy luật, nghĩa là được giải quyết kịp
thời, triệt để, không khoan nhượng, mặt tích cực, đại diện cho sự tiến bộ thắng thế... khi
đó mâu thuẫn mới đóng vai trò là nguồn gốc của sự phát triển. Không được giải quyết
kịp thời, hay giải quyết mâu thuẫn để cho mặt tiêu cực thắng thế, mâu thuẫn sẽ gây thêm
những hậu quả và hệ lụy cho sự vận động và phát triển của sự vật.
Một vài tác giả khác nữa coi mâu thuẫn có vai trò động lực của sự phát triển chỉ ở một
trong những mặt, những khâu, những giai đoạn, những yếu tố... đại diện cho cái mới, 7
cái tiến bộ của sự đấu tranh của các mặt đối lập. Chẳng hạn, động lực của sự phát triển
chỉ thuộc về một trong hai mặt đối lập, hoặc chỉ ở giai đoạn mâu thuẫn chưa chín muồi,
hoặc chỉ ở sự đấu tranh, chứ không phải ở sự thống nhất của các mặt đối lập...
Mặc dù việc nhận thức các mâu thuẫn biện chứng đòi hỏi phải nhận thức được quá trình
và phương thức chúng vận động và được giải quyết như thế nào, tuy nhiên, chúng tôi
không muốn trình bày kỹ hơn những ý kiến vừa nêu, vì thật khó biết đúng sai. Hơn thế
nữa, theo chúng tôi, với một học thuyết triết học phổ quát như học thuyết mâu thuẫn,
đến Hêghen còn bị phê phán suốt gần 200 năm qua, thì việc chia nhỏ các công đoạn, các
nội dung, các yếu tố... của mâu thuẫn để xem xét vai trò của chúng, chưa chắc đã phải là cách tư duy hợp lý.
Bởi vậy, có thể tạm chấp nhận ý kiến của số đông các nhà triết học hậu thế rằng, mâu
thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển ở tất cả các khâu, các mặt, các giai đoạn
và các phương diện của nó - thống nhất, đấu tranh và giải quyết với tính cách là những
quá trình diễn ra từ khi mâu thuẫn được hình thành đến khi bị thủ tiêu để cái mới xuất
hiện. Nếu thừa nhận động lực là cái có ý nghĩa kích thích, thúc đẩy, đóng vai trò là xung
lực của sự vận động[, thì khó có thể phủ nhận vai trò của các nhân tố, các mặt trong giai
đoạn mâu thuẫn chưa đạt tới trình độ chín muồi. Hơn thế nữa, nếu coi động lực là cái
luôn có sự tham gia của yếu tố tinh thần, ý chí thì động lực là cái chỉ có ở con người và
ở một số loài động vật ít nhiều có trí khôn khi chủ thể có nhu cầu giải quyết mâu thuẫn.
Không thể nói đến ý chí giải quyết mâu thuẫn của bản thân thế giới vật chất ngoài con người.
Thời gian trôi đi cho thấy, tham vọng thiết kế thật chi tiết các bước, các thao tác của cơ
chế giải quyết mâu thuẫn có thể khiến triết học duy vật biện chứng từ chỗ là những chỉ
dẫn thế giới quan và phương pháp luận lại trở thành một thứ tri thức cứng nhắc, máy
móc trong hoạt động thực tiễn. 8 2.3 . Tính k á
h ch quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt dối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn):
Một điều chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy là mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới luôn
khác nhau nhưng tất cả những sự vật, hiện tượng đó luôn có mối quan hệ chung với
nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là khách quan vì những gì vốn có
của sự vật, hiện tượng và có tính phổ biến vì sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập tồn tại trong mọi lĩnh vực.
Bởi vì sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là khách quan và phổ quát nên
chúng rất đa dạng và phức tạp. Xung đột trong mọi việc và mọi lĩnh vực. Hoặc, trong
mọi hiện tượng, không chỉ có một mức độ mâu thuẫn nhất định, sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập đạt đến một mức độ nhất định thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết và một sự
vật mới sẽ ra đời. Những mâu thuẫn cũ biến mất, những mâu thuẫn mới nảy sinh và hình
thành một quá trình mới, vạn vật không ngừng vận động và phát triển. 3
3 Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quy_lu%E1%BA%ADt_th%E1%BB%91ng_nh%E1%BA%A5t_v%C3%A0_%C4
%91%E1%BA%A5u_tranh_gi%E1%BB%AFa_c%C3%A1c_m%E1%BA%B7t_%C4%91%E1%BB%91i_l%E 1%BA%ADp (8/12/2023). 9
3. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN :
Phân tích mâu thuẫn phải xem xét mâu thuẫn một cách toàn diện và cụ thể. Bởi vì, khi
sự vật khác nhau thì mâu thuẫn của chúng cũng khác nhau; phải tìm cho ra mâu thuẫn
cụ thể của từng sự vật để có biện pháp giải quyết phù hợp. Trong cùng một sự vật có
nhiều mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn có đặc điểm riêng; cho nên phải phân loại các mâu
thuẫn của sự vật để có biện pháp giải quyết phù hợp với từng loại mâu thuẫn. Quá
trình phát triển mâu thuẫn có nhiều giai đoạn; mỗi giai đoạn, bản thân mâu thuẫn và
từng mặt của nó có đặc điểm riêng và cách giải quyết cũng khác nhau… Thực hiện tốt
yêu cầu này sẽ giúp chúng ta hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận
động, phát triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Giải quyết mâu thuẫn phải giải quyết đúng lúc, đúng chỗ và đủ điều kiện. Bởi vì mâu
thuẫn thường trải qua 3 giai đoạn: trong giai đoạn đầu chỉ mới xuất hiện sự khác nhau,
hai mặt đối lập bắt đầu hình thành, đấu tranh thấp; trong giai đoạn thứ hai, xuất hiện
mâu thuẫn và thể hiện rõ sự đối lập, đấu tranh giữa hai mặt đối lập trở nên gay gắt; giai
đoạn thứ ba là giai đoạn chuyển hóa, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
Mỗi thời đại lịch sử đều có mâu thuẫn cơ bản - mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản
trong xã hội. Sự đấu tranh giữa các giai cấp ấy quyết định chiều hướng của sự phát
triển. Tuy nhiên, bên cạnh mâu thuẫn của những giai cấp cơ bản còn có nhiều mâu
thuẫn của các tầng lớp khác, thậm chí ngay trong giai cấp vô sản cũng có sự khác
nhau… Tất cả những cái đó cần phải được tính đến khi lựa chọn phương pháp và hình
thức đấu tranh giai cấp, khi định ra chính sách. Trong cuộc đấu tranh thực tế, nếu
không nhìn thấy tất cả cái lưới mâu thuẫn phức tạp ấy, tức là giản đơn hóa bức tranh
đúng đắn về đấu tranh của các mặt đối lập. Việc hiểu đúng tính chất phức tạp và nhiều
vẻ đó của các mâu thuẫn xã hội, có ý nghĩa to lớn đối với sự hoạt động thực tiễn của Đảng giai cấp vô sản.
Tóm lại, qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện
chứng duy vật; chỉ rõ nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng. 10
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUY LUẬT VÀO VIỆC TÌM HIỂU MÂU
THUẪN CƠ BẢN CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. . Đặc điểm mâu thuẫn cơ bản trong thời kì quá độ đi lên Chủ Nghĩa Hội:
Lịch sử tư tưởng nhân loại đã sớm phát hiện ra mâu thuẫn và tìm cách giải quyết mâu
thuẫn theo những hướng tiếp cận khác nhau. Song, phải cho đến khi triết học mác-xít
ra đời mới tạo ra bước phát triển vượt bậc cho lý luận về mâu thuẫn. C. Mác và Ph.
Ăng-ghen đã tách phép biện chứng ra khỏi cái vỏ duy tâm thần bí trong triết học Hê-
ghen khi khẳng định: “Sai lầm chủ yếu của Hê-ghen là ở chỗ ông hiểu mâu thuẫn của
hiện tượng là sự thống nhất trong bản chất, trong ý niệm, kỳ thực bản chất của mâu
thuẫn ấy cố nhiên là một cái gì đó sâu sắc hơn, cụ thể là mâu thuẫn bản chất”. C. Mác
và Ph. Ăng-ghen đã xác định mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa và đề ra
nhiệm vụ của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ph. Ăng-ghen viết: “Mâu thuẫn giữa
sản xuất xã hội và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra thành sự đối kháng giữa
giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”.
Tuy nhiên, sinh thời C. Mác và Ph. Ăng-ghen, vấn đề quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
Chủ Nghĩa Xã Hội trên thực tế chưa trở nên cấp thiết mà phải đến sau này - thời kỳ
cách mạng xã hội chủ nghĩa với sự kế tục của V. I. Lê-nin, chủ nghĩa Mác nói chung
và học thuyết mác-xít về mâu thuẫn nói riêng không những được bổ sung, phát triển
mà còn từ lý luận trở thành hiện thực.
V. I. Lê-nin tiếp tục phát triển lý luận mâu thuẫn khi chỉ rõ sự phát triển xã hội trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa nổi lên hai hình thức mâu thuẫn cơ bản. Hình thức thứ nhất
là các mâu thuẫn đối kháng, điển hình là mâu thuẫn của các giai cấp cơ bản trong xã
hội có giai cấp, giữa một bên bảo thủ, phản động với một bên tiến bộ, cách mạng; giữa
tư bản với lao động, chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc bị áp bức. Giải quyết mâu
thuẫn này chỉ có thể thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội.
Hình thức thứ hai là các mâu thuẫn không đối kháng, tiêu biểu là mâu thuẫn giữa giai
cấp vô sản với giai cấp nông dân và các tầng lớp nghèo khổ khác... Người viết: “Ở
Nga, giai cấp vô sản chỉ có thể giành được thắng lợi trong một tương lai rất gần nếu 11
ngay từ bước đầu của thắng lợi đó, công nhân đã nhận được sự ủng hộ của đại đa số nông dân...” .
Khi đất nước bước vào thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội đặt
ra yêu cầu phải có nhận thức mới về các mâu thuẫn xã hội. Một điều hợp quy luật là
trong thời kỳ ấy luôn chứa đựng cái cũ và cái mới, diễn ra cuộc đấu tranh của các giai
cấp dưới các hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, đã xuất hiện những mầm mống,
những yếu tố của tính thống nhất và sự thuần nhất về mặt xã hội bộc lộ những quy luật
vận động hoàn toàn khác so với xã hội tư bản chủ nghĩa. Do vậy, V. I. Lê-nin vừa chú
ý đến các mâu thuẫn, vừa xem xét các mối quan hệ giữa chúng với sự thống nhất xã
hội đang phôi thai. Đó là sự phát triển mới của V. I. Lê-nin được thể hiện trên một số khía cạnh như sau:
Một là, Người chỉ ra tính cấp thiết của việc nghiên cứu về các mâu thuẫn xã hội trong
thời kỳ quá độ. Phát hiện ra những mâu thuẫn quyết định sự hiểu biết khoa học về hiện
thực và không thể lãnh đạo bước quá độ nếu không phân tích các mâu thuẫn. “Mâu
thuẫn của cuộc sống sinh động: đó là toàn bộ then chốt của vấn đề” và “vậy thì danh từ
quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện
nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và Chủ
Nghĩa Xã Hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Song không phải mỗi người
thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác
nhau... chính là như thế nào” . Trong thời kỳ quá độ, V.I. Lê-nin chỉ ra nhiều thành
phần kinh tế còn tồn tại gắn với các giai cấp, tầng lớp mà mục đích và lợi ích khác
nhau. Điều đó làm cho tính chất mâu thuẫn càng thêm phức tạp và biểu hiện tính đặc thù.
Hai là, V. I. Lê-nin đã vạch ra hệ thống các kiểu mâu thuẫn mới nảy sinh trong thời kỳ
quá độ như: mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu
thuẫn bên trong và bên ngoài, đồng thời xác định vai trò của chúng trong sự phát triển
của xã hội. Đặc biệt, Người đã chú trọng cụ thể hóa mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn
bên ngoài trong điều kiện nước Cộng hòa Xô-viết ở giữa vòng vây của các nước tư
bản, nhận thức đúng kẻ thù bên trong, kẻ thù bên ngoài nhằm xác định phương thức
đấu tranh phù hợp. Mối quan hệ ấy cũng chính là một trong những cơ sở quan trọng
cho V. I. Lê-nin phát triển lý luận về cách mạng xã hội. Người chỉ rõ: các cuộc cách 12
mạng “chín muồi trong quá trình phát triển lịch sử và nó bùng nổ vào lúc mà toàn bộ
hàng loạt những nguyên nhân ở trong và ngoài nước quyết định” .
Ba là, V. I. Lê-nin đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa tư bản:
“... Không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có
một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm
hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào
lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ
nghĩa cộng sản đang phát sinh...” . Hơn nữa, V. I. Lê-nin còn vạch ra mâu thuẫn của
toàn bộ lịch sử thời đại mới. Người viết: “Chúng ta không thể biết những phong trào
lịch sử cá biệt của một thời đại nào đó sẽ phát triển nhanh chóng đến mức nào...
Nhưng chúng ta có thể biết và chúng ta biết giai cấp nào đứng ở trung tâm thời đại này
hay thời đại khác và xác định nội dung căn bản, phương hướng phát triển chính của
thời đại ấy, những đặc điểm chủ yếu của bối cảnh lịch sử của thời đại ấy, v.v.” và
“việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản và các tàn tích của nó, việc thiết lập những cơ sở của
chế độ cộng sản là nội dung của cái thời đại mới vừa mới bắt đầu của lịch sử toàn thế giới” .
Bốn là, trong khi phát hiện và luận chứng một cách khoa học những kiểu mâu thuẫn
mới, V.I. Lê-nin đã phân tích một cách sâu sắc về mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn
không đối kháng và chỉ ra: mâu thuẫn không đối kháng là một kiểu mâu thuẫn đặc thù
của Chủ Nghĩa Xã Hội. Người chỉ ra sự đối kháng và mâu thuẫn hoàn toàn không phải
là một, cái thứ nhất sẽ mất đi, cái thứ hai vẫn còn trong Chủ Nghĩa Xã Hội.
Bàn về mâu thuẫn không đối kháng, V.I. Lê-nin lưu ý đến mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân. Người chỉ ra: “nông dân với tư cách là người lao
động = bạn đồng minh; với tư cách là người tư hữu và đầu cơ = kẻ thù” và “toàn thể
nông dân đã đi theo chúng ta... Các Xô-viết đã tập hợp được nông dân nói chung” . Do
vậy, theo Người, giai cấp nông dân cơ bản có mâu thuẫn với giai cấp công nhân nhưng
sự thống nhất lợi ích cơ bản đã vượt qua sự bất đồng giữa họ. Đây chính là đặc điểm
quan trọng nhất của mâu thuẫn không đối kháng. Loại mâu thuẫn này vừa chứa đựng
các khuynh hướng mâu thuẫn, lại vừa bao hàm những lợi ích cơ bản thống nhất đang
vượt qua sự mâu thuẫn đó làm cho sự đối lập của chúng giảm dần trong quá trình phát 13
triển. Để giải quyết nó cũng phải thông qua đấu tranh nhưng với tính chất hoàn toàn
khác, là một quá trình lâu dài, tiến hành từng bước dưới các hình thức giáo dục, thuyết phục là chủ yếu.
Những cống hiến của V. I. Lê-nin trong phát triển học thuyết mác-xít về mâu thuẫn
còn diễn tiến khi lần đầu tiên Người đưa ra phương pháp kết hợp các mặt đối lập, hình
thành sự thống nhất xã hội. Cơ sở khách quan là các mặt đối lập không đối lập tuyệt
đối mà trong những điều kiện nhất định sẽ có những khuynh hướng chung, những yếu
tố đồng nhất chiếm ưu thế dẫn đến sự thống nhất. Theo V. I. Lê-nin, mặc dù “Sự thống
nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện,
tạm thời, thoáng qua, tương đối” nhưng: “... dù sao chúng ta cũng học được ít nhiều
chủ nghĩa Mác, đã học được làm thế nào và khi nào có thể và cần phải thống nhất các
mặt đối lập, và điều chủ yếu là trong thời gian ba năm rưỡi của cuộc cách mạng của
chúng ta, trong thực tiễn chúng ta đã nhiều lần thống nhất các mặt đối lập” . Cũng từ
chủ trương này, V. I. Lê-nin đã nhìn ra khả năng lợi dụng sự bất đồng trong nội bộ giai
cấp tư sản để tạo ra sự trùng nhau một cách khách quan lợi ích cho phép thống nhất
với nhau để đạt mục đích của giai cấp vô sản. V. I. Lê-nin giải thích: “Tôi và người
Pháp theo phái quân chủ đó đã bắt tay nhau, tuy rằng hai bên đều biết chắc rằng mình
rất muốn treo cổ “đồng minh” của mình lên. Nhưng tạm thời lợi ích của chúng tôi
thống nhất với nhau... chúng tôi vì lợi ích của cách mạng xã hội chủ nghĩa Nga và
quốc tế, đã lợi dụng những lợi ích đối chọi nhau, cũng không kém tham tàn, của bọn đế quốc khác” .
Chính sách kinh tế mới (NEP) là một sản phẩm của tư duy kết hợp các mặt đối lập của
V. I. Lê-nin. NEP cho phép chủ nghĩa tư bản và sự tự do buôn bán tồn tại trong những
phạm vi nhất định. “Một nhà buôn sỉ, cái đó có vẻ như một loại điển hình kinh tế, cách
xa chủ nghĩa cộng sản chẳng khác nào đất với trời. Nhưng trong thực tế sinh động,
chính đó lại là một trong những mối mâu thuẫn sẽ dẫn chúng ta từ nền kinh tế tiểu
nông tiến lên Chủ Nghĩa Xã Hội” . Tất nhiên, không phải tất cả các mặt đối lập đều có
thể kết hợp mà cần tính toán nghiêm ngặt khả năng cho sự kết hợp ấy. Vấn đề trọng
yếu là kết hợp thế nào để có được sự thống nhất hài hòa, không phải theo nghĩa hoàn 14
toàn triệt tiêu sự đối lập mà làm cho cái chung trùng hợp với nhau tạo ra hiệu quả và
lợi ích lớn nhất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. 4
4 Nguyễn Tuấn Linh, HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ, BỘ QUỐC PHÒNG,Học thuyết Mác - Lê-nin về mâu
thuẫn và sự vận dụng trong thời kỳ quá độ lên CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ở Việt Nam hiện
nay,https://tapchicongsan.org.vn/en_US/nghien-cu/-/2018/38926/hoc-thuyet-mac---le-nin-ve-mau-thuan-
va-su-van-dung-trong-thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-x -

a hoi-o-viet-nam-hien-nay.aspx 15