



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 44985297
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ KINH TẾ SỐ
MÔN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Đề tài: Quy phạm pháp luật về vi phạm dân sự và trách nhiệm dân sự
Sinh viên thực hiện: Nhóm 1
Lớp: Kinh doanh thương mại 64B
Giảng viên giảng dạy: Thầy Nguyễn Hoàng Vân Mục Lục
A. Phân tích trách nhiệm dân sự ....................................................................................................................... 3
I. Khái niệm ..................................................................................................................................................... 3
II. Đặc điểm trách nhiệm dân sự ................................................................................................................... 3
III. Trường hợp phải chịu/ không phải chịu trách nhiệm dân sự ............................................................... 4
IV. Trách nhiệm dân sự .................................................................................................................................. 6
B. Hiện trạng trách nhiệm dân sự ở việt nam hiện nay ................................................................................ 20 1 lOMoAR cPSD| 44985297 2 lOMoAR cPSD| 44985297
A. Phân tích trách nhiệm dân sự I. Khái niệm
- Trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi (sự trừng phạt) đối với chủ thể vi
phạm pháp luật, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước với các chủ
thể vi phạm pháp luật, được các quy phạm pháp luật xác lập và điều chỉnh,
trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải chịu những hậu quả bất lợi, những
biện pháp cưỡng chế được quy định ở chế tài các quy phạm pháp luật.
- Trách nhiệm dân sự là trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng
đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất,
tinh thần cho người bị thiệt hại.
+ Đối tượng là cá nhân, tổ chức. Hình thức xử lý trách nhiệm dân sự là chịu
mức bồi thường thiệt hại và các biện pháp khắc phục.
+ Căn cứ phát sinh sau khi thỏa thuận thành công thì người có lỗi phải bồi
thường thiệt hại. Nếu không thỏa thuận được, thì được giải quyết tại tòa
án dân sự, sau khi có quyết định của tòa án thì người có lỗi phải bồi
thường thiệt hại và có biện pháp khắc phục hậu quả nếu có.
+ Mục đích là nhằm răn đe những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật
phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho người bị hại do hành vi vi phạm gây
ra nhằm khắc phục những tổn thất do họ gây ra. - Trách nhiệm dân sự được
hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
+ Trách nhiệm dân theo nghĩa rộng được hiểu là: bổn phận xác định của các
chủ thể pháp luật dân sự trong việc tuân thủ các quy định của pháp luật
nói chung và pháp luật nói riêng, vì lợi ích nhà nước, xã hội và các chủ
thể khác. Hoặc trách nhiệm dân sự là các biện pháp có tính cưỡng chế
được áp dụng nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu của một quyền dân sự bị vi phạm.
+ Trách nhiệm dân sự theo nghĩa hẹp được hiểu là các biện pháp có tính
cưỡng chế áp chế đối với người có hành vi vi phạm pháp luật gây ra thiệt
hại cho người khác, người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm khắc phục
hậu quả xấu xảy ra bằng tài sản của mình.
II.Đặc điểm trách nhiệm dân sự 1. Đặc điểm chung 3 lOMoAR cPSD| 44985297
Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý nói chung, nên giống như
các loại trách nhiệm pháp lý khác, nó cũng có những đặc điểm chung sau đây:
+ Là hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm, chỉ được áp dụng khi có hành vi vi
phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối với người có hành vi vi phạm đó.
+ Là một hình thức cưỡng chế của nhà nước và do cơ quan có thẩm quyền
của nhà nước áp dụng.
+ Luôn mang đến một hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm.
+ Mục đích của trách nhiệm pháp lý không chỉ là trừng trị hành vi vi phạm
mà bên cạnh đó còn là sự khôi phục lại tình trạng tương ứng với phần hậu
quả mà người vi phạm đã gây ra do không thực hiện nghĩa vụ của mình..
Vì vậy có thể rút ra kết luận: Trách nhiệm pháp lý có tính đền bù 2. Đặc điểm riêng
+ Căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự là hành vi vi phạm luật dân sự hoặc vi
phạm hợp đồng: đó là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không
đầy đủ nghĩa vụ của người có nghĩa vụ dân sự.
+ Trách nhiệm dân sự là biện pháp cưỡng chế mang tính tài sản. Đây chính là
đặc điểm cơ bản của trách nhiệm dân sự. Do đó, trách nhiệm dân sự của
người vi phạm bao giờ cũng là sự bù đắp cho bên vi phạm những lợi ích vật chất nhất định.
+ Chủ thể chịu trách nhiệm dân sự có thể là người vi phạm nhưng cũng có thể
là người khác, như là người đại diện theo pháp luật cho người chưa thành
niên, pháp nhân, cơ quan, tổ chức.
+ Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu có thể là việc
phải thực hiện nghĩa vụ, thực hiện đúng và thực hiện đủ nghĩa vụ và nếu
có thiệt hại thực tế từ vi phạm đó thì sẽ phát sinh thêm trách nhiệm bồi thường thiệt hại
+ Trách nhiệm dân sự nhằm đền bù hoặc khôi phục lại quyền và lợi ích bị xâm phạm.
III.Trường hợp phải chịu/ không phải chịu trách nhiệm dân sự
1. Khi nào phải chịu TNDS?
Theo khoản 1 Điều 351 Bộ luật dân sự 2015 thì: 4 lOMoAR cPSD| 44985297
+ Bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền.
+ Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời
hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ.
Như vậy, trách nhiệm dân sự chỉ đặt ra khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ.
Việc các bên không thực hiện đúng nghĩa vụ về chủ thể, thời hạn, địa điểm, đối
tượng, phương thức, nội dung... đều bị coi là vi phạm nghĩa vụ và phải chịu trách nhiệm dân sự.
Trách nhiệm dân sự có thể là trách nhiệm tiếp tục phải thực hiện nghĩa vụ hoặc
trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Theo quy định của pháp luật dân sự, độ tuổi chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân như sau:
+ Cá nhân từ đủ 18 tuổi thì phải tự bồi thường cho những thiệt hại bản thân gây ra;
+ Cá nhân dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha mẹ phải bồi thường.
Trường hợp tài sản của cha, mẹ không đủ mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản
riêng đó để bồi thường phần còn thiếu.
+ Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản
của mình, nếu tài sản không đủ thì cha, mẹ phải lấy tài sản của mình bồi thường phần còn thiếu đó.
+ Trường hợp người chưa thành niên, người có khó khăn trong nhận thức, người mất
năng lực hành vi dân sự làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì
người giám hộ có thể dùng tài sản của người được giám hộ để thực hiện trách
nhiệm bồi thường, nếu tài sản không đủ thì người giám hộ sử dụng tài sản của
mình để bồi thường phần còn thiếu. Ví dụ:
Công ty A và công ty B ký hợp đồng mua bán. Công ty A là bên mua nguyên
liệu phục vụ sản xuất, công ty B là công ty cung cấp. Trong hợp đồng, hai bên
đã thỏa thuận sẽ bàn giao hàng vào 15/07/2020 và bên A có nghĩa vụ thanh toán
hết tiền hàng cho bên B hạn cuối vào 30/07/2020. Tuy nhiên, bên B không bàn
giao hàng đúng thời hạn khiến bên A không thể sản xuất và có nhiều thiệt hại.
Như vậy, bên B đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Bên A là bên bị thiệt
hại vì sản xuất bị ngưng và bị hủy một số đơn hàng. Trong trường hợp này,
trách nhiệm dân sự thuộc về bên B, bên B có trách nhiệm hoàn thành các nghĩa
vụ đã giao kết trong hợp đồng và bồi thường những thiệt hại của bên A.
2. Trường hợp không phải chịu TNDS: 5 lOMoAR cPSD| 44985297
Theo khoản 2, 3 Điều 351 Bộ luật dân sự 2015:
+ Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất
khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
+ Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được
nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.
Như vậy có hai trường người có nghĩa vụ có thể không chịu trách nhiệm
dân sự do vi phạm nghĩa vụ:
- Thứ nhất là trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ
do sự kiện bất khả kháng.
- Thứ hai là trường hợp nghĩa vụ không thực hiện được hoàn toàn do lỗi của bên có quyền.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được
nghĩa vụ không phải do lỗi của họ mà có thể do một sự kiện khách quan mà
họ không thể lường trước và không thể kiểm soát được. Trong trường hợp
này, khoản 2 Điều 351 Bộ luật dân sự 2015 dự liệu trường hợp loại trừ trách
nhiệm dân sự mặc dù nghĩa vụ không được thực hiện đúng đó là trường hợp bất khả kháng.
Bất khả kháng theo quy định tại Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015 là sự kiện
xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc
phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
IV. Trách nhiệm dân sự
1. Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ 1.1 Khái niệm -
Trong Khoản 1 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định: “Bên có
nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với
bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện 6 lOMoAR cPSD| 44985297
nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện
không đúng nội dung của nghĩa vụ”. -
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ là trách
nhiệm pháp lý do Tòa án hoặc chủ thể khác được phép áp dụng đối với
chủ thể có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ
theo các giao dịch đã được xác lập trước đó. 2.1 Đặc điểm -
Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ cũng là một trong những loại
trách nhiệm pháp lý nói chung nên nó mang những đặc điểm chung của
trách nhiệm pháp lý như:
+ Chỉ được áp dụng khi có hành vi vi phạm pháp luật và chỉ áp dụng đối
với người có hành vi vi phạm đó.
+ Là một hình thức cưỡng chế của Nhà nước và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng.
+ Luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm pháp luật dân sự.
+ Bên cạnh những đặc điểm chung trên, trách nhiệm dân sự do vi phạm
nghĩa vụ còn có những đặc điểm riêng biệt:
+ Biểu hiện cụ thể của hành vi vi phạm pháp luật trong trách nhiệm dân sự
là việc không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ
của người có nghĩa vụ dân sự;
+ Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ bao giờ cũng liên quan trực tiếp
với tài sản. Lợi ích mà các bên hướng tới trong các quan hệ nghĩa vụ
dân sự bao giờ cũng mang tính chất tài sản, vì vậy, việc vi phạm nghĩa
vụ của bên này sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích vật chất của bên
kia. Do đó, trách nhiệm dân sự của người vi phạm là phải bù đắp những
tổn thất về vật chất và tinh thần cho người bị hại 7 lOMoAR cPSD| 44985297
+ Trách nhiệm dân sự được áp dụng với người có hành vi vi phạm nhưng
cũng có thể được áp dụng đối với người khác (người đại diện cho người
chưa thành niên) có lỗi trong việc quản lý
+ Hậu quả bất lợi mà người vi phạm nghĩa vụ phải gánh chịu là việc bắt
buộc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại
nhằm để thỏa mãn quyền lợi chính đáng và khôi phục, khắc phục những
hậu quả vật chất cho người bị vi phạm
3.1 Các loại trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ
- Trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà
bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ thì trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ đối với
người có quyền sẽ có hiệu lực.
- Tuy nhiên, nếu hành vi vi phạm nghĩa vụ này chưa gây ra thiệt hại thì
người vi phạm chỉ có trách nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ. Mặt khác, nếu
việc vi phạm nghĩa vụ đã gây ra một thiệt hại nào đó cho người bị vi
phạm thì người vi phạm nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Vì vậy, tùy thuộc vào tính chất, hậu quả của sự vi phạm nghĩa vụ mà trách
nhiệm dân sự được phân thành hai loại trách nhiệm sau:
a) Trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ dân sự:
Trong Điều 352 Bộ luật Hình sự 2015 có ghi: “Khi bên có nghĩa vụ thực hiện
không đúng nghĩa vụ của mình thì bên có quyền được yêu cầu bên có nghĩa vụ
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ”. Theo đó, trách nhiệm mà người vi phạm phải chịu
có thể là bồi thường thiệt hại hoặc là tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Trong đó,
pháp luật cũng quy định rõ người vi phạm nghĩa vụ phải tiếp tục thực hiện
nghĩa vụ theo yêu cầu của bên có quyền. Nếu bên có quyền đã yêu cầu mà bên
có nghĩa vụ không thực hiện thì bên có quyền có quyền yêu cầu cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế buộc bên có nghĩa vụ
phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Loại trách nhiệm này bao gồm:
Trách nhiệm do không thực hiện nghĩa vụ giao vật
Không thực hiện nghĩa vụ giao vật có thể được hiểu là việc bên có nghĩa vụ
chuyển giao vật là đối tượng của giao dịch dân sự đã không chuyển giao vật
cho bên có quyền, hoặc bên có nghĩa vụ chuyển giao vật đã thực hiện giao vật 8 lOMoAR cPSD| 44985297
không đúng chất lượng, giao vật không đúng thời hạn, giao vật sai địa điểm,
giao vật không đúng phương thức, giao vật không đúng số lượng, không giao
đúng vật cùng loại, cùng đồng bộ theo thỏa thuận giữa hai bên trong hợp
đồng. Lúc này trách nhiệm được đặt ra đối với người vi phạm theo quy định
của Điều 356 Bộ luật Dân sự 2015:
“1. Trường hợp nghĩa vụ giao vật đặc định không được thực hiện thì bên bị vi
phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao đúng vật đó; nếu vật không
còn hoặc bị hư hỏng thì phải thanh toán giá trị của vật. 2.
Trường hợp nghĩa vụ giao vật cùng loại không được thực hiện thì bên
bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao vật cùng loại khác; nếu
không có vật cùng loại khác thay thế thì phải thanh toán giá trị của vật. 3.
Trường hợp việc vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều này mà gây thiệt hại cho bên bị vi phạm thì bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại.”
Trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền
Chậm thực hiện nghĩa vụ có thể được hiểu là bên có nghĩa vụ phải có hành
động cụ thể, rõ ràng với bên có quyền, thông báo cho bên có quyền biết về
việc mình không thể hoàn thành nghĩa vụ đúng thời hạn. Bên có quyền có thể
chấp nhận gia hạn cho bên vi phạm để hoàn thành nghĩa vụ. Việc chậm thực
hiện nghĩa vụ vẫn không thay đổi được kết quả là bên vi phạm vẫn phải tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ của mình, trừ khi được bên có quyền yêu cầu không
tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.
Bộ luật Dân sự 2015 đã đưa ra khái niệm tại khoản 1 Điều 353:
“Chậm thực hiện nghĩa vụ là nghĩa vụ vẫn chưa được thực hiện hoặc chỉ được
thực hiện một phần khi thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã hết.”
Tài sản chính là đối tượng của quan hệ nghĩa vụ và theo đó, bên có nghĩa vụ
phải trả tiền cho bên có quyền khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Trong
trường hợp đến thời hạn nhưng bên có nghĩa vụ chưa trả tiền cho bên có
quyền thì bên có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm dân sự. Điều 357 Bộ luật
Dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền như sau: 9 lOMoAR cPSD| 44985297
“1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số
tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các
bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều
468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại
khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này” Điều 468 của Bộ luật Dân sự nêu rõ:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận
không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác
có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của
Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất
nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định
tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi
suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi
suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”
• Trách nhiệm do chậm tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ
Chậm tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ nghĩa là “tiếp nhận việc thực hiện nghĩa
vụ muộn hơn thời hạn đã cam kết, thỏa thuận”. Theo quy định tại khoản 1
Điều 355 của Bộ luật Dân sự 2015 thì “Chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa
vụ là khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ đã thực hiện
nhưng bên có quyền không tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đó”
• Trách nhiệm của các bên trong việc chậm tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ Tại
khoản 2,3 Điều 355 của Bộ luật Dân sự 2015 nêu rõ:
“2. Trường hợp chậm tiếp nhận đối tượng của nghĩa vụ là tài sản thì bên có
nghĩa vụ có thể gửi tài sản tại nơi nhận gửi giữ tài sản hoặc áp dụng biện pháp
cần thiết khác để bảo quản tài sản và có quyền yêu cầu thanh toán chi phí hợp
lý. Trường hợp tài sản được gửi giữ thì bên có nghĩa vụ phải thông báo ngay cho bên có quyền. 10 lOMoAR cPSD| 44985297
3. Đối với tài sản có nguy cơ bị hư hỏng thì bên có nghĩa vụ có quyền bán tài
sản đó và phải thông báo ngay cho bên có quyền, trả cho bên có quyền khoản
tiền thu được từ việc bán tài sản sau khi trừ chi phí hợp lý để bảo quản và bán tài sản đó.”
Mặc dù người có nghĩa vụ không được miễn thực hiện nghĩa vụ nhưng người
có nghĩa vụ được miễn mọi điều bất lợi gắn với việc không thực hiện nghĩa
vụ. Khi bên có quyền chậm tiếp nhận thực hiện nghĩa vụ thì bên có nghĩa vụ
vẫn phải có các biện pháp để bảo quản tài sản và có quyền yêu cầu thanh toán
chi phí phát sinh bảo quản tài sản đó.
Nếu tài sản của bên có nghĩa vụ bị hư hỏng thì bên có nghĩa vụ có quyền được
bán tài sản đó đi và trả cho bên có quyền khoản tiền thu được từ việc bán tài
sản sau khi trừ đi chi phí hợp lý để bảo quản và bán tài sản đó. Bên có nghĩa
vụ không phải chờ sự đồng ý của bên có quyền về việc bán tài sản của mình.
Đối với bên có quyền thì bên có quyền sẽ phải chịu trách nhiệm theo quy định
của Điều 359 Bộ luật Dân sự 2015:
“Bên có quyền chậm tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ làm phát sinh thiệt hại
cho bên có nghĩa vụ thì phải bồi thường thiệt hại cho bên đó và phải chịu mọi
rủi ro, chi phí phát sinh kể từ thời điểm chậm tiếp nhận, trừ trường hợp luật có quy định khác.”
Trách nhiệm do không thực hiện hoặc không được thực hiện một công việc
Khi các bên đã thỏa thuận đối tượng của hợp đồng là công việc phải thực hiện
mà bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đó thì bên có nghĩa vụ sẽ phải
chịu trách nhiệm dân sự trước bên có quyền. Trách nhiệm này đã được quy
định tại Khoản 1 Điều 358: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện
một công việc mà mình phải thực hiện thì bên có quyền có thể yêu cầu bên có
nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hoặc tự mình thực hiện hoặc giao người khác thực
hiện công việc đó và yêu cầu bên có nghĩa vụ thanh toán chi phí hợp lý, bồi thường thiệt hại.”
Với quy định này thì bên có quyền có thể lựa chọn một trong ba hành vi: bên
có quyền có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện công việc và bồi
thường thiệt hại; bên có quyền sẽ tự thực hiện công việc và yêu cầu bên có
nghĩa vụ thực hiện thanh toán chi phí hợp lý, bồi thường thiệt hại hoặc là bên
có quyền có thể giao công việc cho người khác thực hiện và bên có nghĩa vụ
thực hiện thanh toán chi phí hợp lý. 11 lOMoAR cPSD| 44985297
Khi các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng về việc thực hiện hay không thực
hiện công việc đó mà bên có nghĩa vụ lại vi phạm cam kết trong hợp đồng thì
bên có nghĩa vụ sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự. Tại khoản 2 Điều 358 Bộ
luật Dân sự 2015 quy định:
“Khi bên có nghĩa vụ không được thực hiện một công việc mà lại thực
hiện công việc đó thì bên có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ chấm dứt việc thực
hiện, khôi phục tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại.”
b) Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trong quan hệ hợp đồng, khi một bên không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ như đã thỏa thuận hay cam kết và gây thiệt hại cho bên kia thì
đó chính là căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ là loại trách nhiệm pháp lý áp dụng
đối với bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ giao dịch dân sự và gây thiệt hại cho
bên bị vi phạm nhằm bù đắp tổn thất về vật chất lẫn tinh thần cho bên bị vi phạm.
Tại Điều 360 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường như sau:
“Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
Theo đó, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường bao gồm 03 yếu tố:
- Có hành vi trái pháp luật:
Là loại trách nhiệm pháp lý nên nó phát sinh trên cơ sở có sự vi phạm pháp
luật. Tuy nhiên, đối với một số trường hợp, không thực hiện nghĩa vụ không
bị coi là vi phạm pháp luật và không phải bồi thường thiệt hại, đó là: Nghĩa vụ
dân sự không thể thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền và
nghĩa vụ dân sự không thể thực hiện được do sự kiện bất khả kháng. Một sự
kiện sẽ được coi là bất khả kháng nếu đó là sự kiện khách quan làm cho bên
có nghĩa vụ không thể biết trước và cũng không thể tránh được. Bên có nghĩa
vụ không thể khắc phục được khó khăn do sự kiện đó gây ra dù đã áp dụng
mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép của mình. 12 lOMoAR cPSD| 44985297 - Có thiệt hại xảy ra:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi một bên đã vi phạm hợp đồng
gây thiệt hại cho bên kia, dù cả hai bên không có thỏa thuận thì trách nhiệm
bồi thường vẫn sẽ được đặt ra. Thiệt hại ở đây được xác định bao gồm cả thiệt
hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần đã được quy định rõ tại Điều 361 Bộ luật Dân sự 2015:
Thiệt hại về vật chất: bao gồm những tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để
ngăn chặn hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút
Thiệt hại về tinh thần: bao gồm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể.
- Có mối quan hệ nhân quả:
Phải có sự liên hệ nhân quả với nhau thì mới có thể yêu cầu bồi thường thiệt
hại. Có thể hiểu hành vi vi phạm chính là nguyên nhân, thiệt hại chính là kết
quả. Chỉ khi thiệt hại xảy ra là hậu quả tất yếu từ hành vi vi phạm thì người vi
phạm mới phải bồi thường thiệt hại.
- Lỗi của người vi phạm dân sự:
Bộ luật Dân sự 2015 quy định người có hành vi vi phạm trái pháp luật thì sẽ
phải chịu trách nhiệm dân sự bất kể đó là lỗi vô ý hay cố ý. Có thể hiểu rằng
khi áp dụng trách nhiệm dân sự thì không cần phải xác định mức lỗi của
người vi phạm là vô ý hay cố ý nếu các bên không thỏa thuận hay không có
quy định pháp luật khác. Tuy nhiên, ở một số trường hợp nhất định thì việc
xác định lỗi lại đóng vai trò rất quan trọng khi xem xét người vi phạm có
được giảm mức bồi thường thiệt hại hay không. Ví dụ, người vi phạm phải
chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp không có lỗi hoặc lỗi vô ý và
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình thì sẽ được giảm mức bồi thường.
Bộ luật Dân sự 2015 cũng đã quy định rõ về lỗi trong trách nhiệm dân sự tại Điều 364: 13 lOMoAR cPSD| 44985297
“Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt
hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong
muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra
hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng
thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.”
Ngoài ra, khi xem xét trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ cũng cần phải
lưu ý hai quy định được ban hành trong Bộ luật Dân sự 2015:
- Nghĩa vụ ngăn chặn thiệt hại:
Tại Điều 362 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Bên có quyền phải áp dụng các
biện pháp cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra hoặc hạn chế thiệt hại cho mình.”
Với quy định này, bên có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các
biện pháp cần thiết, hợp lý để hạn chế thiệt hại có thể xảy ra với mình. Trong
trường hợp người có quyền chậm trễ trong việc áp dụng các biện pháp cần
thiết để giảm thiểu rủi ro, thiệt hại cho mình thì người gây thiệt hại có quyền
yêu cầu giảm mức bồi thường tương ứng với mức thiệt hại mà người có quyền
có thể hạn chế được.
- Bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị vi phạm có lỗi
Bộ luật Dân sự 2015 đã quy định tại Điều 363: “Trường hợp vi phạm nghĩa vụ
và có thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải
bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình.”
Quy định này là chế tài xử lý trách nhiệm dân sự đối với trường hợp không
thực hiện đúng nghĩa vụ và gây ra thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi
phạm thì bên vi phạm hoàn toàn có quyền yêu cầu giảm mức bồi thường tùy
theo mức độ lỗi của bên bị vi phạm. Trong trường hợp người gây thiệt hại
chứng minh được việc vi phạm nghĩa vụ là do sự cố bất khả kháng hoặc hoàn
toàn là lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại sẽ không phải chịu
trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận, cam kết khác hoặc quy định khác của pháp luật.
2. Trách nhiệm dân sự do vi phạm ngoài hợp đồng 14 lOMoAR cPSD| 44985297 2.1. Khái niệm
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách
nhiệm dân sự, cụ thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại áp dụng đối với
người có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại. Trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự phát
sinh giữa các chủ thể mà trước đó không có quan hệ hợp đồng hoặc tuy có
quan hệ hợp đồng nhưng hành vi của người gây ra thiệt hại không thuộc về
nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đã giao kết.
Ví dụ: anh A mời anh B đi nhậu nhân dịp thăng chức, khi đã nhậu say và bắt
đầu bất đồng quan điểm về một số vấn đề, hai anh đã xảy ra mâu thuẫn. Sau
đó, do không kiểm soát được cơn nóng giận, anh A đã dùng chai bia rỗng
đánh vào đầu anh B làm anh B bị thương, với tỷ lệ thương tích là 6%.
Trong trường hợp trên, anh A đã xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng của
anh B trái pháp luật. Do đó, anh A phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh B.
2.2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồngTheo Khoản 1, Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015, Nhà nước quy định:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”
Trách nhiệm bồi thường phát sinh dựa trên 4 điều kiện sau: Có thiệt hại xảy ra:
Thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành tiền, do việc xâm phạm đến
tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, tài sản của cá nhân, tổ chức. Thiệt hại
bao gồm cả thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần, trong đó, thiệt hại về
tinh thần được hiểu là do bên xâm phạm mà người bị hại phải chịu những tổn
thất về mặt cảm xúc, bị giảm sút hoặc mất đi uy tín, lòng tin,... Bên vi phạm
có nghĩa vụ bồi thường một khoản tiền thỏa đáng cho bên bị vi phạm.
Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật: 15 lOMoAR cPSD| 44985297
Hành vi trái pháp luật trong dân sự là những hành vi do chủ thể có năng lực
trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm phạm đến các quan hệ thân nhân và tài
sản được pháp luật bảo vệ bằng những chế tài có tính răn đe để bảo vệ công
lý, lẽ phải, quyền công bằng giữa con người với nhau. Mọi công dân, tổ chức
đều có quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản một
cách tuyệt đối, và không một chủ thể nào được thực hiện các hành vi xâm phạm tới quyền đó.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra:
Mối quan hệ giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra phải là mối quan hệ
biện chứng nguyên nhân - kết quả. Nghĩa là thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất
yếu của hành vi trái pháp luật do một chủ thể phạm phải. Ngược lại, hành vi
phạm pháp phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các thiệt hại về vật chất
hoặc tinh thần. Điều này được quy định tại Bộ luật Dân sự dưới dạng: “Người
nào…xâm phạm…mà gây thiệt hại…thì phải bồi thường.” Có yếu tố lỗi của người gây thiệt hại:
Bộ luật Dân sự 2015 quy định, yếu tố lỗi của người gây thiệt hại không được
coi là căn cứ bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Lỗi của người gây thiệt hại được thể hiện dưới hai dạng: cố ý hoặc
vô ý, dựa trên xem xét thái độ tâm lí của người có hành vi gây thiệt hại.
Cố ý gây thiệt hại: nghĩa là một người nhận thức được rõ rằng hành vi của
mình sẽ gây hại cho người khác, nhưng vẫn thực hiện và mặc cho hậu quả xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại: nghĩa là một người không có chủ đích thực hiện hành vi
gây thiệt hại, hoặc không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc không thể ngăn chặn được thiệt hại.
2.3 . So sánh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong và ngoài hợp đồng
Bồi thường thiệt hại trong hợp
Bồi thường thiệt hại ngoài đồng hợp đồng
Căn cứ phát Khi có sự vi phạm nghĩa vụ đã Khi phát sinh một hành vi vi sinh
thỏa thuận trong hợp đồng, gây phạm dân sự, cố ý gây thiệt hại ra thiệt hại trên thực tế.
cho bên còn lại và hành động này không liên quan đến bất cứ hợp đồng đã được kí kết nào. 16 lOMoAR cPSD| 44985297
Hành vi vi Vi phạm những cam kết được Vi phạm những quy định của phạm quy
định cụ thể, những nghĩa vụ pháp luật nói chung, những quy mà hai bên đã ràng
buộc nhau định do nhà nước ban hành dẫn bằng một hợp đồng thống nhất. đến phát sinh thiệt hại. Phương thức
Trường hợp các bên đã thỏa
Bên gây thiệt hại phải tiến hành
thực hiện thuận trong hợp đồng: thực hiện
bồi thường toàn bộ và kịp thời. theo
hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận mức
Trường hợp các bên chưa thỏa bồi thường và phương thức bồi
thuận trong hợp đồng: khi xảy ra
thường, trừ trường hợp luật
pháp thiệt hại có thể thỏa thuận lại
có quy định khác. mức độ
thiệt hại và phương thức bồi thường thiệt hại. Yếu tố lỗi
Xem xét lỗi của bên vi phạm hợp
Yếu tố lỗi không phải căn cứ
đồng, nếu bên vi phạm không có
phát sinh trách nhiệm, không có
lỗi thì không phải đền bù thiệt
lỗi vẫn phải chịu trách nhiệm bồi hại.
thường cho bên còn lại. Yếu tố
lỗi trong trường hợp này chỉ để
xem xét mức độ chịu trách nhiệm.
Thời điểm phát Kể từ thời điểm có thiệt hại xảy
Kể từ thời điểm có thiệt hại
thực sinh trách ra do có bên vi phạm nghĩa vụ tế xảy ra. nhiệm
hợp đồng, trừ trường hợp các bên
đã có thỏa thuận khác. Nghĩa vụ
Bên bị vi phạm phải chứng minh Bên bị vi phạm không phải chứng minh thiệt hại. chứng minh thiệt hại. thiệt hại
Trích nguồn tham khảo: https://dsplawfirm.vn/thiet-hai-la-gi-phan-biet-
boithuong-thiet-hai-trong-hop-dong-va-boi-thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong/
2.4. Nguyên tắc BTTH ngoài hợp đồng 17 lOMoAR cPSD| 44985297
Nội dung quy định về nguyên tắc BTHH ngoài hợp đồng tại Điều 585, BLDS 2015 cho biết:
Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể
thỏa thuận về mức bồi thường và hình thức bồi thường, đồng thời thỏa thuận
đó không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.
Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi
thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
Bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại đều có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ
quan có thẩm quyền khác của Nhà nước thay đổi mức bồi thường nếu mức bồi
thường đó không còn phù hợp với thực tế.
Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường
phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy
ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế
thiệt hại cho chính mình.
Trích nguồn tham khảo: https://bachkhoaluat.vn/cam-nang/9141/nguyen-tac boi-
thuong-thiet-hai-ngoai-hop-dong-theo-bo-luat-dan-su-nam-2015
2.5. Năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân
Điều 586, Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ phải tự bồi
thường thiệt hại do họ gây ra. Điều này xuất phát từ “khả năng của cá nhân
bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.” Họ phải
chịu trách nhiệm do hành vi trái pháp luật của họ bằng tài sản của chính họ.
Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải
bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường
mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi
thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định về Bồi thường thiệt hại do
người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong
thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý. 18 lOMoAR cPSD| 44985297
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha,
mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì
người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường;
nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường
thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ
chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài
sản của mình để bồi thường.
Những người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại
trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lí thì trường học, bệnh viện phải
bồi thường. Nếu các tổ chức nêu trên mà không có lỗi thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường.
Trích nguồn tham khảo: https://lawkey.vn/nang-luc-chiu-trach-nhiem-boi thuong- thiet-hai/
Điều 599. Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi, người mất năng
lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân
khác trực tiếp quản lý
Người chưa đủ mười lăm tuổi trong thời gian trường học trực tiếp quản lý mà
gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời
gian bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, pháp nhân
khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
Trường học, bệnh viện, pháp nhân khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này không phải bồi thường nếu chứng minh được mình không có lỗi trong
quản lý; trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười
lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường. Trích nguồn tham khảo: 19 lOMoAR cPSD| 44985297
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Quyen-dan-su/Bo-luat-dan-su-2015 296215.aspx
2.6. Năng lực chịu trách nhiệm BTTH của pháp nhân Pháp nhân
Pháp nhân là tổ chức độc lập để xác lập quyền và nghĩa vụ trong hoạt động
của nó, nên bắt buộc phải có tài sản độc lập. Có tài sản độc lập mới có thể tự
chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình đối với các giao dịch, quyền và nghĩa
vụ mà nó xác lập. Hành vi của người đại diện, của thành viên pháp nhân ngoài
việc mang lại quyền cho pháp nhân thì cũng mang lại nghĩa vụ cho chính
pháp nhân đó. Nếu những thành viên của pháp nhân gây thiệt hại khi thực
hiện công việc của pháp nhân giao cho thì pháp nhân phải bồi thường thiệt hại.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH của pháp nhân và trách nhiệm bồi hoàn
Điều 597 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực
hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì
có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một
khoản tiền theo quy định của pháp luật.
Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại khi thành viên của pháp nhân gây ra trong
khi thực hiện nhiệm vụ được giao nhằm xác định trách nhiệm quản lí của con
người, theo dõi công việc đối với thành viên thuộc pháp nhân đó. Ngoài ra,
quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người bị thiệt hại.
Trích nguồn tham khảo: https://lawkey.vn/boi-thuong-thiet-hai-do-nguoi-cua phap-nhan-gay-ra/
B. Hiện trạng trách nhiệm dân sự ở việt nam hiện nay 20