Quyền bình đẳng dân tộc gì? tưởng Hồ
Chí Minh về bình đẳng dân tộc?
1. Khái niệm về quyền bình đẳng dân tộc
Bình đẳng dân tộc quyền của các dân tộc trong một quốc gia không bị phân
biệt theo trình đ phát triển, màu da, đa số, thiểu số đều quyền nghĩa
vụ như nhau.
Quyền bình đẳng dân tộc Việt Nam được ghi trong các Hiến pháp năm
1946, 1959, 1980 1992.
quyền của các dân tộc đã hợp thành quốc gia (quyền của quốc gia) không
phân biệt lớn, nhỏ, trình độ phát triển, chế độ chính trị, kinh tế... địa vị quốc
tế bình đẳng với các quốc gia khác, được tôn trọng độc lập, lãnh thổ toàn vẹn,
chủ quyền..
Trong một quốc gia đa dân tộc, bình đẳng dân tộc vừa quyền, vừa một
trong những nguyên tắc bản trong quan hệ giữa các dân tộc, đảm bảo cho
sự đoàn kết dân tộc phát triển bền vững của cả quốc gia dân tộc.
Thực chất của việc thực hiện quyền bình đẳng dân tộc chính bảo đảm các
quyền bản của mỗi con người mỗi dân tộc, trong đó quyền sống,
quyền t do, mưu cầu hạnh phúc phát triển. Việt Nam một quốc gia đa
dân tộc. dân tộc số dân hàng chục triệu người, song cũng dân tộc
chỉ vài ngàn, thậm chí ch vài trăm người. Các dân tộc trình độ phát
triển kinh tế - hội không đều nhau. Thực hiện quyền bình đẳng dân tộc
nước ta thể hiện vai trò vị t của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Vận dụng luận Mác - Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã làm những nội dung cụ thể của bình đẳng dân tộc Việt
Nam. tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc được thể hiện những nội
dung chủ yếu sau:
2. Bình đẳng dân tộc quyền thiêng liêng, bất kh xâm phạm
của mỗi dân tộc
Khẩu hiệu “Tự do - bình đẳng - bác ái” đã được giai cấp sản giương lên
trong cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến từ thế kỷ XVIII coi đó
quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. M đầu bản Tuyên ngôn độc lập của
Việt Nam năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lời của bản Tuyên ngôn
độc lập của Mỹ Tuyên ngôn nhân quyền dân quyền của Pháp để khẳng
định quyền tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Bình đẳng dân tộc trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khác xa bình
đẳng dân tộc của giai cấp sản. Những giai cấp sản đã làm đối với
các dân tộc phụ thuộc thuộc địa chỉ lời nói chứ không hề trong thực
tế. Ngược lại, Hồ Chí Minh cho rằng, bình đẳng dân tộc không chỉ được cụ
thể hóa về mặt pháp lý, quan trọng hơn phải được thực hiện trên thực
tế. chính Người đã thực hiện điều đó. Ngay sau khi Cách mạng Tháng
Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam đã
khẳng định, các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều bình đẳng
Chính phủ sẽ hết sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số về mọi mặt. Ngay sau
đó, trong Chính phủ, Nha Dân tộc thiểu số được thành lập “để săn sóc cho tất
cả đồng bào”. Trong kháng chiến chống Pháp, Đảng ta tiếp tục đề ra những
chính sách nhằm thực hiện bình đẳng dân tộc. Tháng 8/1952, Bộ Chính trị đã
ra Nghị quyết về dân tộc. Tiếp đó, tháng 6/1953, Chính phủ đã ban hành
chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam với tinh thần bản đoàn kết
các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ lẫn nhau. Các Hiến pháp
của nước ta cũng khẳng định quyền nh đẳng của c dân tộc trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam được cụ thể hóa bằng chính sách dân tộc qua các
thời kỳ.
3. Độc lập dân tộc sở, điều kiện để thực hiện quyền bình
đẳng dân tộc
Bình đẳng dân tộc độc lập dân tộc mối quan hệ chặt chẽ sự tác
động qua lại lẫn nhau. Trong đó, độc lập dân tộc nền tảng để thực hiện
quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Khi quốc gia dân tộc bị thống trị bởi đế
quốc ngoại bang thì các quyền của mỗi dân tộc cũng b chà đạp. Do đó,
không giành được độc lập dân tộc thì cũng không thể nói tới việc thực hiện
bình đẳng dân tộc. ngược lại, thực hiện tốt bình đẳng n tộc sở để
củng cố giữ vững nền độc lập của dân tộc. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã
chứng minh điều đó. Khi thực dân Pháp thống trị nước ta, chúng đã thi hành
những chính sách đi ngược lại với nguyện vọng các quyền của các dân
tộc sống trên dải đất Việt Nam. Đó chính sách “chia để trị”, “dùng người
Việt đánh người Việt”, dùng người dân tộc này đánh người dân tộc khác,
nhằm chia rẽ các dân tộc, phục vụ cho mưu đồ thống trị của chúng. Còn trong
cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ Việt Nam, chúng đã dụ dỗ, mua
chuộc, lôi kéo ép buộc đồng bào các dân tộc Tây Nguyên chống lại ch
mạng.
Do vậy, giành được độc lập dân tộc, mới điều kiện để chăm lo cho
đồng bào các dân tộc, cả về kinh tế, văn hóa, giáo dục y tế. Sau khi cách
mạng Tháng m thành công, nhất sau khi miền Bắc được giải phóng,
Đảng Chính phủ đã những kế hoạch hành động cụ thể để thực hiện
quyền bình đẳng giữa các dân tộc, từng bước mang lại cuộc sống mới cho
đồng bào. Đồng thời, khi chúng ta thực hiện bình đẳng dân tộc thì cách mạng
cũng thêm những nguồn lực quan trọng cho cuộc kháng chiến, tạo ra sức
mạnh tổng hợp cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đi đến thắng lợi.
Ngày nay, khi đã độc lập dân tộc t chúng ta càng điều kiện càng
phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
4. Thực hiện bình đẳng dân tộc và việc tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc
Thực hiện nh đẳng dân tộc nhân tố quyết định để củng cố tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam,
động lực nhân tố ý nghĩa quyết định đối với sự thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc. Xét cả về mặt lý luận thực tiễn thấy
rằng, nếu không xây dựng được khối đại đoàn kết n tộc khi không sự
bình đẳng giữa các dân tộc. Khi một dân tộc này đi chà đạp, ép buộc các dân
tộc khác thì sớm hay muộn sẽ tạo nên sự chia rẽ, ly khai dân tộc.
Chủ tịchHồ Chí Minh đã sớm nhận thấy điều đó khi cho rằng, để xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc t phải thực hiện bình đẳng dân tộc, đại đoàn kết
dân tộc không những phải dựa trên nền tảng của khối liên minh giữa giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân tầng lớp trí thức, còn phải thực hiện
đoàn kết các dân tộc. Tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam,
ngày 3/12/1945, Chủ tịch H Chí Minh đã nói: “Nhờ sức đoàn kết tranh đấu
chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập… Trước
kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập
càng cần đoàn kết hơn nữa”.
sở của khối đại đoàn kết dân tộc bình đẳng dân tộc, lợi ích của tất cả
các dân tộc trong một quốc gia. Khi các dân tộc được đối xử bình đẳng, cả về
nghĩa vụ quyền lợi, sẽ tạo ra tiếng nói chung tạo nên sự đồng thuận
giữa c dân tộc ngược lại. thế nếu không đảm bảo không những
chính sách hành động cụ thể để thực hiện bình đẳng dân tộc, làm cho bình
đẳng dân tộc ngày càng trở thành hiện thực thì khối đại đoàn kết dân tộc sẽ
bị lung lay.
5. Xây dựng thành công chủ nghĩa hội tạo lập sự bình đẳng
giữa các dân tộc
Để thực hiện quyền bình đẳng dân tộc cần phải một hội đó, quyền
bình đẳng giữa các dân tộc điều kiện sở đ thực hiện. hội đó,
không thể khác hội hội chủ nghĩa. Kết luận trên của Hồ Chí Minh
được Người rút ra trong quá trình khảo nghiệm các con đường cứu nước
trong quá trình khảo sát các hội bản. Năm 1919, thay mặt Hội những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người đã gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản
yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các
quyền tự do quyền bình đẳng của n tộc Việt Nam, nhưng không được
chấp thuận. Người đã hiểu ra rằng, quyền tự do dân chủ mà chủ nghĩa tư bản
rêu rao chỉ cái “bánh vẽ”.
Qua quá trình trải nghiệm thực tế c nước bản, Người rút ra kết luận:
“Cách mạng sản, cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hòa dân
chủ, kỳ thực trong thì nó tước lực công nông, ngoài t áp bức thuộc địa”2,
rằng “Trong thế giới bây giờ chỉ cách mệnh Nga đã thành công,
thành ng đến nơi, nghĩa dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do,
bình đẳng thật, không phải tự do bình đẳng giả dối”3. Qua nghiên cứu lý
luận tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh rút ra kết luận hết sức bản: Chỉ
chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản mới thể giải phóng triệt để các
dân tộc bị áp bức”4.
Do đó, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhất sau khi miền Bắc
được giải phóng, cách mạng Việt Nam đã thực hiện đường lối cách mạng
hội chủ nghĩa, nhằm đem lại hạnh phúc ấm no thực sự cho nhân dân
mang lại quyền bình đẳng cho các dân tộc. vậy, Người cho rằng, Đảng,
Nhà nước phải tuyên truyền, vận động đồng bào chung tay xây dựng hội
mới. Tại Hội nghị tuyên giáo miền núi, ngày 31/8/1963, H Chí Minh đã chỉ rõ:
“Trước Cách mạng Tháng Tám trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên
huấn làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một đoàn kết.
Hai làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập… Bây gi mục đích
tuyên truyền huấn luyện là: Một đoàn kết. Hai xây dựng chủ nghĩa
hội”5. Xây dựng thành công chủ nghĩa hội chính phương thức để thực
hiện bình đẳng dân tộc thực sự.
6. Đảng, Nhà nước chủ thể chính trong việc xác lập thực
hiện quyền bình đẳng dân tộc
Đảng, Nhà nước chủ thể chính trong việc xác lập thực hiện quyền bình
đẳng dân tộc, các dân tộc coi nhau n anh em một n giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, trong quan hệ giữa dân tộc đa số trình
độ phát triển cao hơn với các dân tộc thiểu số trình độ thấp hơn rất dễ nảy
sinh tưởng kỳ thị dân tộc, thường hai thái cực: (1), người dân tộc lớn
dễ mắc bệnh kiêu ngạo, (2), cán bộ địa phương, nhân dân địa phương lại
dễ cho mình dân tộc nhỏ bé, tự ti, cái cũng cho mình không làm được,
rồi không cố gắng. Người cho rằng cần phải khắc phục những tưởng
dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi tự ti dân tộc. Trong nhiều hội nghị, trong nhiều
bài viết, i nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng những t rất thân mật, ruột thịt
để nói về tình đoàn kết giữa c dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam,
như “anh em một nhà”, “giúp đ nhau ng tiến bộ”… Người nhấn mạnh rằng,
đồng bào miền xuôi với trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật phát triển hơn
phải giúp đỡ đồng bào thiểu số, để cùng tiến bộ. Trong bài nói chuyện với
cán bộ học sinh Trường phạm miền núi tại Nghệ An, ngày 9/12/1961,
Người nói: “Hồi trước, bọn Tây vua quan phong kiến làm cho các dân tộc
thù ghét lẫn nhau, người Mường ghét người Kinh. Bây giờ các dân tộc đều
anh em cả. Dân tộc nào đông hơn, nhiều người hơn, tiến bộ hơn thì phải giúp
đỡ các dân tộc khác để đều tiến bộ như nhau, đều đoàn kết như anh em một
nhà”6. Trong i viết nhan đề “Một thắng lợi mới” đăng trên báo Nhân dân số
3149, ngày 8/11/1962, Người viết: “Chính sách dân tộc của Đảng Nhà
nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu
giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào
miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt”7. Người đã khẳng định nhiệm vụ của
Trung ương, Chính phủ các cấp ủy đảng phải làm sao nâng cao đời
sống vật chất n hóa của đồng bào các dân tộc, phải giúp đỡ đồng bào
các dân tộc thiểu số về mọi mặt. Cụ thể:
Về chính trị: Xóa bỏ những quy định mang nh bất bình đẳng giữa c dân
tộc; tẩy trừ thành kiến giữa các dân tộc; các dân tộc được tự do bày tỏ
nguyện vọng mong muốn của mình; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cất
nhắc n bộ người dân tộc thiểu số; trong thành phần Quốc hội Chính phủ
phải đại biểu của các dân tộc thiểu số.; Chính phủ phải “làm cho các dân
tộc anh em dần dần tự quản lấy mọi công việc của mình, để mau chóng
phát triển kinh tế văn hóa của mình, để thực hiện c dân tộc bình đẳng về
mọi mặt.
Về kinh tế: Khuyến khích khai hoang; m mang nông nghiệp; phát triển chăn
nuôi; phát triển nghề rừng; trồng cây lương thực cây công nghiệp; đề
phòng sâu bệnh; làm sửa chữa thêm nhiều đường xá; kết hợp chặt chẽ
giao thông với thủy lợi; đẩy mạnh việc cải tiến công cụ, chống xói mòn…
Về văn hóa - hội: Chú ý trình độ học thức cho dân tộc; chú trọng bổ túc
văn hóa; khuyến khích anh chị em giáo viên miền xuôi xung phong lên miền
núi làm công tác giáo dục; phát triển loại trường thanh niên dân tộc vừa học
vừa làm; xóa bỏ tín hủ tục; phải đẩy mạnh việc vệ sinh phòng bệnh, để
giữ gìn sức khỏe của đồng bào
Tóm lại là: Ra sức giúp đ đồng bào phát triển những việc lợi ích cho đời
sống vật chất văn hóa của các dân tộc. Người khẳng định, sự giúp
đỡ của Đảng, Chính ph đồng bào miền xuôi, đồng bào các dân tộc thiểu
số sẽ tiến nhanh hơn, thoát ra khỏi sự lạc hậu, đói nghèo.
thể nói, tưởng của Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc đã huy động
phát huy sức mạnh của cả dân tộc, cả miền xuôi miền núi, tạo ra nguồn
lực vật chất to lớn làm nên thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc, tạo nên thành công của sự nghiệp đổi mới ngày hôm nay.
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, khi những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột
trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, các hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai…,
liên tục diễn ra nhiều nơi. nước ta, các thế lực thù địch đã đang tìm
mọi cách khoét sâu lợi dụng những khó khăn của đồng bào các dân tộc
thiểu số để xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng Nhà nước, gây chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ
quốc của nhân dân ta, do đó càng đòi hỏi chúng ta phải tăng cường củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc. để gắn kết đồng bào dân tộc thiểu số, không
khác hơn phải nhận thức giải quyết thật tốt vấn đề bình đẳng dân tộc
theo tưởng Hồ Chí Minh.
Một thực tế do trình đ lực lượng sản xuất của nước ta hiện n thấp,
nguồn lực hạn, quyền bình đẳng dân tộc về mặt pháp việc thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc trên thực tế còn khoảng cách nhất định; để
bình đẳng dân tộc trên thực tế thì cần phải một quá trình lâu dài. Song,
phải từng ớc, trong từng chính ch phát triển phải tạo ta sự chuyển biến
về kinh tế - hội trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Phải từng bước
tạo ra sự bình đẳng về các hội hưởng thụ giáo dục, nâng cao dân trí,
chăm sóc sức khỏe, tham gia các sinh hoạt các quan hệ cộng đồng, hội
tiếp cận các nguồn lực được hưởng lợi từ c nguồn lực mang lại cho
đồng bào. Đảng N nước cần phân b nguồn vốn đầu tư thích đáng hơn
cho địa bàn khó khăn này, chú trọng đầu xây dựng hạ tầng vật chất, hạ
tầng hội, xóa đói giảm nghèo, đồng thời chính sách hợp hướng
dẫn, tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số t vươn lên h nhập vào
sự phát triển chung của đất nước.

Preview text:

Quyền bình đẳng dân tộc là gì? Tư tưởng Hồ
Chí Minh về bình đẳng dân tộc?
1. Khái niệm về quyền bình đẳng dân tộc
Bình đẳng dân tộc là quyền của các dân tộc trong một quốc gia không bị phân
biệt theo trình độ phát triển, màu da, đa số, thiểu số … đều có quyền và nghĩa vụ như nhau.
Quyền bình đẳng dân tộc ở Việt Nam được ghi trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992.
Là quyền của các dân tộc đã hợp thành quốc gia (quyền của quốc gia) không
phân biệt lớn, nhỏ, trình độ phát triển, chế độ chính trị, kinh tế... có địa vị quốc
tế bình đẳng với các quốc gia khác, được tôn trọng độc lập, lãnh thổ toàn vẹn, chủ quyền..
Trong một quốc gia đa dân tộc, bình đẳng dân tộc vừa là quyền, vừa là một
trong những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các dân tộc, đảm bảo cho
sự đoàn kết dân tộc và phát triển bền vững của cả quốc gia dân tộc.
Thực chất của việc thực hiện quyền bình đẳng dân tộc chính là bảo đảm các
quyền cơ bản của mỗi con người và mỗi dân tộc, trong đó có quyền sống,
quyền tự do, mưu cầu hạnh phúc và phát triển. Việt Nam là một quốc gia đa
dân tộc. Có dân tộc có số dân hàng chục triệu người, song cũng có dân tộc
chỉ có vài ngàn, thậm chí chỉ vài trăm người. Các dân tộc có trình độ phát
triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Thực hiện quyền bình đẳng dân tộc ở
nước ta thể hiện vai trò và vị trí của mỗi dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Vận dụng lý luận Mác - Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã làm rõ những nội dung cụ thể của bình đẳng dân tộc ở Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
2. Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc
Khẩu hiệu “Tự do - bình đẳng - bác ái” đã được giai cấp tư sản giương lên
trong cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến từ thế kỷ XVIII coi đó là
quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của
Việt Nam năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lời của bản Tuyên ngôn
độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp để khẳng
định quyền tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Bình đẳng dân tộc trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khác xa bình
đẳng dân tộc của giai cấp tư sản. Những gì mà giai cấp tư sản đã làm đối với
các dân tộc phụ thuộc và thuộc địa chỉ là lời nói chứ không hề có trong thực
tế. Ngược lại, Hồ Chí Minh cho rằng, bình đẳng dân tộc không chỉ được cụ
thể hóa về mặt pháp lý, mà quan trọng hơn là phải được thực hiện trên thực
tế. Và chính Người đã thực hiện điều đó. Ngay sau khi Cách mạng Tháng
Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam đã
khẳng định, các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều bình đẳng
và Chính phủ sẽ hết sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số về mọi mặt. Ngay sau
đó, trong Chính phủ, Nha Dân tộc thiểu số được thành lập “để săn sóc cho tất
cả đồng bào”. Trong kháng chiến chống Pháp, Đảng ta tiếp tục đề ra những
chính sách nhằm thực hiện bình đẳng dân tộc. Tháng 8/1952, Bộ Chính trị đã
ra Nghị quyết về dân tộc. Tiếp đó, tháng 6/1953, Chính phủ đã ban hành
chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam với tinh thần cơ bản là đoàn kết
các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ lẫn nhau. Các Hiến pháp
của nước ta cũng khẳng định quyền bình đẳng của các dân tộc trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam và được cụ thể hóa bằng chính sách dân tộc qua các thời kỳ.
3. Độc lập dân tộc là cơ sở, điều kiện để thực hiện quyền bình đẳng dân tộc
Bình đẳng dân tộc và độc lập dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ và có sự tác
động qua lại lẫn nhau. Trong đó, độc lập dân tộc là nền tảng để thực hiện
quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Khi quốc gia dân tộc bị thống trị bởi đế
quốc ngoại bang thì các quyền của mỗi dân tộc cũng bị chà đạp. Do đó,
không giành được độc lập dân tộc thì cũng không thể nói tới việc thực hiện
bình đẳng dân tộc. Và ngược lại, thực hiện tốt bình đẳng dân tộc là cơ sở để
củng cố và giữ vững nền độc lập của dân tộc. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã
chứng minh điều đó. Khi thực dân Pháp thống trị nước ta, chúng đã thi hành
những chính sách đi ngược lại với nguyện vọng và các quyền của các dân
tộc sống trên dải đất Việt Nam. Đó là chính sách “chia để trị”, “dùng người
Việt đánh người Việt”, dùng người dân tộc này đánh người dân tộc khác,
nhằm chia rẽ các dân tộc, phục vụ cho mưu đồ thống trị của chúng. Còn trong
cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, chúng đã dụ dỗ, mua
chuộc, lôi kéo và ép buộc đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên chống lại cách mạng.
Do vậy, có giành được độc lập dân tộc, mới có điều kiện để chăm lo cho
đồng bào các dân tộc, cả về kinh tế, văn hóa, giáo dục và y tế. Sau khi cách
mạng Tháng Tám thành công, nhất là sau khi miền Bắc được giải phóng,
Đảng và Chính phủ đã có những kế hoạch và hành động cụ thể để thực hiện
quyền bình đẳng giữa các dân tộc, từng bước mang lại cuộc sống mới cho
đồng bào. Đồng thời, khi chúng ta thực hiện bình đẳng dân tộc thì cách mạng
cũng có thêm những nguồn lực quan trọng cho cuộc kháng chiến, tạo ra sức
mạnh tổng hợp cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đi đến thắng lợi.
Ngày nay, khi đã có độc lập dân tộc thì chúng ta càng có điều kiện và càng
phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
4. Thực hiện bình đẳng dân tộc và việc tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc
Thực hiện bình đẳng dân tộc là nhân tố quyết định để củng cố và tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là
động lực và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xét cả về mặt lý luận và thực tiễn thấy
rằng, nếu không xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc khi không có sự
bình đẳng giữa các dân tộc. Khi một dân tộc này đi chà đạp, ép buộc các dân
tộc khác thì sớm hay muộn sẽ tạo nên sự chia rẽ, ly khai dân tộc.
Chủ tịchHồ Chí Minh đã sớm nhận thấy điều đó khi cho rằng, để xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc thì phải thực hiện bình đẳng dân tộc, đại đoàn kết
dân tộc không những phải dựa trên nền tảng của khối liên minh giữa giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, mà còn phải thực hiện
đoàn kết các dân tộc. Tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam,
ngày 3/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhờ sức đoàn kết tranh đấu
chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập… Trước
kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập
càng cần đoàn kết hơn nữa”.
Cơ sở của khối đại đoàn kết dân tộc là bình đẳng dân tộc, vì lợi ích của tất cả
các dân tộc trong một quốc gia. Khi các dân tộc được đối xử bình đẳng, cả về
nghĩa vụ và quyền lợi, sẽ tạo ra tiếng nói chung và tạo nên sự đồng thuận
giữa các dân tộc và ngược lại. Vì thế nếu không đảm bảo và không có những
chính sách và hành động cụ thể để thực hiện bình đẳng dân tộc, làm cho bình
đẳng dân tộc ngày càng trở thành hiện thực thì khối đại đoàn kết dân tộc sẽ bị lung lay.
5. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tạo lập sự bình đẳng giữa các dân tộc
Để thực hiện quyền bình đẳng dân tộc cần phải có một xã hội mà ở đó, quyền
bình đẳng giữa các dân tộc có điều kiện và cơ sở để thực hiện. Xã hội đó,
không thể khác là xã hội xã hội chủ nghĩa. Kết luận trên của Hồ Chí Minh
được Người rút ra trong quá trình khảo nghiệm các con đường cứu nước và
trong quá trình khảo sát các xã hội tư bản. Năm 1919, thay mặt Hội những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người đã gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản
yêu sách của nhân dân Việt Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các
quyền tự do và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, nhưng không được
chấp thuận. Người đã hiểu ra rằng, quyền tự do dân chủ mà chủ nghĩa tư bản
rêu rao chỉ là cái “bánh vẽ”.
Qua quá trình trải nghiệm thực tế ở các nước tư bản, Người rút ra kết luận:
“Cách mạng tư sản, là cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân
chủ, kỳ thực trong thì nó tước lực công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”2,
rằng “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do,
bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối”3. Qua nghiên cứu lý
luận và tổng kết thực tiễn, Hồ Chí Minh rút ra kết luận hết sức cơ bản: “Chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức”4.
Do đó, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhất là sau khi miền Bắc
được giải phóng, cách mạng Việt Nam đã thực hiện đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa, nhằm đem lại hạnh phúc ấm no thực sự cho nhân dân và
mang lại quyền bình đẳng cho các dân tộc. Vì vậy, Người cho rằng, Đảng,
Nhà nước phải tuyên truyền, vận động đồng bào chung tay xây dựng xã hội
mới. Tại Hội nghị tuyên giáo miền núi, ngày 31/8/1963, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên
huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết.
Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập… Bây giờ mục đích
tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã
hội”5. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội chính là phương thức để thực
hiện bình đẳng dân tộc thực sự.
6. Đảng, Nhà nước là chủ thể chính trong việc xác lập và thực
hiện quyền bình đẳng dân tộc
Đảng, Nhà nước là chủ thể chính trong việc xác lập và thực hiện quyền bình
đẳng dân tộc, các dân tộc coi nhau như anh em một nhà và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, trong quan hệ giữa dân tộc đa số có trình
độ phát triển cao hơn với các dân tộc thiểu số có trình độ thấp hơn rất dễ nảy
sinh tư tưởng kỳ thị dân tộc, và thường có hai thái cực: (1), người dân tộc lớn
dễ mắc bệnh kiêu ngạo, và (2), cán bộ địa phương, nhân dân địa phương lại
dễ cho mình là dân tộc nhỏ bé, tự ti, cái gì cũng cho là mình không làm được,
rồi không cố gắng. Và Người cho rằng cần phải khắc phục những tư tưởng
dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi và tự ti dân tộc. Trong nhiều hội nghị, trong nhiều
bài viết, bài nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng những từ rất thân mật, ruột thịt
để nói về tình đoàn kết giữa các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam,
như “anh em một nhà”, “giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”… Người nhấn mạnh rằng,
đồng bào miền xuôi với trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật phát triển hơn
phải giúp đỡ đồng bào thiểu số, để cùng tiến bộ. Trong bài nói chuyện với
cán bộ và học sinh Trường Sư phạm miền núi tại Nghệ An, ngày 9/12/1961,
Người nói: “Hồi trước, bọn Tây và vua quan phong kiến làm cho các dân tộc
thù ghét lẫn nhau, người Mường ghét người Kinh. Bây giờ các dân tộc đều là
anh em cả. Dân tộc nào đông hơn, nhiều người hơn, tiến bộ hơn thì phải giúp
đỡ các dân tộc khác để đều tiến bộ như nhau, đều đoàn kết như anh em một
nhà”6. Trong bài viết nhan đề “Một thắng lợi mới” đăng trên báo Nhân dân số
3149, ngày 8/11/1962, Người viết: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu
giúp đỡ nhau như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào
miền ngược cùng tiến bộ về mọi mặt”7. Người đã khẳng định nhiệm vụ của
Trung ương, Chính phủ và các cấp ủy đảng là phải làm sao nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc, phải giúp đỡ đồng bào
các dân tộc thiểu số về mọi mặt. Cụ thể:
Về chính trị: Xóa bỏ những quy định mang tính bất bình đẳng giữa các dân
tộc; tẩy trừ thành kiến giữa các dân tộc; các dân tộc được tự do bày tỏ
nguyện vọng và mong muốn của mình; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và cất
nhắc cán bộ người dân tộc thiểu số; trong thành phần Quốc hội và Chính phủ
phải có đại biểu của các dân tộc thiểu số.; Chính phủ phải “làm cho các dân
tộc anh em dần dần tự quản lý lấy mọi công việc của mình, để mau chóng
phát triển kinh tế và văn hóa của mình, để thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt.
Về kinh tế: Khuyến khích khai hoang; mở mang nông nghiệp; phát triển chăn
nuôi; phát triển nghề rừng; trồng cây lương thực và cây công nghiệp; đề
phòng sâu bệnh; làm và sửa chữa thêm nhiều đường xá; kết hợp chặt chẽ
giao thông với thủy lợi; đẩy mạnh việc cải tiến công cụ, chống xói mòn…
Về văn hóa - xã hội: Chú ý trình độ học thức cho dân tộc; chú trọng bổ túc
văn hóa; khuyến khích anh chị em giáo viên miền xuôi xung phong lên miền
núi làm công tác giáo dục; phát triển loại trường thanh niên dân tộc vừa học
vừa làm; xóa bỏ mê tín hủ tục; phải đẩy mạnh việc vệ sinh phòng bệnh, để
giữ gìn sức khỏe của đồng bào…
Tóm lại là: Ra sức giúp đỡ đồng bào phát triển những việc có lợi ích cho đời
sống vật chất và văn hóa của các dân tộc. Và Người khẳng định, có sự giúp
đỡ của Đảng, Chính phủ và đồng bào miền xuôi, đồng bào các dân tộc thiểu
số sẽ tiến nhanh hơn, thoát ra khỏi sự lạc hậu, đói nghèo.
Có thể nói, tư tưởng của Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc đã huy động và
phát huy sức mạnh của cả dân tộc, cả miền xuôi và miền núi, tạo ra nguồn
lực vật chất to lớn làm nên thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc, tạo nên thành công của sự nghiệp đổi mới ngày hôm nay.
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, khi những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột
vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, các hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai…,
liên tục diễn ra ở nhiều nơi. ở nước ta, các thế lực thù địch đã và đang tìm
mọi cách khoét sâu và lợi dụng những khó khăn của đồng bào các dân tộc
thiểu số để xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, gây chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc của nhân dân ta, do đó càng đòi hỏi chúng ta phải tăng cường củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc. Và để gắn kết đồng bào dân tộc thiểu số, không gì
khác hơn là phải nhận thức và giải quyết thật tốt vấn đề bình đẳng dân tộc
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Một thực tế là do trình độ lực lượng sản xuất của nước ta hiện còn thấp,
nguồn lực có hạn, quyền bình đẳng dân tộc về mặt pháp lý và việc thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc trên thực tế còn có khoảng cách nhất định; để có
bình đẳng dân tộc trên thực tế thì cần phải có một quá trình lâu dài. Song,
phải từng bước, trong từng chính sách phát triển phải tạo ta sự chuyển biến
về kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Phải từng bước
tạo ra sự bình đẳng về các cơ hội hưởng thụ giáo dục, nâng cao dân trí,
chăm sóc sức khỏe, tham gia các sinh hoạt và các quan hệ cộng đồng, cơ hội
tiếp cận các nguồn lực và được hưởng lợi từ các nguồn lực mang lại cho
đồng bào. Đảng và Nhà nước cần phân bổ nguồn vốn đầu tư thích đáng hơn
cho địa bàn khó khăn này, chú trọng đầu tư xây dựng hạ tầng vật chất, hạ
tầng xã hội, xóa đói giảm nghèo, đồng thời có chính sách hợp lý và hướng
dẫn, tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số tự vươn lên hoà nhập vào
sự phát triển chung của đất nước.
Document Outline

  • Quyền bình đẳng dân tộc là gì? Tư tưởng Hồ Chí Min
    • 1. Khái niệm về quyền bình đẳng dân tộc
    • 2. Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng, bất kh
    • 3. Độc lập dân tộc là cơ sở, điều kiện để thực hiệ
    • 4. Thực hiện bình đẳng dân tộc và việc tăng cường
    • 5. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tạo lập sự
    • 6. Đảng, Nhà nước là chủ thể chính trong việc xác