Quyền lực chính trị và những đặc điểm cơ bản của quyền lực chính trị. Liên hệ với quyền lực chính trị ở Việt Nam | Tiểu luận chính trị học
Khát quát về quyền lực và quyền lực chính trị. Lý luận về quyền lực. Lý luận về quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị tại Việt Nam. Cơ chế tổ chức và thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam. Cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Chính Trị Học
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHÍNH TRỊ HỌC
------------------------- TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH TRỊ HỌC
Đề tài: Quyền lực chính trị và những đặc điểm cơ bản
của quyền lực chính trị. Liên hệ với quyền lực chính trị ở Việt Nam Sinh viên Mã số sinh viên:
Lớp tín chỉ: CT01001-11
Hà Nội, tháng 12 năm 2021 1 MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................................................2
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................................3
2.1. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................................................3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................................................3
3.1. Đối tượng nghiên cứu...........................................................................................................3
3.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................................3
4. Cơ sở lý luận.................................................................................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................................3
6. Kết cấu của tiểu luận....................................................................................................................4
NỘI DUNG............................................................................................................................................5
Chương 1: Khát quát về quyền lực và quyền lực chính trị...........................................................5
1.1. Lý luận về quyền lực............................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm quyền lực....................................................................................................5
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của quyền lực...........................................................................7
1.2. Lý luận về quyền lực chính trị.............................................................................................9
1.2.1. Khái niệm quyền lực chính trị.....................................................................................9
1.2.2. Các đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị.........................................................11
1.2.3. Quá trình hình thành quyền lực chính trị và chuyển hóa quyền lực chính trị thành
quyền lực nhà nước..............................................................................................................13
1.2.4. Kiểm soát quyền lực chính trị....................................................................................15
Chương 2: Quyền lực chính trị tại Việt Nam...............................................................................16
2.1. Cơ chế tổ chức và thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam............................................16
2.2. Cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam...........................................................21
2.2.1. Một số cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị trong Nhà nước Việt Nam................22
2.2.2. Các hình thức kiểm soát quyền lực chính trị trong Nhà nước Việt Nam...............23
2.2.3. Những biến chuyển trong việc kiểm soát quyền lực ở Việt Nam được thể hiện qua
một số nội dung sau..............................................................................................................23
2.3. Những thay đổi của quyền lực chính trị và trong việc thực thi quyền lực chính trị ở
Việt Nam hiện nay.....................................................................................................................24
KẾT LUẬN..........................................................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................27 2 MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội hiện nay, quyền lực chính trị là một vấn đề quan trọng và dành
được nhiều sự quan tâm từ mọi người. Quyền lực chính trị là một trong những
phạm trù cơ bản của Chính trị học. Nó giữ một vị trí trung tâm trong hệ thống
những khái niệm và phạm trù của môn khoa học nghiên cứu này. Chính từ vị trí
của quyền lực chính trị, người ta có thể coi chính trị học là một khoa học về các
quy luật và tính quy luật trong cuộc đấu tranh giai cấp xoay quanh việc đạt tới và
thực thi được quyền lực chính trị trong xã hội được tổ chức thành nhà nước.
Hiện nay, quyền lực cùng với quyền lực chính trị được cho là những vấn đề
được nhắc đến và dành được sự quan tâm ngày càng nhiều. Sự ra đời và phát
triển của nhiều loại hình tổ chức xã hội đã dẫn đến việc các nhà lãnh đạo, quản lý
của các tổ chức chính trị ngày càng quan tâm đến các vấn đề liên quan đến việc
thực thi quyền lực nhằm đạt tới hiệu quả quản lý cao nhất trong các tổ chức
chính trị. Thế nhưng, không phải bất kỳ ai trong xã hội, thậm chí là những nhà
lãnh đạo, quản lý có một nhận thức đúng đắn về quyền lực chính trị, những vấn
đề cơ bản của quyền lực chính trị cùng với việc thực thi quyền lực chính trị. Tuy
nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học – công nghệ cùng quá trình toàn cầu
hóa, xã hội loài người đã có nhiều bước tiến mới, do vậy, nhiều vấn đề cũng có
những thay đổi để theo kịp với xu hướng chung của xã hội hiện nay, trong đó
bao gồm cả quyền lực chính trị.
Ở Việt Nam, quyền lực chính trị cũng là một đề tài dành được nhiều sự quan
tâm và là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực chính trị. Do đó, nhận thức được
sự cấp thiết của việc cần phải nghiên cứu về quyền lực chính trị cùng những vấn
đề cơ bản của quyền lực chính trị, em đã lựa chọn: “Quyền lực chính trị và
những đặc điểm cơ bản của quyền lực chính trị. Liên hệ với quyền lực chính
trị ở Việt Nam” làm đề tài để nghiên cứu trong bài tiểu luận của mình. 3
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng của đề tại tiểu luận, từ đó làm rõ về
bản chất của quyền lực chính trị và đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm tăng
cường quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị của Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu đã được nêu ra ở trên, bài tiểu luận cần hoàn thành được những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của quyền lực chính trị.
- Đưa ra những đặc điểm cơ bản của quyền lực chính trị.
- Làm rõ tầm quan trọng của quyền lực chính trị.
- Chỉ ra đặc điểm của quyền lực chính trị của Việt Nam và từ đó đưa ra những
giải pháp để tăng cường quyền lực chính trị trong hệ thống chính trị của Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là vấn đề quyền lực chính trị, những
đặc điểm cơ bản của quyền lực chính trị và quyền lực chính ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của bài tiểu luận là nghiên cứu về quyền lực chính trị và
quyền lực chính trị tại Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của bài tiểu luận là dựa trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về quyền lực
chính trị và thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu 4
Phương pháp nghiên cứu của bài tiểu luận là kết hợp các phương pháp logic,
phân tích, nghiên cứu, so sánh, tổng hợp, điều tra xã hội, duy vật lịch sử với việc
tham khảo một số nguồn tài liệu chính thống nhằm triển khai và làm rõ đề tài nghiên cứu.
6. Kết cấu của tiểu luận
Tiểu luận gồm có 4 phần: Mở đầu, Nội dung, Kết luận, Tài liệu tham khảo.
Trong phần nội dung của tiểu luận gồm có các nội dung:
Chương 1: Khái lược về quyền lực và quyền lực chính trị
Chương 2: Quyền lực chính trị tại Việt Nam 5 NỘI DUNG
Chương 1: Khát quát về quyền lực và quyền lực chính trị
1.1. Lý luận về quyền lực
1.1.1. Khái niệm quyền lực
Quyền lực là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong nghiên cứu
chính trị. Tuy nhiên, khái niệm này rất phức tạp, với nhiều cách hiểu khác nhau,
việc đưa ra khái niệm của quyền lực gây ra nhiều tranh luận giữa các nhà nghiên cứu.
Trong thời kỳ Cổ đại, Anristoteles – nhà bách khoa của thời cổ Hy Lạp – đã
trình bày trong tác phẩm “Chính trị Aten” rằng quyền lực không phải chỉ là cái
vốn có của mọi sự vật biết cảm giác, mà còn cả giới tự nhiên vô cảm, cái gì có
sức mạnh là có quyền lực.
Trong thời Trung cổ, các nhà thần học coi “quyền lực Thượng đế” là quyền
lực tối cao nhất, đứng trên tất cả, loài người cũng chỉ là cái phát sinh từ quyền lực Thượng đế.
Trong thời kỳ Phục Hưng, các nhà lý luận chính trị, nhà bách khoa chỉ nhấn
mạnh tới quyền lực nhà nước và coi nhà nước là “vương quốc của lý tính”.
Hình 1.1.1.1. Robert Alan Dahl (1915 – 2014). Nguồn: Google Image. 6
Ngày nay, nhiều nhà chính trị học Mỹ đã đưa ra những cách hiểu khác nhau về
quyền lực. Như Robert Alan Dahl cho rằng: A có quyền lực đối với B khi ông ta
có thể buộc B làm điều mà B lẽ ra không làm. Theo Steven Lukes: A thực thi
quyền lực đối với B khi A tác động đến B theo cách trái ngược với lợi ích của B.
K. Đan Tra coi quyền lực là cái giúp ta buộc người khác phải phục tùng. L.
Lipson xem quyền lực là khả năng đạt tới kết quả chung nhờ một hành động phối hợp.
Còn đối với Max Weber – Nhà xã hội học, nhà sử học, nhà luật học và nhà
kinh tế chính trị người Đức: Quyền lực là khả năng của một chủ thể buộc chủ thể
khác phải hành động theo ý muốn của mình, bất kể sự kháng cự. Đối với Weber,
quyền lực không nhằm tạo ra sự thay đổi, mà là ngăn chặn hành vi của một chủ
thể mà lẽ ra, nếu người nắm giữ quyền lực không can thiệp, anh ta sẽ hành động
một cách nào đó có thể dẫn tới sự thay đổi.
Hình 1.1.1.2. Max Weber (1864 – 1920). Nguồn: Google Image.
Quyền lực là phạm trù xuất phát của chính trị học. Một số tác giả lại cho rằng
quyền lực là một khái niệm kép bao gồm: quyền và lực (sức mạnh).
- “Lực” là khái niệm dùng chỉ một thuộc tính của bất kỳ hệ vật chất nào, xét
trong tương tác với hệ vật chất khác, có khả năng duy trì sự tồn tại hoặc tạo ra sự biến đổi. 7
- “Quyền” là một khái niệm chỉ mối quan hệ có tính xã hội giữa người với
người, trong đó con người ý thức tới nhu cầu của mình rằng những nhu cầu ấy
phải được thỏa mãn với sự thừa nhận của người khác.
Như vậy, nói tới quyền lực là phải nói tới sự kết hợp của hai yếu tố: quyền và
lực. Quyền lực là cái mà ai nắm được thì buộc người khác phải phục tùng.
Không có một định nghĩa nào được chấp nhận chung về quyền lực nhưng ý
tưởng căn bản đó là: Quyền lực là năng lực của một chủ thể, buộc chủ thể khác
phải hành động theo ý chí của mình, bất kể sự kháng cự. Tức chủ thể A có thể
bắt buộc chủ thể B làm điều C.1
1.1.2. Các đặc trưng cơ bản của quyền lực
Quyền lực gồm có 4 đặc trưng cơ bản như sau:
- Tính tương tác xã hội: Quyền lực đòi hỏi sự tương tác của ít nhất hai chủ thể
nhất định, quyền lực là một quan hệ xã hội. Quyền lực là một quá trình tương
tác, vì thế, nó sẽ không tồn tại cho đến khi được thể hiện thành các hành động
tương tác từ hai chủ thể trở lên.
- Tính mục đích: Quyền lực là mối quan hệ xã hội có tính mục đích. Sự tác
động đến người khác luôn có chủ ý, dù kết quả có thể khác hoặc thậm chí ngược lại với chủ ý.
- Tính cưỡng ép: Quan hệ quyền lực dựa trên năng lực cưỡng ép như thưởng –
phạt, năng lực này cần đủ lớn để có thể vượt qua sự chống đối của các chủ thể.
Đây là một đặc trưng căn bản, phân biệt quyền lực với các quan hệ xã hội có tính mục đích khác.
- Tính chính đáng: Vấn đề trung tâm của tính chính đáng chính trị là quá trình
và phương thức thuyết phục bằng lý lẽ và lương tri. Tính chính đáng bao gồm
3 yếu tố: tính công ích, tích hợp lệ trong cách thức đạt quyền lực và sử dụng
quyền lực đúng mực đích và hiệu quả. Ba yếu tố này tạo nên cấu trúc cho tính
chính đáng của quyền lực.
1 Giáo trình cao cấp Lý luận chính trị: Chính trị học, Nxb Lý luận chính trị, tr 46. 8
Ta có thể phân loại quyền lực như sau:
Căn cứ vào phương thức tác động, ta có thể chia quyền lực thành bốn loại hình thức chính: - Sức mạnh:
Đây là thứ quyền lực mà một chủ thể dùng sức mạnh của mình áp đặt lên đối
tượng chịu tác động bằng cách trao, ngăn chặn, hoặc đe dọa sử dụng các
nguồn lực cụ thể lên đối tượng chịu tác động của quyền lực. Sức mạnh được
sử dụng theo ba cách: sức mạnh lợi ích, sự cưỡng bức và sự thuyết phục.
- Vị thế thống trị:
Có được từ việc chủ thể quyền lực thực hiện các vai trò, hoặc các chức năng
đã được xã hội thừa nhận. Việc sử dụng vị thế thống trị phụ thuộc hoàn toàn
vào sự thực hiện thành công các hoạt động, các vai trò của chủ thể nắm vị thế
thống trị. Khả năng sử dụng vị thế thống trị phụ thuộc nhiều vào vị trí của chủ
thể trong mạng lưới hoặc tổ chức xã hội. Do vậy, vị trí của chủ thể càng ở gần
đỉnh hoặc ở trung tâm của một cấu trúc xã hội thì mức độ ảnh hưởng của vị
thế thống trị càng lớn. - Thẩm quyền:
Đây là quyền đưa ra các chỉ thị, mệnh lệnh cho người khác và buộc họ phải
chấp hành theo. Để thực thi thẩm quyền, một chủ thể phải có tính chính đáng
và được những người chấp hành mệnh lệnh thừa nhận. Người dân trao tính
chính đáng cho chính phủ và các quan chức này đang thực thi thẩm quyền của
chính phủ bằng cách đưa ra các chỉ thị. Quyền lực chính đáng để thực thi thẩm
quyền có thể được trao cho các chủ thể theo những phương thức khác nhau.
Max Weber đã xác định bốn cơ sở của thẩm quyền quyền lực chính đáng
thường được xã hội chấp nhận đó là: kiến thức duy lý, hoặc trình độ chuyên
môn phù hợp với một tình huống cụ thể; các quyền hợp pháp dựa trên các thỏa 9
thuận chính thức; các niềm tin và các giá trị truyền thống được định hình theo
thời gian; sự cuốn hút của nhà lãnh đạo đối với quần chúng.
- Sự lôi cuốn, thuyết phục:
Đây là một hình thức của quyền lực xã hội. Quyền lực xuất phát từ sự lôi
cuốn, thuyết phục thường xuất phát từ ba nguồn chính: Có sự đồng nhất về
mặt hình thức; tình cảm tích cực đối với lời kêu gọi; tạo ra sự lôi cuốn đối với
một cá nhân hoặc một tổ chức nào đó.
Ngoài ra, ta có thể căn cứ vào những những điều sau để phân ra các loại quyền lực chính trị:
- Căn cứ vào cấp độ chủ thể, quyền lực có thể được phân thành các loại như
sau: quyền lực cá nhân, quyền lực gia đình, quyền lực dòng họ, quyền lực tổ
chức, quyền lực cộng đồng, quyền lực quốc gia…
- Căn cứ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, ta có thể phân quyền lực ra các
loại: quyền lực kinh tế, quyền lực chính trị, quyền lực xã hội, quyền lực văn hóa…
- Căn cứ vào chuẩn mực pháp lý: quyền lực hợp pháp, quyền lực không hợp pháp.
- Căn cứ vào tính chất của quyền lực: quyền lực tiến bộ, quyền lực tích cực,
quyền lực tích cực, quyền lực tiêu cực…
- Căn cứ vào phương thức chi phối: quyền lực bạo lực và quyền lực phi bạo
lực, quyền lực cưỡng bức và quyền lực ảnh hưởng, quyền lực cứng và quyền lực mềm.
- Căn cứ vào nguồn gốc: quyền lực vật chất, quyền lực trí tuệ.
- Căn cứ vào các mối quan hệ xã hội: quyền lực công, quyền lực nhà nước.
1.2. Lý luận về quyền lực chính trị
1.2.1. Khái niệm quyền lực chính trị 10
Khi con người bắt đầu sống thành cộng đồng, khi giai cấp bắt đầu xuất hiện,
thì khi đó, trong xã hội cũng xuất hiện một lĩnh vực mới: lĩnh vực chính trị của
đời sống xã hội, hay nói cách khác, đây là khi quyền lực chính trị xuất hiện. Tuy
ra đời muộn hơn so với các loại quyền lực khác nhưng quyền lực chính trị lại có
vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử xã hội loài người.
Việc hình thành lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội được xem là một nhu
cầu tất yếu, khách quan trong đời sống của con người. Bởi khi đã tập hợp thành
một xã hội, nhu cầu phối hợp hoạt động cùng nhau, bảo vệ cộng đồng khỏi sự
xâm hại từ các mối đe dọa bên ngoài và việc phân bố các giá trị bên trong cộng đồng cũng tăng cao.
Để có thể áp đặt được ý chí của mình với người khác, buộc họ phải tuân theo
và phục tục mình thì người ta phải có sức mạnh. Để áp đặt ý chí chính trị của
một giai cấp đối với một giai cấp khác thì cần phải có sức mạnh chính trị.
Trong các nghiên cứu về chính trị, tùy theo từng cách tiếp cận nghiên cứu,
khái niệm quyền lực chính trị được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
- Khái niệm quyền lực chính trị được hiểu từ cách nhìn thể chế như sau: Quyền
lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay liên minh giai cấp nhằm thực
hiện sự thống trị chính trị; là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ
giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình – chủ yếu thông qua đấu tranh giành,
giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
- Từ cách nhìn hành vi, ta có thể hiểu quyền lực chính trị là khả năng định hình,
kiểm soát hành vi chính trị của người khác và lãnh đạo, chỉ dẫn họ theo hướng
mà cá nhân, nhóm, hoặc chủ thể nắm giữ quyền lực chính trị mong muốn.
Quyền lực chính trị là khả năng của một chủ thể chính trị tác động, tạo ra sự
thay đổi hành vi của các chủ thể chính trị khác.
“Chính trị” là một phạm trù dùng để chỉ toàn bộ các mối quan hệ và các hoạt
động có tổ chức của các cá nhân và các nhóm (các cộng đồng) xã hội vì lợi ích 11
của mình trong việc tổ chức xã hội xét như chỉnh thể liên quan tới vấn đề áp đặt
ý chí của giai cấp, của bộ phận xã hội này đối với các giai cấp, các bộ phận xã hội khác.
“Quyền chính trị” là quyền của con người xã hội được tham dự vào việc tổ
chức xã hội như chỉnh thể theo ý chí của mình.
Nói tóm lại, ta có thể đưa ra một định nghĩa chung cho quyền lực chính trị như
sau: Quyền lực chính trị là năng lực của một chủ thể trong việc áp đặt mục tiêu
chính trị của mình đối với toàn xã hội, là quyền sử dụng sức mạnh chính trị cho
mục đích chính trị.2
Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hoặc của một liên minh giai
cấp của một lực lượng xã hội. Bản chất của quyền lực chính trị là quan hệ sức
mạnh giữa các giai cấp trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực nhà nước, hoặc
gây áp lực đối với quyền lực nhà nước.
Trong một nhà nước cũng có thể tồn tại hai loại quyền lực chính trị thuộc về
hai chủ thể chính trị đối lập nhau: quyền lực chính trị của giai cấp thống trị (giai
cấp cầm quyền) và quyền lực chính trị của các giai cấp hay các nhóm xã hội không thống trị.
Chủ thể quyền lực chính trị là các giai cấp, các lực lượng, cá nhân, các tổ chức
có mục tiêu và có khả năng trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình giành, giữ và
thực thi quyền lực chính trị. Chủ thể quyền lực chính trị có tính lịch sử cụ thể, nó
được ra đời, thay đổi phụ thuộc vào sự phát triển của đời sống chính trị. Đời
sống chính trị, nền chính trị có nhiều chủ thể quyền lực chính trị.
1.2.2. Các đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị
Quyền lực chính trị bao gồm có những đặc trưng cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan:
Quyền lực chính trị là tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của xã hội.
Khi con người sống thành cộng đồng, quyền lực công cộng xuất hiện. Khi xã
2 Giáo trình cao cấp Lý luận chính trị: Chính trị học, Nxb. Lý luận chính trị, tr 53. 12
hội phân chia thành các giai cấp, xã hội chính trị xuất hiện, quyền lực công
được trao cho một giai cấp hoặc một lực lượng xã hội nhất định nắm giữ. Giai
cấp hay lực lượng xã hội đó thực hiện sự quản lý xã hội thông qua bộ máy nhà
nước và dựa trên hệ thống luật pháp. Quá trình đó được xem là một tất yếu,
khách quan nhằm để duy trì sự tồn tại của xã hội. - Tính giai cấp:
Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp với nhau trong việc giành, giữ, thực
thi quyền lực và cơ bản nhất chính là quyền lực nhà nước. Quyền lực chính trị
là quyền lực của một giai cấp thực hiện lợi ích khách quan của mình. Vì vậy,
quyền lực chính trị luôn mang tính giai cấp. Đây cũng là một đặc trưng khác
biệt của quyền lực chính trị so với quyền lực công và quyền lực nhà nước.
- Quyền lực chính trị thống trị trong xã hội là quyền lực của giai cấp, lực lượng
xã hội giữ địa vị thống trị về kinh tế:
Mục tiêu thực chất của quyền lực chính trị là nhằm thiết lập, duy trì một trật tự
bảo vệ và phát triển các lợi ích mà căn bản và trước hết là lợi ích kinh tế cho
giai cấp, lực lượng xã hội nắm quyền. Do vậy, giành, giữ quyền lực chính trị
luôn là mục tiêu trực tiếp, trọng yếu của giai cấp, lực lượng xã hội thống trị về
kinh tế. Như thế, giai cấp nào thống trị về kinh tế sớm muộn cũng sẽ thống trị
về chính trị và nếu một giai cấp, lực lượng xã hội đã làm chủ về quyền lực
chính trị mà không xây dựng và giữ được địa vị chủ đạo vị chủ đạo về kinh tế
thì sớm muộn cũng sẽ không thể duy trì được quyền lực chính trị. Quyền lực
chính trị và quyền lực kinh tế có mối quan hệ mật thiết qua lại với nhau.
Quyền lực kinh tế là cơ sở để đảm bảo quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị
là điều kiện đầu tiên, tiên quyết để thực hiện quyền lực về kinh tế.
- Việc nắm giữ và thực thi quyền lực chính trị phải đảm bảo sự hài hòa giữa lợi
ích giai cấp với lợi ích chung của cộng đồng: 13
Mục đích của giai cấp và lực lượng xã hội nắm giữ quyền lực chính trị là sử
dụng quyền lực để duy trì và bảo vệ một trật tự xã hội có lợi cho giai cấp, lực
lượng mình. Tuy nhiên, việc thực thi quyền lực chính trị bao giờ cũng phải
thông qua hình thức quyền lực công. Do đó, khi nắm giữ và thực thi quyền lực
chính trị, cần đảm bảo mức độ nhất định sự công bằng xã hội. Quyền lực
chính trị là công cụ phục vụ lợi ích của một giai cấp, một lực lượng xã hội
nhất định, phải trên cơ sở thực hiện chức năng công quyền, nó chỉ có thể tồn
tại dưới hình thức là quyền lực công. Một khi có sự bất công vượt quá một
giới hạn nào đó sẽ dễ xuất hiện sự bất bình trong các bộ phận thành viên của xã hội.
- Quyền lực chính trị mang tính chính đáng:
Quyền lực không bao giờ được xem là tuyệt đối, vì quyền lực luôn cần sự
chấp nhận của đối tượng chịu sự chi phối. Cũng như mọi loại quyền lực, sự
chấp thuận của xã hội là yếu tố chính của việc đảm bảo việc thực thi quyền lực
chính trị. Trong thực tiễn hoạt động chính trị, tính chính đáng càng cao càng ít
chi phí cưỡng chế và càng đạt hiệu quả cao trong thực thi quyền lực. Tính
chính đáng cao cũng có nghĩa là mức độ tự nguyện cao trong sự tuân thủ, và
thậm chí dẫn đến tính chủ động và tự giác trong thi hành các mệnh lệnh.
- Quyền lực chính trị phải được tập trung đủ mức và phải được kiểm soát, có sự hài hòa lợi ích:
Quyền lực chính trị là một loại hình quyền lực có quan hệ hai chiều: quan hệ
mệnh lệnh giữa chủ thể với đối tượng và quan hệ tuân phục giữa đối tượng và
chủ thể. Trong quan hệ đó, quyền lực chỉ thực sự là quyền lực khi mệnh lệnh
của chủ thể được đối tượng thi hành nhanh chóng và triệt để. Khi quyền lực
không được tập trung đủ mức thì chủ thể của nó hoặc không ra được quyết
định hoặc quyết định không có hiệu lực thi hành thì khi đó thực chất chủ thể 14
quyền lực đã mất quyền hoặc không có quyền lực trên thực tế. Quyền lực cũng
cần có cơ chế kiểm soát nó.
1.2.3. Quá trình hình thành quyền lực chính trị và chuyển hóa quyền
lực chính trị thành quyền lực nhà nước
- Quá trình hình thành quyền lực chính trị:
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, công cụ lao động và lực
lượng sản xuất của xã hội cũng liên tục biến đổi và phát triển không ngừng, điều
này đòi hỏi phải biến đổi về chất quan hệ sản xuất hiện tồn. Quá trình này khiến
cho xã hội xuất hiện các nhóm xã hội mới về mặt giai cấp, các nhóm này sẽ có
sự đối kháng về mặt lợi ích, mặt giai cấp – xã hội. Kết quả của việc này là các
lực lượng chính trị mới tương ứng được hình thành, như là chủ thể hay là đại
diện cho chủ thể của các lợi ích giai cấp mới đó. Điều này dẫn đến sự đụng độ
giữa lực lượng chính trị cũ và lực lượng chính trị mới. Cuối cùng, lực lượng
chính trị mới sẽ nhanh chóng vươn lên để khẳng định mình về mặt nhà nước.
Lực lượng chính trị mới này buộc nhà nước hiện tồn phải thừa nhận nó về mặt
pháp lý, khi đó, quyền lực chính trị của giai cấp mới hay của nhóm xã hội mới về
mặt giai cấp đã được thừa nhận về mặt nhà nước, trong khuôn khổ của nhà nước
hiện tồn. Khi đó, ta có thể nói rằng, lực lượng chính trị mới đã đạt được quyền
chính trị, quyền chính trị của nhóm xã hội mới về mặt giai cấp hay của giai cấp mới được hình thành.
Thực chất của quá trình hình thành quyền lực chính trị là quá trình hình thành
(ra đời) của một lực lượng xã hội mới về mặt giai cấp và sự vươn lên của nó
(trước hết là trong khuôn khổ của pháp luật hiện tồn) nhằm giành quyền lực chính trị cho nó.
- Sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước: 15
Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị, là bộ phận cơ bản của
quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nước được chia thành quyền lập pháp, quyền
hành pháp và quyền tư pháp.
Trong một nhà nước hiện tồn có thể tồn tại hai loại quyền lực chính trị: quyền
lực chính trị của giai cấp hay nhóm xã hội thống trị và quyền lực chính trị của
giai cấp và các nhóm xã hội không ở địa vị thống trị. Nhóm quyền lực chính trị
của giai cấp và các nhóm xã hội không ở địa vị thống trị có thể chia thành hai nhóm nhỏ như sau:
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội tuy có lợi
ích khác biệt (đối lập) nhưng không đối kháng với lợi ích cơ bản của giai cấp hay tầng lớp cầm quyền.
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp hay các tầng lớp xã hội có
lợi ích đối kháng với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Về bản chất, nhóm này đối
kháng với quyền lực nhà nước hiện tồn, vì vậy, nó là đối tượng phải bị trấn áp,
phải được xóa bỏ trong nhà nước ấy. Do đó, phân nhóm quyền lực chính trị này
chỉ có một trong hai kết cục: bị xóa bỏ hoàn toàn và triệt để bởi quyền lực nhà
nước hoặc sẽ ngày càng mạnh lên, bất chấp sự trấn áp của nhà nước hiện tồn,
cho đến lúc nó đủ sức lật đổ quyền lực chính trị của giai cấp đang cầm quyền,
xóa bỏ quyền lực nhà nước và đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp ấy, thiết lập
bộ máy nhà nước mới dùng vào việc tổ chức lại xã hội theo cách mới phù hợp
với lợi ích giai cấp của nó.3
Ngoài hai hình thức vận động cổ điển này, còn có hình thức đảo chính trung
tính nhằm giành giật và chuyển giao quyền điều khiển nhà nước giữa các nhóm
xã hội khác nhau trong nội bộ giai cấp cầm quyền vẫn thường thấy ở nửa cuối
thế kỉ XIX ở Liên Xô và Đông Âu.
1.2.4. Kiểm soát quyền lực chính trị
3 Giáo trình Chính trị học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, tr 116. 16
Nếu được hiểu theo nghĩa rộng, kiểm soát quyền lực chính trị có thể được hiểu
là những hoạt động có liên quan đến việc thiết kế, tổ chức, thực thi quyền lực
chính trị nhằm đạt được mục đích chung của mình và đem lại hiệu quả hoạt động
cao. Hiểu theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực chính trị chính là toàn bộ những
phương thức, quy định và quy trình để các thiết chế quyền lực chính trị và xã hội
có thể dùng để loại bỏ hoặc ngăn chặn những hoạt động sai trái của các chủ thể,
từ đó, phát hiện và điều chỉnh các chủ thể quyền lực này thực thi quyền lực một
cách đúng đắn, nghiêm chỉnh nhằm đạt được mục đích và hiệu quả cao nhất.
Kiểm soát quyền lực chính trị nhằm mục đích ngăn chặn những mối nguy cơ
đe dọa đến hệ thống quyền lực như: đảo chính, tiếm quyền, lạm quyền, sự tha
hóa của người cầm quyền. Đồng thời, kiểm soát quyền lực chính trị còn nhằm
đảm bảo cho hệ thống chính trị của một quốc gia, tổ chức chính trị đảm bảo được
tính thống nhất trong quá trình hoạt động và mang lại hiệu quả hoạt động cao.
Trong kiểm soát quyền lực chính trị, cần đảm bảo những nguyên tắc cơ bản
sau: phương thức kiểm soát quyền lực chính trị cần mang tính công khai, minh
bạch, pháp quyền, thiết chế kiểm soát quyền lực chính trị cần tập trung vào kiểm
soát quyền lực chính trị của nhà nước.
Quyền lực chính trị có thể được kiểm soát thông qua hai phương thức:
- Kiểm soát quyền lực chính trị từ bên trong: Quyền lực được kiểm soát thông
qua Nhà nước và Đảng chính trị. Nhà nước có các nguyên tắc phân quyền, cơ
chế thanh tra, kiểm toán, giám sát hành chính. Đảng chính trị hoạt động bằng
cơ chế kiểm tra, hệ thống tổ chức Đảng và các Đảng viên.
- Kiểm soát quyền lực chính trị từ bên ngoài: Quyền lực chính trị được kiểm
soát bằng cơ chế đảng đối lập với mô hình đa đảng, bằng các tổ chức chính trị
- xã hội, thông qua các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á ASEAN… Ngoài ra, quyền lực còn có thể được kiểm soát
bằng hệ thống thông tin đại chúng. 17
Chương 2: Quyền lực chính trị tại Việt Nam
2.1. Cơ chế tổ chức và thực thi quyền lực chính trị ở Việt Nam
Quyền lực ở Việt Nam về cơ bản được tổ chức khác với các nước khác. Quyền
lực chính trị ở Việt Nam được tập trung vào Đảng Cộng sản Việt Nam, cả trong
đời sống chính trị của đất nước thì Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất cầm quyền.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một chỉnh thể thống nhất, gắn bó hữu
cơ, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong
đó, đứng đầu và lãnh đạo là Đảng cộng sản Việt Nam, thực hiện đầy đủ quyền
làm chủ của nhân dân và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về
nguyên tắc, quyền lực chính trị được trao cho ba chủ thể quan trọng với cơ chế
hoạt động: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây là cơ chế
vận hành, nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Nhưng cơ
chế này chỉ có thể vận hành và mang lại kết quả thiết thực khi mối quan hệ của
Đảng, Nhà nước, nhân dân có sự phân định rõ ràng về quyền và trách nhiệm,
nghĩa vụ của mỗi chủ thể thông qua hệ thống thể chế và quy chế. 18
Hình 2.1.1. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và
đại biểu Quốc hội bỏ phiếu bầu Chủ tịch nước tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV.
Nguồn: Tạp chí cộng sản.
Về nguyên tắc, quyền hạn của Đảng, Nhà nước, nhân dân phải luôn gắn với
trách nhiệm, nghĩa vụ, và để có sự đảm bảo những chủ thể được có những quyền
hạn chính đáng của mình thì cần có các biện pháp kiểm soát quyền hạn. Đảng
Cộng sản Việt Nam đóng vai trò là đảng chính trị duy nhất cầm quyền hệ thống
chính trị, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là yếu tối quyền lực chính trị
có vai trò quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định. Việc kiểm soát quyền lực của
Đảng là nội dung, giải pháp đảm bảo Đảng trong sạch, vững mạnh, có đủ sức
mạnh để có thể lãnh đạo Nhà nước và quản lý xã hội, là điều kiện để Đảng có thể
kiểm soát quyền lực của Nhà nước một cách hiệu quả, bảo đảm Nhà nước Việt
Nam chủ nghĩa cộng hòa bền vững.
Nhà nước Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo bằng hệ thống các
Cương lĩnh, chiến lược, những định hướng về chính sách, chủ trương lớn. Cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách, chủ trương lớn này của Đảng cần
được sự đồng thuận của nhân dân. Đảng ta đã đề ra các chủ trương, nghị quyết.
Nhân dân có quyền và nghĩa vụ tham gia vào việc đóng góp ý kiến của mình vào
nội dung của các văn bản, văn kiện của Đảng trước khi ban hành. Đây là quyền
dân chủ cơ bản của nhân dân. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Đảng lãnh
đạo thông qua việc giới thiệu những Đảng viên ưu tú để nhân dân bầu cử vào cơ
quan quyền lực của Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng chủ yếu thông qua Nhà nước.
Đảng lãnh đạo nhân dân bằng công tác tuyên truyền tư tưởng. giáo dục chính
trị tư tưởng trong nhân dân, chứng minh và thuyết phục cho nhân dân, để cho
nhân dân thấy được tính khoa học và đúng đắn trong đường lối lãnh đạo, quyết
sách của Đảng, đồng thời thông qua hành động gương mẫu của các Đảng viên, 19
nhân dân có thể noi gương theo và hành động, chấn chỉnh lại bản thân mình.
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát để đảm bảo các chủ trương, nghị
quyết của cấp ủy đề ra là đúng đắn, được nhân dân tuân theo và chấp hành một
cách nghiêm túc, hiệu quả. Việc kiểm tra và giám sát này giúp cho sự lãnh đạo
của Đảng gắn liền với thực tiễn, khắc phụ tư tưởng quan liêu, những tư tưởng
tiêu cực trong lãnh đạo. Đảng lãnh đạo phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể quần chúng và nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng có
nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về
tư tưởng chính trị, tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ,
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân.
Thông qua các kỳ đại hội Đảng, bầu cử cấp ủy, ủy ban, chế độ sinh hoạt Đảng
theo định kỳ, Đảng kiểm soát quyền lực của mình. Qua các kỳ đại hội Đảng,
những cán bộ từ các cấp được sàng lọc lại, đánh giá lại vai trò, trách nhiệm, năng
lực, tiêu chuẩn của mình. Điều này giúp Đảng có thể giám sát được liệu rằng cán
bộ của cấp ủy và các Đảng viên tham gia cấp ủy có đạt đủ tiêu chuẩn, bảo đảm
những yêu cầu để có thể hoàn thành trách nhiệm, gánh vác nhiệm vụ, thực thi
được quyền lực chính trị được giao. Trong từng năm qua, những tiêu chuẩn đánh
giá, xem xét, các quy định trong công tác bầu cử của Đảng luôn được cải biến,
bỏ sung nhằm hoàn thiện hơn, phù hợp với sự biến đổi, phát triển không ngừng
của xã hội, đảm bảo nhân dân được phát huy các quyền dân chủ của mình.
Chủ thể của Nhà nước ta là nhân dân lao động. Hiểu theo cách nói của Karl
Marx, Priedrich Engels thì điều này có nghĩa rằng, nhân dân lao động đã được tổ
chức thành nhà nước. Nhà nước là công cụ để thể hiện và thực hiện quyền lực
chính trị của nhân dân lao động, đồng thời thông qua nhà nước mà nhân dân lao
động được tổ chức lại và lúc đó nhân dân lao động mới có được sức mạnh thực