lOMoARcPSD| 58797173
MỤCLỤC
Chương 1.RÈN LUYỆN CÁC KNĂNG TCHỨC DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH CHO HỌC
SINH THCS/THPT 1
1.1. Kỹ năng phân hóa HS 1
1.1.1. Khái niệm 1
1.1.2. Mục đích 1
1.1.3. Cách thức tổ chức dạy học phân hoá 2
1.1.4. Kết luận 3
1.2. Kỹ năng bao quát lớp học 3
1.2.1. Khái niệm 3
1.2.2. Mục đích 3
1.2.3. Cách thức bao quát lớp học 5
1.2.4. Kết luận 6
1.3. Kỹ năng hướng dẫn HS thọc 6
1.3.1. Khái niệm 6
1.3.2. Mục đích 6
1.3.3. Biện pháp hướng dẫn HS tự học 7
1.3.4. Kết luận 11
1.4. Kỹ năng tổ chức HS hoạt động nhóm 11
1.4.1. Khái niệm 11
1.4.2. Mục đích 11
1.4.3. Cách thức tổ chức HS hoạt động nhóm 11
1.4.4. Kết luận 17
1.5. Kỹ năng tổ chức HS thuyết trình 17
1.5.1. Khái niệm 17
1.5.2. Mục đích 18
1.5.3. Tổ chức cho HS thuyết trình 18
1.5.4. Kết luận 19
1.6. Kỹ năng tổ chức HS tđánh giá và ĐGĐĐ 20
1.6.1. Khái niệm 20
1.6.2. Mục đích 20
1.6.3. Qui trình rèn luyện KNTĐG và ĐGĐĐ 21
lOMoARcPSD| 58797173
1.6.4. Kết luận 22
1.7. Kỹ năng xlý THSP trong dạy học 22
1.7.1. Khái niệm 22
1.7.2. Nguyên tắc xử THSP 23
1.7.3. Quy trình các bước xử lý THSP 23
1.7.4. Kết luận 25
Chương 2. TCHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP ĐẶC TRƯNG TRÊN LỚP HỌC TRONG 26
DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH TRƯỜNG TRUNG HỌC 26
2.1. Những đặc điểm của hoạt động dạy học trường THCS 26
2.2. Định hướng chung trong dạy học phát triển năng lực cho HS 26
2.3. Tchức các hoạt động dạy học 27
2.4. Tchức hoạt động khởi động, tạo hứng thú cho HS 28
2.4.1. Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động 28
2.4.2. Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động cụ thể 29
2.5. Hoạt động hình thành kiến thức 32
2.6. Hoạt động thực hành, luyện tập 32
2.7. Hoạt động vận dụng 33
2.8. Hoạt động tìm tòi, mrộng 33
2.9. Đánh giá, phản hồi 33
2.9.1. Phản hồi của GV 33
2.9.2. Nhận xét của bạn bè 34
Chương 3. PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ BÀI HỌC MÔN TIẾNG ANH DỰA TRÊN QUY TRÌNH 35
NGHIÊN CỨU BÀI HỌC 35
3.1. Scần thiết và quy trình nghiên cứu bài học 35
3.1.1. Khái niệm 35
3.1.2. Sự cần thiết của NCBH 36
3.1.3. Quy trình NCBH 38
3.2. Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học 41
3.2.1. Quan niệm về SHCM theo hướng NCBH 41
3.2.2. Sự khác biệt của SHCM theo hướng NCBH và truyền thống 42
3.2.3. Các bước tổ chức SHCM theo hướng NCBH 43
3.2.4. Một số kỹ thuật SHCM theo NCBH 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
lOMoARcPSD| 58797173
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt
Nghĩa đầy đủ
ĐGĐĐ
Đánh giá đồng đẳng
GV
Giáo viên
Hoạt động
HS
Học sinh
KN
Kĩ năng
KNTĐG
Kĩ năng tự đánh giá
KT
Kiến thức
NCBH
Nghiên cứu bài học
PPDH
Phương pháp dạy học
THCS
Trung học cơ sở
THPT
Trung học phổ thông
lOMoARcPSD| 58797173
Chương 1 RÈN LUYỆN CÁC KỸ NĂNG TỔ CHỨC DẠY HỌC MÔN
TIẾNG ANH CHO
HỌC SINH THCS/THPT
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội thì giáo dục phải không ngừng đổi mới.
Trong dạy học việc truyền thụ kiến thức giúp cho HS lĩnh hội được kiến thức một cách
linh hoạt, sáng tạo, GV cũng không ngừng tìm tòi, khám phá ra mọi kỹ năng nhằm giúp
cho việc dạy học đạt kết quả cao. GV không chỉ chuyên gia về dạy học các môn học
còn là một nhà tâm giáo dục dìu dắt HS, một nhà đạo đức truyền luân lý, một nghệ
thích ứng với mọi đối ợng người học. Đặc biệt, GV còn một nhà tổ chức quản
lí HS trong các giờ học. Robert J. Marzano đã khẳng định: “GV người đóng nhiều vai
trò khác nhau trong một lớp học, nhưng chắc chắn một trong những vai trò quan trọng
nhất đó là kỹ năng tổ chức, quản lý lớp học”. Một GV thiếu các kĩ năng tổ chức dạy học
lớp học chắc chắn sẽ không thành công trong giờ dạy và mọi nỗ lực của GV đều không
đạt được mục tiêu dạy học. Bởi vậy, các kỹ năng tổ chức dạy học đặc biệt quan trọng
đối với mọi GV. nền tảng rất quan trọng để đảm bảo sự thành công cho mọi tiết
học, tạo môi trường thúc đẩy việc giảng dạy và học tập tốt.
1.1. Kỹ năng phân hóa HS
1.1.1. Khái niệm
Khi xem xét bản chất của năng, các nhà giáo dục như Nguyễn Quang Uẩn,
Trần Quốc Thành, Dũng, X.I. Ki gôp, N.D.levitôv… xem năng phân hoá HS
như là biểu hiện của năng lực cá nhân và là điều kiện cần thiết để có năng lực trong một
lĩnh vực nhất định (tức một trong những thành tố cấu trúc nên năng lực). Dũng
cho rằng, kĩ năng phân hoá HS là năng lực vận dụng có kết quả tri thức về phương thức
hành động, được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng. Kỹ năng phân
hóa HS dạy học tập trung vào việc thiết kế giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế
của HS, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lý, sinh lý, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện
vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các em mà tìm cách dạy cho phù hợp, giúp cho mọi HS
đều có cơ hội phát triển toàn diện năng lực tiềm tàng của bản thân.
1.1.2. Mục đích
Đặc thù của dạy học phân hóa dạy sao cho vừa sức với đối ợng: HS mức
độ khá, giỏi thì dạy sao cho các em hứng thú, đam với việc học; Đối với HS trung
bình thì tạo động lực để các em ơn lên; Với HS yếu, kém thì phải bù đắp được lỗ hổng
về kiến thức để lĩnh hội được kiến thức bản. Như vậy, dạy học phân hóa xuyên suốt
chi phối mọi phương pháp dạy học. Chẳng hạn khi GV thực hiện phương pháp đọc
lOMoARcPSD| 58797173
sáng tạo trên lớp thì phải phân hóa cho được các đối tượng HS để áp dụng từng biện
pháp đọc - hiểu văn bản ở những mức độ khác nhau.
Các yếu tố về dạy học phân hóa bao gồm:
- Phân hóa về nội dung: Trong cùng một nội dung kiến thức bài học em
đã biết, đã biết ở mức độ, hoàn toàn chưa biết... có em chỉ có khả năng phát hiện vấn đề,
mỗi em hiểu vận dụng kiến thức ở các mức độ khác nhau. GV cần lựa chọn dạy cái
gì để đạt hiệu quả cho từng em;
- Phân hóa quy trình: GV cần tìm một quy trình thỏa mãn cho nhiều đối
tượng, làm sao để những HS trung bình, yếu, không cảm thấy chán nản với một nội dung
quá khó, HS khá giỏi không cảm thấy buồn tẻ chán nản trước một nội dung quá dễ.
- Phân hóa sản phẩm: Sản phẩm kết quả cuối cùng của bài học. Mức độ
hiểu biết, mức độ hoàn thiện, mức độ thể hiện, của mỗi HS rất đa dạng vậy cần phải có
phương pháp đánh giá phù hợp.
- Phân a trong ng cđánh giá: Do sản phẩm có sự phân hóa nên công cụ
đánh giá không được rập khuôn, máy móc mà phải hết sức linh hoạt.
1.1.3. Cách thức tổ chức dạy học phân h
Với đặc thù của dạy học phân hóa dạy học sao cho vừa sức với đối ợng thì
dạy học phân hóa ra được xem con đường ngắn nhất để đạt được mục đích của dạy
học đồng loạt. Mặc hiểu được đặc tcủa dạy học phân hóa như đã nói trên nhưng
trong thực tế mức độ thành công về dạy học phân hóa không cao. Phần đông các GV
vẫn lên lớp trong khoảng thời gian từ 45 phút đến 50 phút/ tiết học, thực hiện đủ các
bước lên lớp theo quy định cho tới khi trống báo hiệu hết giờ là bước ra khỏi lớp. Còn ít
GV băn khoăn về việc tiết dạy của mình đã giúp HS cả lớp hiểu bài hay chưa, chứ chưa
kể việc HS vận dụng được những đã tiếp thu và cuộc sống hay không. Hạn chế này
xuất phát từ một số nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan. Ch
quan do GV chưa thực sự tận tâm hay thiếu năng lực trong phát hiện, phân hóa đối tượng
cũng như linh hoạt vận dụng phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng. Khách
quan do tổ chuyên môn, ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo chuyên môn chỉ chú trọng bề
nổi mà thiếu chiều sâu không đánh giá được xác đúng chỉnh độ của GV.
Để dạy học phân hóa đạt kết quả GV chỉ thâm nhập bài giảng kỹ, nhiệt tình giảng
giải, chỉ bảo cho từng em thôi không đủ mà còn biết chọn con đường tốt nhất để trong
một tiết lên lớp có thể tiếp cận và giúp mọi đối tượng HS trong lớp cảm thấy thoải mái,
tự tin. Sự linh hoạt trong vận dụng các phương pháp dạy học cho phù hợp đối tượng là
khâu quan trọng để dạy học phân hóa đạt hiệu quả cao. Với HS mức độ học tập từ trung
lOMoARcPSD| 58797173
bình trở xuống, không nên đặt ra những câu hỏi khó vượt xa khả năng của các em. Ngược
lại với HS khá, giỏi, những câu hỏi quá đơn giản, những yêu cầu mà HS nào cũng có thể
làm được sẽ làm cho bài học trở nên nhàm chán.
1.1.4. Kết luận
Rèn luyện kỹ ng dạy học phân hoá cho HS THCS giúp HS phát huy được tối
đa tiềm năng của HS và phát triển năng lực cho HS. Để phát huy tối đa hiệu quả GV cần
thiét kế các hoạt động học tập phù hợp với mỗi nhóm HS nhằm giúp HS phát huy tối đa
tiềm năng học tập của bản thân.
1.2. Kỹ năng bao quát lớp học
1.2.1. Khái niệm
Bao quát lớp học 1 kỹ thuật quản lớp tạm định nghĩa lắng nghe HS để
theo dõi mức độ chính xác và lưu loát của các em, hoặc là để kiểm tra lại xem các hoạt
có đúng như kế hoạch và xem HS có làm đúng nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, việc bao
quát lớp học thường được GV thưc hiện 1 cách là và đôi khi không hề thực hiện, trong
khi đó bao quát lớp có hiệu quả là 1 kỹ năng cần được phát triển ở các hoạt động mang
lại lợi ích cho HS, đặc biệt các loại hình hoạt động cung cấp thông tin ơng tác
trong nhóm.
Trong dạy học GV cần luôn luôn bao quát lớp, đặc biệt khi HS thực hiện các
hoạt động nói, hoặc thực hành, là lúc mà GV quan tâm đến việc đánh giá tổng quát việc
thực hiện hoạt động của HS trong mối tương quan đến sự tiến bộ chung hoặc sự tiến
bộ về ngôn ngữ các kỹ năng của các em gần đây. Quan sát lắng nghe từng HS
trong khi các em thực hiện các bài tập thực hành, lúc mục đích chỉ ra cho các
em các lỗi sai khuyến khích các em tự sửa lỗi. Việc quan sát lắng nghe các hoạt
động thực hành theo ớng dẫn, đặc biệt là các hoạt động theo cặp, trong khi đó thì việc
quan sát và lắng nghe các hoạt động tự do hơn được thực hiện theo nhóm lại hướng vào
mục đích kết quả của hoạt động mức độ thành thạo của HS. thể bao quát lớp
chung chung hoặc nhiều mục đích, tập trung vào 1 hoặc nhiều mục tiêu của tiết học,
bài học.
1.2.2. Mục đích
Không phải tất cả HS đều có cùng tiến độ học tập. Bao quát lớp giúp đánh giá sự
tiến bộ của từng HS, và thường cho thấy chỗ nào cần dạy lại hoặc cần thực hành thêm.
Mục đích cụ thể của việc bao quát lớp tùy thuộc vào giai đoạn của bài học tùy vào
hoạt động, bao gồm:
lOMoARcPSD| 58797173
- Biết HS cả lớp. GV cần nắm vững tiến độ của lớp, tốc độ dạy quá
nhanh hay quá chậm, và HS nào cần được quan tâm riêng. Thường hay khuynh hướng
dạy theo thiết kế bài giảng và tài liệu 1 cách cứng nhắc mà không kể gì đế HS.
- Lắng nghe các lỗi sai thuộc điểm ngữ liệu của bài học, đặc biệt là ở các hoạt
động thực hành theo hướng dẫn. Việc sửa lỗi khi HS thực hiện các hoạt động này cần
thiết, bởi vì đây thường là các hoạt động đặt trọng tâm vào việc HS sử dụng đúng điểm
ngữ liệu của bài học.
- Lắng nghe để đảm bảo là HS đang thực hiện đúng nhiệm vụ. Qua đóthể
cần hướng dẫn lại, hoặc làm mẫu hoạt động, hoặc cung cấp thêm gợi ý cho HS.
- Tận dụng cơ hội để dạy cá nhân HS hoặc các cặp HS nào chưa hiểu rõ điểm
ngữ liệu của bài học.
- Đánh giá từng HS cả lớp. Bao quát lớp giúp giải quyết các khó khăn
cũng như thúc đẩy sự tiến bộ của cá nhân HS và của các nhóm. Trên phương diện này,
bao quát lớp 1 loại hình phân tích nhu cầu thường xuyên liên tục. Tất cả HS cần
được quan tâm, dù chỉ là 1 vài lời động viên khuyến khích.
- Thêm dữ liệu. Đặc biệt các hoạt động đặt trọng tâm vào mức độ lưu
loát, có khả năng HS không thể có được nhiều ý để tiếp tục thực hiện hoạt động . Nhiệm
vụ của GV ở đây là cung cấp thêm ngữ liệu và ý tưởng khi nào thích hợp để duy trì hoạt
động.
- Đánh giá sự tiến bộ về khả năng u loát của HS. Để thực hiện được việc
này cần quan sát và lắng nghe từ xa, và nhiệm vụ của GV ghi chép các lỗi sai thông
thường để rồi sẽ đề cập đến trong giai đoạn sửa lỗi sau đó, và cũng để lưu ý HS về cách
dùng của điểm ngữ liệu bài học trong 1 ngữ cảnh rộng hơn.
- Đánh giá hoạt động. Một vài hoạt động sẽ phát huy tác dụng ở 1 lớp này tốt
hơn 1 lớp khác, trong khi đó những hoạt động khác mới được thử nghiệm lần
đầu. Bao quát lớp tạo hội cho GV đánh giá sự thành công của 1 hoạt động nhận
được phản hồi từ HS.
- Lập kế hoạch. Bao quát lớp giúp GV quyết định xem cái gì cần làm kế tiếp,
cần sửa đổi giáo án ban đầu hay không, thiết kế bài giảng sắp đến phản hồi cho
HS về những gì các em đã thực hiện.
- Duy trì kỹ luật. Các nhóm đông HS thể sẽ không ngồi yên và cảm thấy
chán nếu HS làm xong phần việc của mình trước những người khác. GV cần chuẩn
bị 1 vài hoạt động dự phòng ngắn dành cho các HS này, hoặc thể sử dụng các HS
nhanh nhẹn để hổ trợ các nhóm chậm hơn.
lOMoARcPSD| 58797173
1.2.3. Cách thức bao quát lớp học
Bao quát lớp là 1 kỹ năng mà khi đạt được hy vọng rằng sẽ trở thành 1 thói quen
tốt. Những GV ít kinh nghiệm thể cảm giác nh cần phải quan sát một cách
chặt chẽ và lúc nào cũng phải kiểm soát các hoạt động, trong khi đó những GV khác lại
có cảm giác rằng mình phải luôn tham gia vào các hoạt động và bao quát lớp là một giải
pháp. Cả hai trường hợp đều có nguy cơ bao quát lớp nhiều hơn mức cần thiết, hoặc can
thiệp sâu, tạo nên scăng thằng thay không khí thoải mái trong giai đoạn HS
thực hành hoạt động tự do mà ở đó HS là trung tâm.
Việc bao quát kỹ cần được thực hiện một cách khéo léo, trong đó cần lưu ý yếu
tố nhân yếu tố văn hóa. những HS cảm thấy bực bội khi người đứng gần,
những HS khác thì cảm thấy khó chịu khi thấy GV cứ lom khom trước mặt. Việc đứng
ngay trước mặt HS để quan sát và lắng nghe làm HS phân tâm và đôi khi là một sự cản
trở, có khuynh hướng làm gián đọan hoạt động và chuyển trọng tâm hoạt động sang GV.
Đến lúc này HS sẽ mong chờ GV cung cấp thêm, hoặc cho nhận t, hoặc sửa lỗi cho
các em. Quan sát kín đáo để HS không nhận thấy hiệu quả nhất, tốt nhất là thực
hiện từ phía sau HS. Một số dụ gợi ý: Kéo ghế ra xa ờng; Cần đảm bảo một
lối dễ đi quanh phòng học; Xếp chỗ sao cho tất cả HS đều có thể nhìn thấy vị trí của GV;
Quan sát và lắng nghe các cặp hoặc nhóm một cách ngẫu nhiên không chủ định; Không
bỏ quá nhiều thời gian với một nhân HS, một cặp hoặc một nhóm, cần đảm bảo
rằng tất cả HS đều được quan sát lắng nghe; Ngồi cùng các cặp hoặc nhóm hơn
đứng hoặc cúi mình xuống ghế quay một phương tiện tưởng để di chuyển từ
nhóm này sang nhóm khác.
Khi bao quát lớp từ xa một vị trí không cố định trong lớp học sẽ giúp GV
thể lắng nghe được hội thoại từ nhiều cặp khác nhau. Nếu lớp đông HS, thể GV
cần đi quanh phòng để quan sát và lắng nghe. Lưu ý là không ngồi cùng một nhóm trong
suốt một hoạt động, điều đó cho thấy rằng GV chỉ lắng nghe mỗi nhóm này. Thông
thường, vị trí quan sát tốt nhất là phía sau HS,các em không để ý, để có thể tập trung
vào hoạt động và các bạn trong nhóm hơn là tập trung vào GV
HS có thể thắc mắc muốn hỏi trong khi thực hiện các hoạt động thực hành tự do.
Câu trả lời của GV sẽ tùy thuộc vào hoạt động, nhưng việc hướng dẫn HS ghi ra các câu
muốn hỏi ở cuối hoạt động là một cách rèn luyện rất ích lợi cho HS.
Có thể cho HS tự quan sát và lắng nghe cũng như quan sát và lắng nghe bạn. Để
HS tự quan sát và lắng nghe cần phải tập cho các em khả năng tự sửa lỗi. Tất cả HS đều
có thể tham gia quan t và lắng nghe lẫn nhau, nhưng một cách làm hiệu quả là cho HS
lOMoARcPSD| 58797173
hoạt động theo nhóm ba em thay vìtheo cặp, qua đó HS sẽ luân phiên nhau quan sát
và lắng nghe hai bạn còn lại trong nhóm.
1.2.4. Kết luận
Có thể áp dụng các cách bao quát lớp kể trên vào mọi tình huống dạy học, nhưng
trong một vài trường hợp, bao quát lớp cũng nhằm đạt mục đích thực hiện kỷ luật. Ở các
lớp HS không được tích cực thuộc các trình độ khác nhau, việc tập trung quá nhiều
vào HS có khả năng làm cho hoạt động bị xao lãng, để rồi chỉ những HS khá giỏi
thực hiện hoạt động. Đôi khi sự hiện diện của GV với vai trò giám sát đủ rồi, nhưng
bao quát lớp kỹ sẽ đảm bảo việc HS thực hiện hoạt động tốt nhất giúp cho GV
được sự phản hồi với nhiều thông tin bổ ích.
1.3. Kỹ năng hướng dẫn HS tự học
1.3.1. Khái niệm
Tự học động não, suy nghĩ, sử dụng năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân
tích…) có khi cả bắp (khi sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của chính bản
thân người học (tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say
khoa học) cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một
lĩnh vực nào đó, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”
Năng lực tự học được hiểu một thuộc tính kỹ năng rất phức hợp. bao gồm
kỹ năng xảo cần gắn với động thói quen tương ứng, làm cho người học
thể đáp ứng được những yêu cầu công việc đặt ra” [Nguyễn Cảnh Toàn (2002),
Học và dạy cách học. Năng lực tự học bao gồm: CÁCH HỌC và KĨ NĂNG.
Hướng dẫn HS tự học là phương pháp dạy học phát triển năng lực là coi quá trình
tự học của HS là trung tâm hoạt động giáo dục, GV là người hướng dẫn, đồng hành với
HS, giúp HS tự tìm hiểu lĩnh hội kiến thức. hình thức dạy học đặt HS vào môi
trường học tập tích cực, trong đó HS được tổ chức thành nhóm một ch thích hợp. Học
hợp tác nhóm giúp c em rèn luyện phát triển năng làm việc, năng giao tiếp,
tạo điều kiện cho HS học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực xã hội
trên sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em thể cùng làm việc
với nhau những công việc mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất
định.
1.3.2. Mục đích
Tự học là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá trình biến
người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo dục). Tự học giúp nâng
lOMoARcPSD| 58797173
cao kết quả học tập của HS (HS) và chất lượng giáo dục của nhà trường, là biểu hiện cụ
thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông
Hướng dẫn HS tự học giúp người học hình thành một khối lượng kiến thức nhất
định để giải quyết những nhiệm vcụ thể trong quá trình chuyển từ cái chưa biết sang
cái sẽ biết theo từng chặng, từng cấp độ của duy, nhận thức năng. Góp phần
nâng cao chất lượng học tập, phát triển khả năng duy độc lập, sáng tạo cho người học.
Hướng dẫn HS tự học còn giúp hình thành những phẩm chất, nhân cách tốt đẹp chuẩn
bị hành trang cho việc học tập suốt đời của con người.
1.3.3. Biện pháp hướng dẫn HS tự học
Tự học có 3 nh thức: Tự học hoàn toàn, tự học có hướng dẫn của GV và tự học
không có hướng dẫn của GV.
Tự học hoàn toàn: tự mình mò mẫm (người học không có điều kiện đi học, các
tri thức họ có được là do sự tìm tòi trải nghiệm của chính bản thân họ trong cuộc sống)
Tự học với sự hướng dẫn của GV: hoạt động tự học này gắn với quá trình dạy học (học
mà không giáp mặt GV, nhưng nhận được sự hướng dẫn của GV từ xa, tự học trên lớp
hoặc ở nhà). GV cần thực hiện nguyên tắc bảo đảm hình thành ở HS kĩ năng tự học từ
thấp lên cao, tự học từng phần cho đến tự học hoàn toàn. Và nguyên tắc bảo đảm cho
GV thu nhận thông tin phản hồi về kết quả học tập của HS sau quá trình tự học và giúp
đỡ điều chỉnh nhịp độ học tập của HS khi cần thiết.
Tự học không có hướng dẫn của GV: học mà không có GV, người học đã có một
trình độ học vấn nhất định (thường liên quan đến hoạt động học tập của những người đã
trưởng thành) hoặc đã có một thời gian dài học với GV.
Kỹ năng tự học khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự
điều khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng các kinh nghiệm có liên quan đến hoạt
động đó. Có bao nhiêu loại hình học tập thì có bấy nhiêu loại hình kỹ năng chuyên biệt.
Các nhà nghiên cứu đã phân chia các kỹ ng tự học theo nhiều cách khác nhau. Theo
nhóm nghiên cứu Khoa Tâm - Giáo dục Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, kỹ năng
tự học có thể được phân thành 4 nhóm, đó là nhóm kỹ năng định hướng, nhóm kỹ năng
thiết kế (lập kế hoạch), nhóm kỹ năng thực hiện kế hoạch nhóm kỹ năng kiểm tra,
đánh giá, rút kinh nghiệm.
Tiếp thu quan điểm trên, chúng tôi phân chia hoạt động tự học bao gồm các nhóm
kỹ năng cơ bản sau: Kỹ năng định hướng; kỹ năng lập kế hoạch; kỹ năng thực hiện kế
hoạch; kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm.
- Kỹ năng định hướng
lOMoARcPSD| 58797173
Trước tiên, để quá trình tự học diễn ra thành công người học cần thiết lập cơ s
định hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ thể có thể sử
dụng để thực hiện một hành động xác định nào đó. chức năng nhận thức đối
tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra điều chỉnh hành động theo kế hoạch. Để được cơ
sở định hướng, người học phải trả lời được các câu hỏi:
+ Học nhằm mục đích gì? Học vì yêu thích môn học, vì trách nhiệm với gia đình
và xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao…
+ Thái độ học tập ra sao? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời hợt qua
loa.
+ Học như thế nào? Người học nên chọn phương pháp nào phù hợp với bản
thân.
- Kỹ năng lập kế hoạch học tập
Mọi việc sẽ dễ ng hơn nếu người học xác định được mục tiêu, nội dung
phương pháp học. Muốn vậy, người học phải xây dựng được kế hoạch học tập. Trên
sở bộ khung đã được thiết lập đó, người học có thể tiếp cận chiếm lĩnh tri thức một
cách dễ dàng. Trong quá trình lập kế hoạch người học phải chú ý một số điểm sau:
+ Thứ nhất, người học phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó có thể
kế hoạch ngắn hạn, i hạn, thậm chí kế hoạch cho từng môn, từng phần. Kế hoạch phải
được tạo lập thật ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể sao cho
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình.
+ Thứ hai, khi lập kế hoạch, người học phải chọn đúng trọng tâm, cần xác định
được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho
nó.
- Kỹ năng thực hiện kế hoạch
Muốn thực hiện thành công kế hoạch mình đã tạo lập, người học cần một số
kỹ năng sau:
+ Tiếp cận thông tin: lựa chọn chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem
truyền hình, tra cứu từ Internet, làm thí nghiệm… Trong hoạt động y rất cần sự tỉnh
táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt.
+ Xử thông tin: việc xử thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn
ra trong vô thức mà cầnsự gia công, xử mới có thể sử dụng được. Quá trình này
thể được tiến hành thông qua các kỹ năng ghi chép, phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng
hợp, so sánh…
lOMoARcPSD| 58797173
+ Vận dụng tri thức, thông tin: thể hiện qua việc vận dụng thông tin tri thức khoa
học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử các tình
huống, viết bài thu hoạch…
+ Trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri
thức thông qua các nh thức: thảo luận, thuyết trình, tranh luận… công việc cuối
cùng của quá trình tiếp nhận tri thức.
- Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự đánh
giá được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái mình làm được, cái mình
chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có kỹ năng tự kiểm tra,
đánh giá, HS cần:
+ Tự trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa bằng cách xác định yêu cầu của câu hỏi,
dự kiến câu trả lời, tái hiện các kiến thức liên quan, tập trình bày câu trả lời trước nhóm
hoặc trước lớp để tìm ra chỗ sai từ đó khắc phục.
+ Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè.
+ Làm các bài tập của thầy giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm kiếm sau
đó tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm…
Như vậy, GV cần làm để phát triển kỹ năng thọc cho HS gồm những vấn đề
sau:
Thứ nhất, muốn HS có ý thức tự học thì trước hết HS phải yêu thích môn học đó.
Vì vậy GV cần tạo cho HS niềm say mê môn học. GV có thể dùng tiết dạy để giới thiệu
về môn học, về những giá trị của môn học trong thực tiễn bằng những dụ minh họa
cụ thể nhằm kích thích động học tập các em. dmôn tiếng Anh, GV thể
làm được điều này thông qua cách đặt vấn đề bằng những câu chuyện hay đơn giản chỉ
là những câu hỏi thú vị như: “In which countries do people drive on the left?” (Ở những
quốc gia nào người dân lái xe bên tay trái?) Câu hỏi vừa đặt ra ởng chừng rất đơn giản
nhưng để trả lời được câu hỏi này đòi hỏi HS cần phải kiến thức về văn hoá.
Thứ hai, GV cần hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ ban đầu.
Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, GV không cần phải dạy ngay cần giới thiệu
lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để HS
hiểu từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp. GV phải làm cho HS
hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng dựa trên mục tiêu chung mục tiêu cụ thể
HS hoàn toàn thể phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu kế hoạch thời
gian được xây dựng chi tiết. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi chương, GV sẽ
lOMoARcPSD| 58797173
cung cấp nội dung thời gian học kiểm tra để HS nắm rõ. Đồng thời, GV thể cho
HS đánh dấu vào trong sách bài o học ngày nào, đến tiết nào sẽ kiểm tra. Muốn HS tự
xây dựng kế hoạch học tập thì GV phải là người cung cấp đầy đủ kế hoạch dạy học
của bộ môn.
Thứ ba, GV hướng dẫn cho HS cách tìm và đọc sách hoặc tài liệu liên quan đến
môn học. GV cần nhấn mạnh cho HS thấy rằng, kiến thức môn học không chỉ gói gọn
trong nội dung SGK, trong bài giảng của GV mà đến từ nhiều nguồn khác nhau. Do đó,
GV cần giới thiệu cho HS những cuốn sách hay, những tài liệu bổ ích liên quan đến môn
học và khuyến khích các em tự tìm kiếm, tự phân tích tổng hợp kiến thức. GV cũng
thể giới thiệu địa chỉ một số trang web chuyên ngành, hoặc các trang diễn đàn trao
đổi kinh nghiệm học tập để HS tham khảo thêm.
Thứ tư, GV nên dạy cho HS cách ghi chép và nghe giảng đây là những kỹ năng
học tập vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập của HS. Trình độ
nghe và ghi chép của người học ở mỗi môn học khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào
đặc thù của từng môn học và phương pháp giảng dạy của từng GV. HS thường mang lối
học thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều HS chỉ chờ
GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung bài học, nếu ngược lại thì bỏ trống vở. Điều
này khiến HS có tâm ức chế, ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức. Để khắc
phục vấn đề này này, GV nên xây dựng bộ giáo trình mẫu, bên cạnh nội dung của bài
học có chừa khoảng trắng cho HS ghi chép những vấn đề mà GV mở rộng. Đối với các
vấn đề mà HS còn chưa rõ, có thể đánh dấu để hỏi lại
GV hoặc tìm hiểu thêm. GV phải rèn luyện cho HS cách ghi chép nhanh bằng các hình
thức gạch chân, tóm ợc bằng sơ đồ hình vẽ những ý chính. Đối với các vấn đề quan
trọng, GV cần nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần để HS tiếp thu dễ dàng hơn.
Thứ năm, GV hướng dẫn cách học bài. GV nên giới thiệu hướng dẫn cho HS
tự học theo hình các nấc thang nhận thức của Benjamin S.Bloom. Theo cách phân
chia trong thang nhận thức của Bloom, HS thể học cách phân tích, tổng hợp, vận
dụng tri thức vào từng tình huống thực tiễn, học cách nhận xét, đánh giá, so sánh đối
chiếu các kiến thức khác… Cách tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom
sẽ giúp cho HS có thể học được cách rèn luyện được năng lực tư duy logic, tư duy trừu
tượng và phát triển tư duy sáng tạo trong việc tìm ra những hướng tiếp cận mới đối với
các vấn đề khoa học.
Thứ sáu, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS tiết học tiếp theo. Để phát huy
tối đa năng lực tự học và thúc đẩy HS tận dụng hết thời gian tự học, GV cần giao nhiệm
lOMoARcPSD| 58797173
vụ cụ thể cho HS. nthế, các em mới định hướng được cụ thể các nhiệm vụ mình
cần làm tiếp theo. Sau khi đã tiếp nhận được kiến thức cũ, các em thể tìm hiểu kiến
thức mới. Khi sự chuẩn bị trước nhà, việc học trên lớp sẽ trở nên hiệu quả hơn
rất nhiều.
1.3.4. Kết luận
Vấn đề tự học HS một vấn đề không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập
đạt kết quả cao, đòi hỏi HS phải tự giác, không ngừng tìm tòi học hỏi. Ngoài ra, sự định
hướng của người thầy đóng vai trò quyết định thúc đẩy sự thành công trong việc chiếm
lĩnh tri thức của người học.
1.4. Kỹ năng tổ chức HS hoạt động nhóm
1.4.1. Khái niệm
Dạy học theo nhóm một phương pháp dạy học trong đó GV tổ chức cho HS
hình thành các nhóm học tập nhỏ. Mỗi thành viên trong nhóm học tập này vừa có trách
nhiệm tự học tập, vừa có trách nhiệm giúp đỡ các thành viên trong nhóm để cùng hoàn
thành mục đích học tập chung của cả nhóm. Đây phương pháp dạy học khá ưu việt được
áp dụng trong đổi mới phương pháp dạy học: phát huy tính tích cực của người học, dạy
học hướng về người học.
Giảng dạy dựa trên phương pháp làm việc theo nhóm một phương pháp
phạm theo đó, lớp được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm được phân ng giải
quyết một công việc cụ thể; kết quả của từng nhóm sẽ được trình bày để thảo luận chung
trước khi GV đi đến kết luận cuối cùng.
1.4.2. Mục đích
Tổ chức HS hoạt động nhóm phương pháp dạy học phát triển năng lực giúp
HS chủ động hơn, tích cực hơn trong học tập và phát huy tốt khả năng sáng tạo của bản
thân. Nhằm góp phần vào tiến trình đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương
pháp hoạt động theo nhóm nói riêng, từng ớc nâng dần chất ợng giáo dục của nhà
trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.4.3. Cách thức tổ chức HS hoạt động nhóm
Tùy thuộc vào mục đích sư phạm và yêu cầu của vấn đề học tập mà ta nhiều
cách chia nhóm. Khi thành lập nhóm cần lưu ý khả năng làm việc của các thành viên,
trình độ học lực của các cá nhân trong nhóm và mối quan hệ giữa các thành viên.
Tùy vào tình hình mà GV có thể hoặc không cần chọn nhóm trưởng. Nhóm
trưởng phải là người có kết quả học tập tốt, có ý thức giúp đỡ các thành viên trong
nhóm.
lOMoARcPSD| 58797173
Cần rèn luyện cho HS kỹ năng hợp tác nhóm bao gồm: kỹ năng hiểu được nhu
cầu của người khác, kỹ năng biểu đạt một quan điểm, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thảo
luận, kỹ năng bảo vệ quan điểm, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn Để tổ
chức HS hoạt động nhóm hiệu quả cần:
1.4.3.1. Hình thành động cơ hoạt động nhóm
Với sự tiến bộ phi thường của công nghệ thông tin truyền thông, khối lượng
thông tin tri thức đang tăng theo hàm mũ, đòi hỏi con người phải có khả năng thích
ứng nhanh chóng liên tục, chẳng những về tri thức còn kỹ năng với một tốc độ
cực kỳ cao. Do đó, nếu trước đây việc tích lũy kiến thức nhớ là số 1, thì giờ đây khi các
phương tiện u trữ đã đầy đủ sẳn sàng cho việc truy cập xử thông tin, thì ưu
tiên số 1 lại là khả năng tiếp cận tri thức mới, vận dụng tri thức mới và khả năng “sinh
ra tri thức mới. Nhưng tri thức là vô cùng vô tận, một người không thể tự nắm bắt được
tất cả, vậy đòi hỏi quá trình giao lưu, trao đổi kiến thức với nhau. Việc làm nhóm
sẽ giúp ích cho HS rất nhiều trong việc này.
Do hạn chế của nền giáo dục phổ thông nước ta, nhiều HS (HS) mới vào trường
tỏ ra khá rụt rè, thụ động, thờ ơ với sinh hoạt nhóm, sinh hoạt tập thể. Do vậy, ngay từ
tiết học đầu tiên của học phần, GV (GV) cần động viên, khuyến khích HS tự tin, mạnh
dạn thể hiện mình. Bên cạnh đó, để HS thực sự tự giác, tích cực tham gia hoạt động
nhóm (HĐN), cần hình thành cho HS nhận thức đúng đắn rằng mục tiêu của N không
phải chỉ để nâng cao điểm số mà là giúp HS nắm vững kiến thức môn học, khả năng ghi
nhớ lâu hơn, hiệu quả làm việc tốt hơn, phát triển năng lực cá nhân, rèn luyện kỹ năng
thuyết trình trước đám đông, kỹ năng giao tiếp, năng hợp tác, năng tổ chức, quản
lí, kĩ năng giải quyết vấn đề, có trách nhiệm cao, tinh thần đồng đội, khuyến khích tinh
thần học hỏi lẫn nhau, nhờ đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu hiện nay của hội về nguồn
nhân lực. 1.4.3.2. Tổ chức, quản lý hoạt động nhóm
Ngay từ tiết học đầu tiên của học phần, GV (GV) cần thông báo cho HS kế hoạch,
phương thức tổ chức và đánh giá HĐN.
a) Chia nhóm
Việc phân nhóm cần thực hiện sao cho GV thể theo dõi, đánh giá HĐN
nhưng đồng thời cũng đảm bảo phát huy nh tích cực của mỗi HS. Về thuyết, một
nhóm lý tưởng nhất gồm 4 - 6 thành viên. Trong thực tế, tùy theo quỹ thời gian môn học
quy mô lớp học, GV thể thay đổi linh hoạt. Những tiết học đầu tiên, sự phân nhóm
thể mang tính ngẫu nhiên. Tuy nhiên, sau đó GV cần điều chỉnh sao cho sự cân
lOMoARcPSD| 58797173
bằng trình độ, năng lực học tập giữa HS các nhóm với nhau, nhằm thúc đẩy mối quan
hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập giữa các thành viên trong nhóm.
- Cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hợp lý
Một nhóm muốn hoạt động hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Cơ
cấu của nhóm gồm:
- Một nhóm trưởng có trách nhiệm tổ chức, điều hành mọi hoạt động của
nhóm, nhóm trưởng có thể do các thành viên trong nhóm bầu lên hoặc do GV chỉ định.
- Một nhóm phó (nếu quy mô nhóm lớn) để thay thế, hỗ trợ nhóm trưởng
khi nhóm trưởng vắng mặt;
- Một thư ký để ghi chép nội dung, diễn biến các cuộc họp, thảo luận của
nhóm, thư thể được thay đổi theo từng cuộc họp nhóm hoặc cố định từ đầu đến
cuối. Nhóm phải quy định trách nhiệm cụ thể của từng vị trí trong nhóm, xây dựng
mối quan hệ gắn kết giữa các thành viên trong nhóm.
Người trưởng nhóm có năng lực, nhiệt tình và có uy tín
Trong hoạt động của một nhóm, người trưởng nhóm đóng vai trò cùng
quan trọng, là người chịu trách nhiệm trước thầy cô, tập thể lớp về hoạt động của nhóm,
là người điều nh và tchức công việc của nhóm, đảm bảo cho nhóm đi đúng hướng,
người động viên thôi thúc mọi người tháo gỡ khó khăn khi cần thiết ... Chính
vậy, người trưởng nhóm sẽ góp phần quyết định thành công của một nhóm học tập. Nếu
một nhóm có người trưởng nhóm có năng lực về học tập và quản lý (kỹ năng điều hành
nhóm), có lòng nhiệt tình và được các thành viên tin tưởng, yêu mến thì chắc chắn nhóm
đó sẽ hoạt động có chất lượng.
b) Lựa chọn chủ đề cho HS thảo luận
Việc lựa chọn chủ đề rất quan trọng. Chủ đề quá khó hoặc quá dễ đối với HS
đều ảnh hưởng đến hoạt động thảo luận của HS. Lựa chọn vấn đề thảo luận phải hấp
dẫn, tính chất kích thích tính tích cực chủ động làm việc của HS. Chủ đề thảo luận
phải vấn đề chính của bài học, vấn đề thể nhiều hướng khai thác khác nhau,
nhiều cấp độ nhận thức khác nhau. Thường là loại cấp độ phát hiện và suy luận. Tùy o
từng môn học thể lựa chọn những chủ đề gắn liền với những sự kiện thật ở Việt
Nam và trên thế giới, hoặc những chủ đề cho HS đi thực tế để làm thảo luận nhóm.
Chủ đề thảo luận nhóm có thể là những chủ đề để cho các nhóm về nhà chuẩn
bị, hoặc cũng có thể là những chủ đmà các em thảo luận ngay tại chổ, trong đó cần chú
ý:
lOMoARcPSD| 58797173
+ Phải đặt ra nhiệm vụ cụ thể của từng nhóm bằng câu hỏi. Câu hỏi phải
ràng, không mập mờ, đánh đố.
+ Phải có hướng dẫn cụ thể về yêu cầu và định hướng cách thức làm việc.
+ Thời gian thảo luận phải tương ứng với nội dung yêu cầu của vấn đề thảo
luận
c) Bố trí thời gian
Hoạt động nhóm cần diễn ra thường xuyên và xen kẽ với hoạt động thuyết
giảng của GV (chẳng hạn, cuối một tiết giảng, sau khi kết thúc một chủ đề hay trước khi
chuyển sang một chủ đề mới). Điều này, sẽ giúp HS đỡ nhàm chán và GV kịp thời nắm
bắt mức độ tiếp thu của HS, từ đó định hướng điều chỉnh, bổ sung kiến thức, tài liệu
tham khảo cho HS.
Với những chủ đề HS về nhà chuẩn bị thì phải xác định thời gian cụ thể là khi
nào sẽ thuyết trình, thời gian tối đa và tối thiểu dành cho mỗi chủ đề là bao nhiêu để HS
có thể chủ động.
Với những chđề đòi hỏi sự vận dụng kiến thức của cả môn học thì GV
có thể cho HS trình bày vào những tiết cuối khi kết thúc môn học.
d) Tổ chức thảo luận nhóm
Thường có hai phương án để GV cho HS trình bày bài nhóm: thứ nhất, là gọi
ngẫu nhiên bất kỳ người nào trong nhóm lên thuyết trình; thứ hai, là cho HS chọn người
để thuyết trình.
Để đảm bảo tất cả mọi thành viên trong nhóm đều phải làm việc, tránh tình
trạng ỷ lại vào người khác thì ngay từ ngày đầu tiên, khi phân công làm nhóm chúng ta
thông báo trước lớp là có thể chúng ta sẽ chọn 1 trong 2 phương án.
Nếu chúng ta lựa chọn phương án thứ hai thì chúng ta thể gọi ngẫu nhiên
bất kỳ thành viên nào trong nhóm lên nói tóm tắt những nội dung mà nhóm đã làm. Sau
đó mới cho nhóm thuyết trình. Việc làm này sẽ giúp tránh được tình trạng công việc chỉ
tập trung trong một số HS và không phát huy được tác dụng của việc làm nhóm.
Nếu nhóm nào có người không chuẩn bị bài mà nhóm trưởng không chịu báo
thì cả nhóm sẽ bị trừ điểm. Hãy tạo không khí lớp học sôi nổi bằng cách cho các thành
viên trong lớp được thảo luận về vấn đề HS trình bày. GV chỉ đóng một vai trò như
là cầu nối để các sinh viện làm việc với nhau.
Khi một nhóm thuyết trình, các nhóm còn lại chú ý theo dõi và sau đó sẽ tiến hành
nhận xét, đặt ra những câu hỏi. Những nhóm có câu hỏi hay và nhận xét chính xác thì
cũng sẽ được cộng điểm. Nhưng để đảm bảo cho mọi thành viên trong lớp đều chú ý
lOMoARcPSD| 58797173
lắng nghe, GV có thể chỉ bất kỳ thành viên của các nhóm còn lại sẽ nhận xét và đưa ra
câu hỏi.
Thường thì HS sẽ đặt ra rất nhiều câu hỏi. Tránh tình trạng thời gian trả lời
câu hỏi qdài. GV có thể chọn ra những câu hỏi hay để nhóm thuyết trình trả lời. HS
nhóm trả lời câu hỏi cũng do GV chỉ ngẫu nhiên. Những câu hỏi còn lại thể cho HS
về nhà trả lời và gửi lại cho cả lớp và GV.
Ngoài những vấn đề đã được chuẩn bị trước, GV có thể đặt ra những câu hỏi
bất ngờ. Những câu hỏi gợi sức sáng tạo từ phía HS. Trong quá trình HS thảo luận, GV
đi tới từng nhóm, lắng nghe, gợi mở và thăm dò xem nhóm nào làm việc hiệu quả hơn
thì có thể mời nhóm đó trình bày trước lớp, còn các nhóm khác lắng nghe rồi nhận xét.
Khi có được cả kỹ năng tự học và kỹ năng làm việc nhóm, các HS sẽ có thói quen chủ
động và cầu tiến trong việc học.
e) Đánh giá hoạt động nhóm
Tổng kết đánh giá là khâu cuối cùng của hoạt động thảo luận. Sự đánh giá và
kết luận của GV cũng tác động không nhỏ đến chất lượng làm việc nhóm. Sau khi các
nhóm làm việc cho ra các sản phẩm, nếu GV đánh giá chi tiết mặt tốt, chưa tốt của sản
phẩm, so sánh các sản phẩm của các nhóm với nhau để HS nhận ra được những ưu,
khuyết của mình, sau đó GV nêu lên kết luận (đưa ra chân khoa học) thì HS sẽ hiểu
sâu sắc và nắm vững vấn đề; đồng thời HS sẽ quyết tâm hơn trong lần làm bài tiếp theo.
Ngược lại, nếu GV không đánh giá sản phẩm và sự làm việc của HS sẽ khiến HS mất đi
hứng thú và động lực làm việc và như vậy hoạt động nhóm sẽ không thể có hiệu quả.
- HS tự đánh giá kết quả làm việc của nhóm:
một thực tế hiện nay mặc GV đã chia nhóm, phân công nhiệm vụ
cho nhóm. Nhưng nhiều HS với thói quen ỷ lại vào các HS khác đã không tham gia làm
nhóm ở nhà. Chỉ chờ các HS khác làm rồi ngồi hưởng lợi.
Đặc biệt với việc đào tạo theo học chế tín chỉ như hiện nay, tỷ lệ điểm kiểm
tra chiếm tới 50%.
Nhưng GV chỉ thể biết được sự đóng góp của các HS trong nhóm tại lớp.
Còn những thảo luận tại nhà thì sẽ không nắm được. Vì vậy sẽ phân công nhiệm vụ của
nhóm là tự cho điểm các thành viên trong nhóm về những đóng góp của mỗi thành viên
để hoàn thành bài nhóm tại nhà. Và cả những đóng góp của từng thành viên trong nhóm
tại lớp.
- Các nhóm đánh giá kết quả làm việc của nhau:
lOMoARcPSD| 58797173
Hãy để các nhóm tự cho điểm lẫn nhau, đây là một kênh để đảm bảo cho HS
phát huy khả năng tổng kết đánh giá. Và đồng thời cũng giúp cho GV có thể đưa ra kết
quả cuối cùng phù hợp nhất.
- GV đánh giá, nhận xét kết quả làm việc của các nhóm:
Công việc này có thể tiến hành song song hoặc sau khi đã có sự đánh giá giữa
các nhóm với nhau. Đánh giá khả làm việc của nhóm: Các nhóm làm việc có khoa học
hay không. Những ai tích cực, những ai lười biếng hay làm chuyện riêng, cần rút kinh
nghiệm gì,… GV nên nhận xét cụ thể, khách quan và tốt nhất nên cho điểm để khích l
tinh thần học tập của HS.
Để tránh tình trạng lại, chây lười của một số HS trong HĐN, cần đánh giá
kết quả HĐN không chỉ dựa trên thành tích chung của cả nhóm mà còn dựa trên sự đóng
góp của từng thành viên trong nhóm. Điểm trung bình của cả nhóm dựa trên chất lượng
HĐN (mức độ am hiểu vấn đề, kỹ năng diễn đạt/trình bày, trả lời câu hỏi, tinh thần hợp
tác giữa các thành viên trong nhóm). Điểm của từng HS được tính trênsở điểm trung
bình của nhóm có tính đến mức độ đóng góp của từng cá nhân đóng góp vào HĐN.
f) Vai trò của người GV
Hãy tạo nên một không khí lớp học thật sôi nổi thoải mái bằng cách tăng
cường sự đối thoại giữa GV và HS. Người GV bên cạnh việc cung cấp những kiến thức
từ sách vở, cần cung cấp cho sinh nhiều kiến thức thực tế. Trong các giờ học cần tiến
hành lồng ghép những kiến thức thực tế thu thập được từ internet, tivi, sách báo cho HS.
Việc cung cấp những kiến thức như vậy sẽ giúp cho các em cảm thấy hứng thú hơn trong
giờ học.
Trong việc làm nhóm của HS, GV vẫn phải một nhiệm vụ quan trọng
tổng kết lại các vấn đề đã thảo luận, đánh giá những ý kiến đúng sai giải quyết mọi
thắc mắc của HS xung quanh vấn đề đó. Việc tổng kết này rất quan trọng vì sẽ giúp cho
HS nắm được những kiến thức cơ bản cần thiết.
Bên cạnh đó, để HS có thể làm tốt được vai trò của mình thì GV cần phải cung
cấp đầy đủ các tài liệu tham khảo cho HS, để các em có thể tự học tập và nghiên cứu.
Một yêu cầu nữa là GV phải am hiểu sâu sắc nội dung dạy học, làm chủ kiến
thức, biết chế biến nó theo ý đồ sư phạm và biết cách truyền tải nó đến với HS. GV phải
có khả năng giảng dạy, lòng nhiệt thành. Phải biết không ngừng cập nhật thông tin mới
và biết vận dụng nó vào công tác giảng dạy của mình. Có như vậy, GV mới có thể giúp
HS tích cực, chủ động, phát huy khả năng sáng tạo trong quá trình học tập. GV có nhiều
kiến thức, nhiều cách tổ chức trình bày ngắn gọn, sáng tỏ cùng với sự nhiệt tình

Preview text:

lOMoAR cPSD| 58797173 MỤCLỤC
Chương 1.RÈN LUYỆN CÁC KỸ NĂNG TỔ CHỨC DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH CHO HỌC SINH THCS/THPT 1 1.1. Kỹ năng phân hóa HS 1 1.1.1. Khái niệm 1 1.1.2. Mục đích 1
1.1.3. Cách thức tổ chức dạy học phân hoá 2 1.1.4. Kết luận 3
1.2. Kỹ năng bao quát lớp học 3 1.2.1. Khái niệm 3 1.2.2. Mục đích 3
1.2.3. Cách thức bao quát lớp học 5 1.2.4. Kết luận 6
1.3. Kỹ năng hướng dẫn HS tự học 6 1.3.1. Khái niệm 6 1.3.2. Mục đích 6
1.3.3. Biện pháp hướng dẫn HS tự học 7 1.3.4. Kết luận 11
1.4. Kỹ năng tổ chức HS hoạt động nhóm 11 1.4.1. Khái niệm 11 1.4.2. Mục đích 11
1.4.3. Cách thức tổ chức HS hoạt động nhóm 11 1.4.4. Kết luận 17
1.5. Kỹ năng tổ chức HS thuyết trình 17 1.5.1. Khái niệm 17 1.5.2. Mục đích 18
1.5.3. Tổ chức cho HS thuyết trình 18 1.5.4. Kết luận 19
1.6. Kỹ năng tổ chức HS tự đánh giá và ĐGĐĐ 20 1.6.1. Khái niệm 20 1.6.2. Mục đích 20
1.6.3. Qui trình rèn luyện KNTĐG và ĐGĐĐ 21 lOMoAR cPSD| 58797173 1.6.4. Kết luận 22
1.7. Kỹ năng xử lý THSP trong dạy học 22 1.7.1. Khái niệm 22
1.7.2. Nguyên tắc xử lí THSP 23
1.7.3. Quy trình các bước xử lý THSP 23 1.7.4. Kết luận 25
Chương 2. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP ĐẶC TRƯNG TRÊN LỚP HỌC TRONG 26
DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC 26
2.1. Những đặc điểm của hoạt động dạy học ở trường THCS 26
2.2. Định hướng chung trong dạy học phát triển năng lực cho HS 26
2.3. Tổ chức các hoạt động dạy học 27
2.4. Tổ chức hoạt động khởi động, tạo hứng thú cho HS 28
2.4.1. Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động 28
2.4.2. Một số hình thức tổ chức hoạt động khởi động cụ thể 29
2.5. Hoạt động hình thành kiến thức 32
2.6. Hoạt động thực hành, luyện tập 32
2.7. Hoạt động vận dụng 33
2.8. Hoạt động tìm tòi, mở rộng 33
2.9. Đánh giá, phản hồi 33 2.9.1. Phản hồi của GV 33
2.9.2. Nhận xét của bạn bè 34
Chương 3. PHÂN TÍCH, ĐÁNH GIÁ BÀI HỌC MÔN TIẾNG ANH DỰA TRÊN QUY TRÌNH 35 NGHIÊN CỨU BÀI HỌC 35
3.1. Sự cần thiết và quy trình nghiên cứu bài học 35 3.1.1. Khái niệm 35
3.1.2. Sự cần thiết của NCBH 36 3.1.3. Quy trình NCBH 38
3.2. Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học 41
3.2.1. Quan niệm về SHCM theo hướng NCBH 41
3.2.2. Sự khác biệt của SHCM theo hướng NCBH và truyền thống 42
3.2.3. Các bước tổ chức SHCM theo hướng NCBH 43
3.2.4. Một số kỹ thuật SHCM theo NCBH 47 TÀI LIỆU THAM KHẢO 49 lOMoAR cPSD| 58797173
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Ký hiệu viết tắt Nghĩa đầy đủ ĐGĐĐ Đánh giá đồng đẳng GV Giáo viên HĐ Hoạt động HS Học sinh KN Kĩ năng KNTĐG Kĩ năng tự đánh giá KT Kiến thức NCBH Nghiên cứu bài học PPDH Phương pháp dạy học THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông lOMoAR cPSD| 58797173
Chương 1 RÈN LUYỆN CÁC KỸ NĂNG TỔ CHỨC DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH CHO HỌC SINH THCS/THPT
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội thì giáo dục phải không ngừng đổi mới.
Trong dạy học việc truyền thụ kiến thức giúp cho HS lĩnh hội được kiến thức một cách
linh hoạt, sáng tạo, GV cũng không ngừng tìm tòi, khám phá ra mọi kỹ năng nhằm giúp
cho việc dạy học đạt kết quả cao. GV không chỉ là chuyên gia về dạy học các môn học
mà còn là một nhà tâm lý giáo dục dìu dắt HS, một nhà đạo đức truyền luân lý, một nghệ
sĩ thích ứng với mọi đối tượng người học. Đặc biệt, GV còn là một nhà tổ chức và quản
lí HS trong các giờ học. Robert J. Marzano đã khẳng định: “GV là người đóng nhiều vai
trò khác nhau trong một lớp học, nhưng chắc chắn một trong những vai trò quan trọng
nhất đó là kỹ năng tổ chức, quản lý lớp học”
. Một GV thiếu các kĩ năng tổ chức dạy học
lớp học chắc chắn sẽ không thành công trong giờ dạy và mọi nỗ lực của GV đều không
đạt được mục tiêu dạy học. Bởi vậy, các kỹ năng tổ chức dạy học đặc biệt quan trọng
đối với mọi GV. Nó là nền tảng rất quan trọng để đảm bảo sự thành công cho mọi tiết
học, tạo môi trường thúc đẩy việc giảng dạy và học tập tốt.
1.1. Kỹ năng phân hóa HS
1.1.1. Khái niệm
Khi xem xét bản chất của kĩ năng, các nhà giáo dục như Nguyễn Quang Uẩn,
Trần Quốc Thành, Vũ Dũng, X.I. Ki xê gôp, N.D.levitôv… xem kĩ năng phân hoá HS
như là biểu hiện của năng lực cá nhân và là điều kiện cần thiết để có năng lực trong một
lĩnh vực nhất định (tức là một trong những thành tố cấu trúc nên năng lực). Vũ Dũng
cho rằng, kĩ năng phân hoá HS là năng lực vận dụng có kết quả tri thức về phương thức
hành động, được chủ thể lĩnh hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng. Kỹ năng phân
hóa HS là dạy học tập trung vào việc thiết kế giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế
của HS, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lý, sinh lý, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện
vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các em mà tìm cách dạy cho phù hợp, giúp cho mọi HS
đều có cơ hội phát triển toàn diện năng lực tiềm tàng của bản thân.
1.1.2. Mục đích
Đặc thù của dạy học phân hóa là dạy sao cho vừa sức với đối tượng: HS ở mức
độ khá, giỏi thì dạy sao cho các em hứng thú, đam mê với việc học; Đối với HS trung
bình thì tạo động lực để các em vươn lên; Với HS yếu, kém thì phải bù đắp được lỗ hổng
về kiến thức để lĩnh hội được kiến thức cơ bản. Như vậy, dạy học phân hóa xuyên suốt
và chi phối mọi phương pháp dạy học. Chẳng hạn khi GV thực hiện phương pháp đọc lOMoAR cPSD| 58797173
sáng tạo ở trên lớp thì phải phân hóa cho được các đối tượng HS để áp dụng từng biện
pháp đọc - hiểu văn bản ở những mức độ khác nhau.
Các yếu tố về dạy học phân hóa bao gồm: -
Phân hóa về nội dung: Trong cùng một nội dung kiến thức bài học có em
đã biết, đã biết ở mức độ, hoàn toàn chưa biết... có em chỉ có khả năng phát hiện vấn đề,
mỗi em hiểu và vận dụng kiến thức ở các mức độ khác nhau. GV cần lựa chọn dạy cái
gì để đạt hiệu quả cho từng em; -
Phân hóa quy trình: GV cần tìm một quy trình thỏa mãn cho nhiều đối
tượng, làm sao để những HS trung bình, yếu, không cảm thấy chán nản với một nội dung
quá khó, HS khá giỏi không cảm thấy buồn tẻ chán nản trước một nội dung quá dễ. -
Phân hóa sản phẩm: Sản phẩm là kết quả cuối cùng của bài học. Mức độ
hiểu biết, mức độ hoàn thiện, mức độ thể hiện, của mỗi HS rất đa dạng vậy cần phải có
phương pháp đánh giá phù hợp. -
Phân hóa trong công cụ đánh giá: Do sản phẩm có sự phân hóa nên công cụ
đánh giá không được rập khuôn, máy móc mà phải hết sức linh hoạt.
1.1.3. Cách thức tổ chức dạy học phân hoá
Với đặc thù của dạy học phân hóa là dạy học sao cho vừa sức với đối tượng thì
dạy học phân hóa ra được xem là con đường ngắn nhất để đạt được mục đích của dạy
học đồng loạt. Mặc dù hiểu được đặc thù của dạy học phân hóa như đã nói trên nhưng
trong thực tế mức độ thành công về dạy học phân hóa không cao. Phần đông các GV
vẫn lên lớp trong khoảng thời gian từ 45 phút đến 50 phút/ tiết học, thực hiện đủ các
bước lên lớp theo quy định cho tới khi trống báo hiệu hết giờ là bước ra khỏi lớp. Còn ít
GV băn khoăn về việc tiết dạy của mình đã giúp HS cả lớp hiểu bài hay chưa, chứ chưa
kể việc HS có vận dụng được những gì đã tiếp thu và cuộc sống hay không. Hạn chế này
xuất phát từ một số nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan. Chủ
quan do GV chưa thực sự tận tâm hay thiếu năng lực trong phát hiện, phân hóa đối tượng
cũng như linh hoạt vận dụng phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng. Khách
quan do tổ chuyên môn, ban giám hiệu nhà trường chỉ đạo chuyên môn chỉ chú trọng bề
nổi mà thiếu chiều sâu không đánh giá được xác đúng chỉnh độ của GV.
Để dạy học phân hóa đạt kết quả GV chỉ thâm nhập bài giảng kỹ, nhiệt tình giảng
giải, chỉ bảo cho từng em thôi không đủ mà còn biết chọn con đường tốt nhất để trong
một tiết lên lớp có thể tiếp cận và giúp mọi đối tượng HS trong lớp cảm thấy thoải mái,
tự tin. Sự linh hoạt trong vận dụng các phương pháp dạy học cho phù hợp đối tượng là
khâu quan trọng để dạy học phân hóa đạt hiệu quả cao. Với HS mức độ học tập từ trung lOMoAR cPSD| 58797173
bình trở xuống, không nên đặt ra những câu hỏi khó vượt xa khả năng của các em. Ngược
lại với HS khá, giỏi, những câu hỏi quá đơn giản, những yêu cầu mà HS nào cũng có thể
làm được sẽ làm cho bài học trở nên nhàm chán.
1.1.4. Kết luận
Rèn luyện kỹ năng dạy học phân hoá cho HS THCS giúp HS phát huy được tối
đa tiềm năng của HS và phát triển năng lực cho HS. Để phát huy tối đa hiệu quả GV cần
thiét kế các hoạt động học tập phù hợp với mỗi nhóm HS nhằm giúp HS phát huy tối đa
tiềm năng học tập của bản thân.
1.2. Kỹ năng bao quát lớp học
1.2.1. Khái niệm

Bao quát lớp học là 1 kỹ thuật quản lý lớp tạm định nghĩa là lắng nghe HS để
theo dõi mức độ chính xác và lưu loát của các em, hoặc là để kiểm tra lại xem các hoạt
có đúng như kế hoạch và xem HS có làm đúng nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, việc bao
quát lớp học thường được GV thưc hiện 1 cách lơ là và đôi khi không hề thực hiện, trong
khi đó bao quát lớp có hiệu quả là 1 kỹ năng cần được phát triển ở các hoạt động mang
lại lợi ích cho HS, đặc biệt là các loại hình hoạt động cung cấp thông tin và tương tác trong nhóm.
Trong dạy học GV cần luôn luôn bao quát lớp, đặc biệt là khi HS thực hiện các
hoạt động nói, hoặc thực hành, là lúc mà GV quan tâm đến việc đánh giá tổng quát việc
thực hiện hoạt động của HS trong mối tương quan đến sự tiến bộ chung hoặc là sự tiến
bộ về ngôn ngữ và các kỹ năng của các em gần đây. Quan sát và lắng nghe từng HS
trong khi các em thực hiện các bài tập thực hành, là lúc mà mục đích là chỉ ra cho các
em các lỗi sai và khuyến khích các em tự sửa lỗi. Việc quan sát và lắng nghe các hoạt
động thực hành theo hướng dẫn, đặc biệt là các hoạt động theo cặp, trong khi đó thì việc
quan sát và lắng nghe các hoạt động tự do hơn được thực hiện theo nhóm lại hướng vào
mục đích là kết quả của hoạt động và mức độ thành thạo của HS. Có thể bao quát lớp
chung chung hoặc vì nhiều mục đích, tập trung vào 1 hoặc nhiều mục tiêu của tiết học, bài học.
1.2.2. Mục đích
Không phải tất cả HS đều có cùng tiến độ học tập. Bao quát lớp giúp đánh giá sự
tiến bộ của từng HS, và thường cho thấy chỗ nào cần dạy lại hoặc cần thực hành thêm.
Mục đích cụ thể của việc bao quát lớp tùy thuộc vào giai đoạn của bài học và tùy vào hoạt động, bao gồm: lOMoAR cPSD| 58797173 -
Biết rõ HS cả lớp. GV cần nắm vững tiến độ của lớp, tốc độ dạy có quá
nhanh hay quá chậm, và HS nào cần được quan tâm riêng. Thường hay có khuynh hướng
dạy theo thiết kế bài giảng và tài liệu 1 cách cứng nhắc mà không kể gì đế HS. -
Lắng nghe các lỗi sai thuộc điểm ngữ liệu của bài học, đặc biệt là ở các hoạt
động thực hành theo hướng dẫn. Việc sửa lỗi khi HS thực hiện các hoạt động này là cần
thiết, bởi vì đây thường là các hoạt động đặt trọng tâm vào việc HS sử dụng đúng điểm
ngữ liệu của bài học. -
Lắng nghe để đảm bảo là HS đang thực hiện đúng nhiệm vụ. Qua đó có thể
cần hướng dẫn lại, hoặc làm mẫu hoạt động, hoặc cung cấp thêm gợi ý cho HS. -
Tận dụng cơ hội để dạy cá nhân HS hoặc các cặp HS nào chưa hiểu rõ điểm
ngữ liệu của bài học. -
Đánh giá từng HS và cả lớp. Bao quát lớp giúp giải quyết các khó khăn
cũng như thúc đẩy sự tiến bộ của cá nhân HS và của các nhóm. Trên phương diện này,
bao quát lớp là 1 loại hình phân tích nhu cầu thường xuyên và liên tục. Tất cả HS cần
được quan tâm, dù chỉ là 1 vài lời động viên khuyến khích. -
Thêm dữ liệu. Đặc biệt là ở các hoạt động đặt trọng tâm vào mức độ lưu
loát, có khả năng HS không thể có được nhiều ý để tiếp tục thực hiện hoạt động . Nhiệm
vụ của GV ở đây là cung cấp thêm ngữ liệu và ý tưởng khi nào thích hợp để duy trì hoạt động. -
Đánh giá sự tiến bộ về khả năng lưu loát của HS. Để thực hiện được việc
này cần quan sát và lắng nghe từ xa, và nhiệm vụ của GV là ghi chép các lỗi sai thông
thường để rồi sẽ đề cập đến trong giai đoạn sửa lỗi sau đó, và cũng để lưu ý HS về cách
dùng của điểm ngữ liệu bài học trong 1 ngữ cảnh rộng hơn. -
Đánh giá hoạt động. Một vài hoạt động sẽ phát huy tác dụng ở 1 lớp này tốt
hơn là ở 1 lớp khác, trong khi đó có những hoạt động khác mới được thử nghiệm lần
đầu. Bao quát lớp tạo cơ hội cho GV đánh giá sự thành công của 1 hoạt động và nhận
được phản hồi từ HS. -
Lập kế hoạch. Bao quát lớp giúp GV quyết định xem cái gì cần làm kế tiếp,
có cần sửa đổi giáo án ban đầu hay không, thiết kế bài giảng sắp đến và phản hồi cho
HS về những gì các em đã thực hiện. -
Duy trì kỹ luật. Các nhóm đông HS có thể sẽ không ngồi yên và cảm thấy
chán nếu có HS làm xong phần việc của mình trước những người khác. GV cần chuẩn
bị 1 vài hoạt động dự phòng ngắn dành cho các HS này, hoặc có thể sử dụng các HS
nhanh nhẹn để hổ trợ các nhóm chậm hơn. lOMoAR cPSD| 58797173
1.2.3. Cách thức bao quát lớp học
Bao quát lớp là 1 kỹ năng mà khi đạt được hy vọng rằng sẽ trở thành 1 thói quen
tốt. Những GV ít kinh nghiệm có thể có cảm giác là mình cần phải quan sát một cách
chặt chẽ và lúc nào cũng phải kiểm soát các hoạt động, trong khi đó những GV khác lại
có cảm giác rằng mình phải luôn tham gia vào các hoạt động và bao quát lớp là một giải
pháp. Cả hai trường hợp đều có nguy cơ bao quát lớp nhiều hơn mức cần thiết, hoặc can
thiệp sâu, và tạo nên sự căng thằng thay vì là không khí thoải mái trong giai đoạn HS
thực hành hoạt động tự do mà ở đó HS là trung tâm.
Việc bao quát kỹ cần được thực hiện một cách khéo léo, trong đó cần lưu ý yếu
tố cá nhân và yếu tố văn hóa. Có những HS cảm thấy bực bội khi có người đứng gần,
những HS khác thì cảm thấy khó chịu khi thấy GV cứ lom khom trước mặt. Việc đứng
ngay trước mặt HS để quan sát và lắng nghe làm HS phân tâm và đôi khi là một sự cản
trở, có khuynh hướng làm gián đọan hoạt động và chuyển trọng tâm hoạt động sang GV.
Đến lúc này HS sẽ mong chờ GV cung cấp thêm, hoặc cho nhận xét, hoặc sửa lỗi cho
các em. Quan sát kín đáo để HS không nhận thấy là hiệu quả nhất, và tốt nhất là thực
hiện từ phía sau HS. Một số ví dụ gợi ý: Kéo ghế ra xa tường; Cần đảm bảo là có một
lối dễ đi quanh phòng học; Xếp chỗ sao cho tất cả HS đều có thể nhìn thấy vị trí của GV;
Quan sát và lắng nghe các cặp hoặc nhóm một cách ngẫu nhiên không chủ định; Không
bỏ quá nhiều thời gian với một cá nhân HS, một cặp hoặc một nhóm, mà cần đảm bảo
rằng tất cả HS đều được quan sát và lắng nghe; Ngồi cùng các cặp hoặc nhóm hơn là
đứng hoặc cúi mình xuống và ghế quay là một phương tiện lý tưởng để di chuyển từ nhóm này sang nhóm khác.
Khi bao quát lớp từ xa ở một vị trí không cố định trong lớp học sẽ giúp GV có
thể lắng nghe được hội thoại từ nhiều cặp khác nhau. Nếu lớp có đông HS, có thể GV
cần đi quanh phòng để quan sát và lắng nghe. Lưu ý là không ngồi cùng một nhóm trong
suốt một hoạt động, điều đó cho thấy rằng GV chỉ lắng nghe có mỗi nhóm này. Thông
thường, vị trí quan sát tốt nhất là phía sau HS, và các em không để ý, để có thể tập trung
vào hoạt động và các bạn trong nhóm hơn là tập trung vào GV
HS có thể thắc mắc muốn hỏi trong khi thực hiện các hoạt động thực hành tự do.
Câu trả lời của GV sẽ tùy thuộc vào hoạt động, nhưng việc hướng dẫn HS ghi ra các câu
muốn hỏi ở cuối hoạt động là một cách rèn luyện rất ích lợi cho HS.
Có thể cho HS tự quan sát và lắng nghe cũng như quan sát và lắng nghe bạn. Để
HS tự quan sát và lắng nghe cần phải tập cho các em khả năng tự sửa lỗi. Tất cả HS đều
có thể tham gia quan sát và lắng nghe lẫn nhau, nhưng một cách làm hiệu quả là cho HS lOMoAR cPSD| 58797173
hoạt động theo nhóm ba em thay vì là theo cặp, qua đó HS sẽ luân phiên nhau quan sát
và lắng nghe hai bạn còn lại trong nhóm.
1.2.4. Kết luận
Có thể áp dụng các cách bao quát lớp kể trên vào mọi tình huống dạy học, nhưng
trong một vài trường hợp, bao quát lớp cũng nhằm đạt mục đích thực hiện kỷ luật. Ở các
lớp HS không được tích cực và thuộc các trình độ khác nhau, việc tập trung quá nhiều
vào HS có khả năng làm cho hoạt động bị xao lãng, để rồi chỉ có những HS khá giỏi
thực hiện hoạt động. Đôi khi sự hiện diện của GV với vai trò giám sát là đủ rồi, nhưng
bao quát lớp kỹ sẽ đảm bảo việc HS thực hiện hoạt động tốt nhất và giúp cho GV có
được sự phản hồi với nhiều thông tin bổ ích.
1.3. Kỹ năng hướng dẫn HS tự học
1.3.1. Khái niệm

Tự học là động não, suy nghĩ, sử dụng năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân
tích…) và có khi cả cơ bắp (khi sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của chính bản
thân người học (tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say
mê khoa học) cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một
lĩnh vực nào đó, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”
Năng lực tự học được hiểu là một thuộc tính kỹ năng rất phức hợp. Nó bao gồm
kỹ năng và kĩ xảo cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho người học
có thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra” [Nguyễn Cảnh Toàn (2002),
Học và dạy cách học. Năng lực tự học bao gồm: CÁCH HỌC và KĨ NĂNG.
Hướng dẫn HS tự học là phương pháp dạy học phát triển năng lực là coi quá trình
tự học của HS là trung tâm hoạt động giáo dục, GV là người hướng dẫn, đồng hành với
HS, giúp HS tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức. Là hình thức dạy học đặt HS vào môi
trường học tập tích cực, trong đó HS được tổ chức thành nhóm một cách thích hợp. Học
hợp tác nhóm giúp các em rèn luyện và phát triển kĩ năng làm việc, kĩ năng giao tiếp,
tạo điều kiện cho HS học hỏi lẫn nhau, phát huy vai trò trách nhiệm, tính tích cực xã hội
trên cơ sở làm việc hợp tác. Thông qua hoạt động nhóm, các em có thể cùng làm việc
với nhau những công việc mà một mình không thể tự làm được trong một thời gian nhất định.
1.3.2. Mục đích
Tự học là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá trình biến
người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo dục). Tự học giúp nâng lOMoAR cPSD| 58797173
cao kết quả học tập của HS (HS) và chất lượng giáo dục của nhà trường, là biểu hiện cụ
thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông
Hướng dẫn HS tự học giúp người học hình thành một khối lượng kiến thức nhất
định để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể trong quá trình chuyển từ cái chưa biết sang
cái sẽ biết theo từng chặng, từng cấp độ của tư duy, nhận thức và kĩ năng. Góp phần
nâng cao chất lượng học tập, phát triển khả năng tư duy độc lập, sáng tạo cho người học.
Hướng dẫn HS tự học còn giúp hình thành những phẩm chất, nhân cách tốt đẹp và chuẩn
bị hành trang cho việc học tập suốt đời của con người.
1.3.3. Biện pháp hướng dẫn HS tự học
Tự học có 3 hình thức: Tự học hoàn toàn, tự học có hướng dẫn của GV và tự học
không có hướng dẫn của GV.
Tự học hoàn toàn: tự mình mò mẫm (người học không có điều kiện đi học, các
tri thức họ có được là do sự tìm tòi trải nghiệm của chính bản thân họ trong cuộc sống)
Tự học với sự hướng dẫn của GV: hoạt động tự học này gắn với quá trình dạy học (học
mà không giáp mặt GV, nhưng nhận được sự hướng dẫn của GV từ xa, tự học trên lớp
hoặc ở nhà). GV cần thực hiện nguyên tắc bảo đảm hình thành ở HS kĩ năng tự học từ
thấp lên cao, tự học từng phần cho đến tự học hoàn toàn. Và nguyên tắc bảo đảm cho
GV thu nhận thông tin phản hồi về kết quả học tập của HS sau quá trình tự học và giúp
đỡ điều chỉnh nhịp độ học tập của HS khi cần thiết.
Tự học không có hướng dẫn của GV: học mà không có GV, người học đã có một
trình độ học vấn nhất định (thường liên quan đến hoạt động học tập của những người đã
trưởng thành) hoặc đã có một thời gian dài học với GV.
Kỹ năng tự học là khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự
điều khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng các kinh nghiệm có liên quan đến hoạt
động đó. Có bao nhiêu loại hình học tập thì có bấy nhiêu loại hình kỹ năng chuyên biệt.
Các nhà nghiên cứu đã phân chia các kỹ năng tự học theo nhiều cách khác nhau. Theo
nhóm nghiên cứu ở Khoa Tâm lý - Giáo dục Trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, kỹ năng
tự học có thể được phân thành 4 nhóm, đó là nhóm kỹ năng định hướng, nhóm kỹ năng
thiết kế (lập kế hoạch), nhóm kỹ năng thực hiện kế hoạch và nhóm kỹ năng kiểm tra,
đánh giá, rút kinh nghiệm.
Tiếp thu quan điểm trên, chúng tôi phân chia hoạt động tự học bao gồm các nhóm
kỹ năng cơ bản sau: Kỹ năng định hướng; kỹ năng lập kế hoạch; kỹ năng thực hiện kế
hoạch; kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm.
- Kỹ năng định hướng lOMoAR cPSD| 58797173
Trước tiên, để quá trình tự học diễn ra thành công người học cần thiết lập cơ sở
định hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ thể có thể sử
dụng nó để thực hiện một hành động xác định nào đó. Nó có chức năng nhận thức đối
tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh hành động theo kế hoạch. Để có được cơ
sở định hướng, người học phải trả lời được các câu hỏi:
+ Học nhằm mục đích gì? Học vì yêu thích môn học, vì trách nhiệm với gia đình
và xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao…
+ Thái độ học tập ra sao? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời hợt qua loa.
+ Học như thế nào? Người học nên chọn phương pháp nào là phù hợp với bản thân.
- Kỹ năng lập kế hoạch học tập
Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu người học xác định được mục tiêu, nội dung và
phương pháp học. Muốn vậy, người học phải xây dựng được kế hoạch học tập. Trên cơ
sở bộ khung đã được thiết lập đó, người học có thể tiếp cận và chiếm lĩnh tri thức một
cách dễ dàng. Trong quá trình lập kế hoạch người học phải chú ý một số điểm sau:
+ Thứ nhất, người học phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó có thể là
kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho từng môn, từng phần. Kế hoạch phải
được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai đoạn cụ thể sao cho
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình.
+ Thứ hai, khi lập kế hoạch, người học phải chọn đúng trọng tâm, cần xác định
được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian công sức cho nó.
- Kỹ năng thực hiện kế hoạch
Muốn thực hiện thành công kế hoạch mình đã tạo lập, người học cần có một số kỹ năng sau:
+ Tiếp cận thông tin: lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng, xem
truyền hình, tra cứu từ Internet, làm thí nghiệm… Trong hoạt động này rất cần có sự tỉnh
táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt.
+ Xử lí thông tin: việc xử lí thông tin trong quá trình tự học không bao giờ diễn
ra trong vô thức mà cần có sự gia công, xử lí mới có thể sử dụng được. Quá trình này có
thể được tiến hành thông qua các kỹ năng ghi chép, phân tích, đánh giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh… lOMoAR cPSD| 58797173
+ Vận dụng tri thức, thông tin: thể hiện qua việc vận dụng thông tin tri thức khoa
học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử lí các tình
huống, viết bài thu hoạch…
+ Trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin tri
thức thông qua các hình thức: thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là công việc cuối
cùng của quá trình tiếp nhận tri thức.
- Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự đánh
giá được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được, cái gì mình
chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, HS cần:
+ Tự trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa bằng cách xác định yêu cầu của câu hỏi,
dự kiến câu trả lời, tái hiện các kiến thức liên quan, tập trình bày câu trả lời trước nhóm
hoặc trước lớp để tìm ra chỗ sai từ đó khắc phục.
+ Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè.
+ Làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm kiếm sau
đó tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm…
Như vậy, GV cần làm để phát triển kỹ năng tự học cho HS gồm những vấn đề sau:
Thứ nhất, muốn HS có ý thức tự học thì trước hết HS phải yêu thích môn học đó.
Vì vậy GV cần tạo cho HS niềm say mê môn học. GV có thể dùng tiết dạy để giới thiệu
về môn học, về những giá trị của môn học trong thực tiễn bằng những ví dụ minh họa
cụ thể nhằm kích thích động cơ học tập ở các em. Ví dụ ở môn tiếng Anh, GV có thể
làm được điều này thông qua cách đặt vấn đề bằng những câu chuyện hay đơn giản chỉ
là những câu hỏi thú vị như: “In which countries do people drive on the left?” (Ở những
quốc gia nào người dân lái xe bên tay trái?) Câu hỏi vừa đặt ra tưởng chừng rất đơn giản
nhưng để trả lời được câu hỏi này đòi hỏi HS cần phải kiến thức về văn hoá.
Thứ hai, GV cần hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ ban đầu.
Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, GV không cần phải dạy ngay mà cần giới thiệu
sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để HS
hiểu và từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp. GV phải làm cho HS
hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể
và HS hoàn toàn có thể phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời
gian được xây dựng chi tiết. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi chương, GV sẽ lOMoAR cPSD| 58797173
cung cấp nội dung và thời gian học và kiểm tra để HS nắm rõ. Đồng thời, GV có thể cho
HS đánh dấu vào trong sách bài nào học ngày nào, đến tiết nào sẽ kiểm tra. Muốn HS tự
xây dựng kế hoạch học tập thì GV phải là người cung cấp đầy đủ kế hoạch dạy và học của bộ môn.
Thứ ba, GV hướng dẫn cho HS cách tìm và đọc sách hoặc tài liệu liên quan đến
môn học. GV cần nhấn mạnh cho HS thấy rằng, kiến thức môn học không chỉ gói gọn
trong nội dung SGK, trong bài giảng của GV mà đến từ nhiều nguồn khác nhau. Do đó,
GV cần giới thiệu cho HS những cuốn sách hay, những tài liệu bổ ích liên quan đến môn
học và khuyến khích các em tự tìm kiếm, tự phân tích và tổng hợp kiến thức. GV cũng
có thể giới thiệu địa chỉ một số trang web chuyên ngành, hoặc các trang diễn đàn trao
đổi kinh nghiệm học tập để HS tham khảo thêm.
Thứ tư, GV nên dạy cho HS cách ghi chép và nghe giảng vì đây là những kỹ năng
học tập vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập của HS. Trình độ
nghe và ghi chép của người học ở mỗi môn học khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào
đặc thù của từng môn học và phương pháp giảng dạy của từng GV. HS thường mang lối
học thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí nhiều HS chỉ chờ
GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung bài học, nếu ngược lại thì bỏ trống vở. Điều
này khiến HS có tâm lí ức chế, ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận kiến thức. Để khắc
phục vấn đề này này, GV nên xây dựng bộ giáo trình mẫu, bên cạnh nội dung của bài
học có chừa khoảng trắng cho HS ghi chép những vấn đề mà GV mở rộng. Đối với các
vấn đề mà HS còn chưa rõ, có thể đánh dấu để hỏi lại
GV hoặc tìm hiểu thêm. GV phải rèn luyện cho HS cách ghi chép nhanh bằng các hình
thức gạch chân, tóm lược bằng sơ đồ hình vẽ những ý chính. Đối với các vấn đề quan
trọng, GV cần nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần để HS tiếp thu dễ dàng hơn.
Thứ năm, GV hướng dẫn cách học bài. GV nên giới thiệu và hướng dẫn cho HS
tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Benjamin S.Bloom. Theo cách phân
chia trong thang nhận thức của Bloom, HS có thể học cách phân tích, tổng hợp, vận
dụng tri thức vào từng tình huống thực tiễn, học cách nhận xét, đánh giá, so sánh đối
chiếu các kiến thức khác… Cách tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom
sẽ giúp cho HS có thể học được cách rèn luyện được năng lực tư duy logic, tư duy trừu
tượng và phát triển tư duy sáng tạo trong việc tìm ra những hướng tiếp cận mới đối với các vấn đề khoa học.
Thứ sáu, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS ở tiết học tiếp theo. Để phát huy
tối đa năng lực tự học và thúc đẩy HS tận dụng hết thời gian tự học, GV cần giao nhiệm lOMoAR cPSD| 58797173
vụ cụ thể cho HS. Có như thế, các em mới định hướng được cụ thể các nhiệm vụ mình
cần làm tiếp theo. Sau khi đã tiếp nhận được kiến thức cũ, các em có thể tìm hiểu kiến
thức mới. Khi có sự chuẩn bị trước ở nhà, việc học trên lớp sẽ trở nên có hiệu quả hơn rất nhiều.
1.3.4. Kết luận
Vấn đề tự học ở HS là một vấn đề không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập
đạt kết quả cao, đòi hỏi HS phải tự giác, không ngừng tìm tòi học hỏi. Ngoài ra, sự định
hướng của người thầy đóng vai trò quyết định thúc đẩy sự thành công trong việc chiếm
lĩnh tri thức của người học.
1.4. Kỹ năng tổ chức HS hoạt động nhóm
1.4.1. Khái niệm
Dạy học theo nhóm là một phương pháp dạy học trong đó GV tổ chức cho HS
hình thành các nhóm học tập nhỏ. Mỗi thành viên trong nhóm học tập này vừa có trách
nhiệm tự học tập, vừa có trách nhiệm giúp đỡ các thành viên trong nhóm để cùng hoàn
thành mục đích học tập chung của cả nhóm. Đây phương pháp dạy học khá ưu việt được
áp dụng trong đổi mới phương pháp dạy học: phát huy tính tích cực của người học, dạy
học hướng về người học.
Giảng dạy dựa trên phương pháp làm việc theo nhóm là một phương pháp sư
phạm mà theo đó, lớp được chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm được phân công giải
quyết một công việc cụ thể; kết quả của từng nhóm sẽ được trình bày để thảo luận chung
trước khi GV đi đến kết luận cuối cùng.
1.4.2. Mục đích
Tổ chức HS hoạt động nhóm là phương pháp dạy học phát triển năng lực giúp
HS chủ động hơn, tích cực hơn trong học tập và phát huy tốt khả năng sáng tạo của bản
thân. Nhằm góp phần vào tiến trình đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương
pháp hoạt động theo nhóm nói riêng, từng bước nâng dần chất lượng giáo dục của nhà
trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.4.3. Cách thức tổ chức HS hoạt động nhóm
Tùy thuộc vào mục đích sư phạm và yêu cầu của vấn đề học tập mà ta có nhiều
cách chia nhóm. Khi thành lập nhóm cần lưu ý khả năng làm việc của các thành viên,
trình độ học lực của các cá nhân trong nhóm và mối quan hệ giữa các thành viên.
Tùy vào tình hình mà GV có thể hoặc không cần chọn nhóm trưởng. Nhóm
trưởng phải là người có kết quả học tập tốt, có ý thức giúp đỡ các thành viên trong nhóm. lOMoAR cPSD| 58797173
Cần rèn luyện cho HS kỹ năng hợp tác nhóm bao gồm: kỹ năng hiểu được nhu
cầu của người khác, kỹ năng biểu đạt một quan điểm, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng thảo
luận, kỹ năng bảo vệ quan điểm, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn … Để tổ
chức HS hoạt động nhóm hiệu quả cần:

1.4.3.1. Hình thành động cơ hoạt động nhóm
Với sự tiến bộ phi thường của công nghệ thông tin và truyền thông, khối lượng
thông tin và tri thức đang tăng theo hàm mũ, đòi hỏi con người phải có khả năng thích
ứng nhanh chóng và liên tục, chẳng những về tri thức mà còn kỹ năng với một tốc độ
cực kỳ cao. Do đó, nếu trước đây việc tích lũy kiến thức nhớ là số 1, thì giờ đây khi các
phương tiện lưu trữ đã đầy đủ và sẳn sàng cho việc truy cập và xử lý thông tin, thì ưu
tiên số 1 lại là khả năng tiếp cận tri thức mới, vận dụng tri thức mới và khả năng “sinh”
ra tri thức mới. Nhưng tri thức là vô cùng vô tận, một người không thể tự nắm bắt được
tất cả, vì vậy đòi hỏi là quá trình giao lưu, trao đổi kiến thức với nhau. Việc làm nhóm
sẽ giúp ích cho HS rất nhiều trong việc này.
Do hạn chế của nền giáo dục phổ thông ở nước ta, nhiều HS (HS) mới vào trường
tỏ ra khá rụt rè, thụ động, thờ ơ với sinh hoạt nhóm, sinh hoạt tập thể. Do vậy, ngay từ
tiết học đầu tiên của học phần, GV (GV) cần động viên, khuyến khích HS tự tin, mạnh
dạn thể hiện mình. Bên cạnh đó, để HS thực sự tự giác, tích cực tham gia hoạt động
nhóm (HĐN), cần hình thành cho HS nhận thức đúng đắn rằng mục tiêu của HĐN không
phải chỉ để nâng cao điểm số mà là giúp HS nắm vững kiến thức môn học, khả năng ghi
nhớ lâu hơn, hiệu quả làm việc tốt hơn, phát triển năng lực cá nhân, rèn luyện kỹ năng
thuyết trình trước đám đông, kỹ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tổ chức, quản
lí, kĩ năng giải quyết vấn đề, có trách nhiệm cao, tinh thần đồng đội, khuyến khích tinh
thần học hỏi lẫn nhau, nhờ đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu hiện nay của xã hội về nguồn
nhân lực. 1.4.3.2. Tổ chức, quản lý hoạt động nhóm
Ngay từ tiết học đầu tiên của học phần, GV (GV) cần thông báo cho HS kế hoạch,
phương thức tổ chức và đánh giá HĐN. a) Chia nhóm
Việc phân nhóm cần thực hiện sao cho GV có thể theo dõi, đánh giá HĐN
nhưng đồng thời cũng đảm bảo phát huy tính tích cực của mỗi HS. Về lý thuyết, một
nhóm lý tưởng nhất gồm 4 - 6 thành viên. Trong thực tế, tùy theo quỹ thời gian môn học
và quy mô lớp học, GV có thể thay đổi linh hoạt. Những tiết học đầu tiên, sự phân nhóm
có thể mang tính ngẫu nhiên. Tuy nhiên, sau đó GV cần điều chỉnh sao cho có sự cân lOMoAR cPSD| 58797173
bằng trình độ, năng lực học tập giữa HS các nhóm với nhau, nhằm thúc đẩy mối quan
hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập giữa các thành viên trong nhóm.
- Cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hợp lý
Một nhóm muốn hoạt động hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Cơ cấu của nhóm gồm:
- Một nhóm trưởng có trách nhiệm tổ chức, điều hành mọi hoạt động của
nhóm, nhóm trưởng có thể do các thành viên trong nhóm bầu lên hoặc do GV chỉ định.
- Một nhóm phó (nếu quy mô nhóm lớn) để thay thế, hỗ trợ nhóm trưởng
khi nhóm trưởng vắng mặt;
- Một thư ký để ghi chép nội dung, diễn biến các cuộc họp, thảo luận của
nhóm, thư ký có thể được thay đổi theo từng cuộc họp nhóm hoặc cố định từ đầu đến
cuối. Nhóm phải quy định rõ trách nhiệm cụ thể của từng vị trí trong nhóm, xây dựng
mối quan hệ gắn kết giữa các thành viên trong nhóm.
Người trưởng nhóm có năng lực, nhiệt tình và có uy tín
Trong hoạt động của một nhóm, người trưởng nhóm đóng vai trò vô cùng
quan trọng, là người chịu trách nhiệm trước thầy cô, tập thể lớp về hoạt động của nhóm,
là người điều hành và tổ chức công việc của nhóm, đảm bảo cho nhóm đi đúng hướng,
là người động viên thôi thúc mọi người và tháo gỡ khó khăn khi cần thiết ... Chính vì
vậy, người trưởng nhóm sẽ góp phần quyết định thành công của một nhóm học tập. Nếu
một nhóm có người trưởng nhóm có năng lực về học tập và quản lý (kỹ năng điều hành
nhóm), có lòng nhiệt tình và được các thành viên tin tưởng, yêu mến thì chắc chắn nhóm
đó sẽ hoạt động có chất lượng.
b) Lựa chọn chủ đề cho HS thảo luận
Việc lựa chọn chủ đề rất quan trọng. Chủ đề quá khó hoặc quá dễ đối với HS
đều ảnh hưởng đến hoạt động thảo luận của HS. Lựa chọn vấn đề thảo luận phải hấp
dẫn, có tính chất kích thích tính tích cực chủ động làm việc của HS. Chủ đề thảo luận
phải là vấn đề chính của bài học, vấn đề có thể có nhiều hướng khai thác khác nhau,
nhiều cấp độ nhận thức khác nhau. Thường là loại cấp độ phát hiện và suy luận. Tùy vào
từng môn học có thể lựa chọn những chủ đề gắn liền với những sự kiện có thật ở Việt
Nam và trên thế giới, hoặc những chủ đề cho HS đi thực tế để làm thảo luận nhóm.
Chủ đề thảo luận nhóm có thể là những chủ đề để cho các nhóm về nhà chuẩn
bị, hoặc cũng có thể là những chủ đề mà các em thảo luận ngay tại chổ, trong đó cần chú ý: lOMoAR cPSD| 58797173
+ Phải đặt ra nhiệm vụ cụ thể của từng nhóm bằng câu hỏi. Câu hỏi phải rõ
ràng, không mập mờ, đánh đố.
+ Phải có hướng dẫn cụ thể về yêu cầu và định hướng cách thức làm việc.
+ Thời gian thảo luận phải tương ứng với nội dung yêu cầu của vấn đề thảo luận
c) Bố trí thời gian
Hoạt động nhóm cần diễn ra thường xuyên và xen kẽ với hoạt động thuyết
giảng của GV (chẳng hạn, cuối một tiết giảng, sau khi kết thúc một chủ đề hay trước khi
chuyển sang một chủ đề mới). Điều này, sẽ giúp HS đỡ nhàm chán và GV kịp thời nắm
bắt mức độ tiếp thu của HS, từ đó định hướng điều chỉnh, bổ sung kiến thức, tài liệu tham khảo cho HS.
Với những chủ đề HS về nhà chuẩn bị thì phải xác định thời gian cụ thể là khi
nào sẽ thuyết trình, thời gian tối đa và tối thiểu dành cho mỗi chủ đề là bao nhiêu để HS có thể chủ động.
Với những chủ đề mà đòi hỏi sự vận dụng kiến thức của cả môn học thì GV
có thể cho HS trình bày vào những tiết cuối khi kết thúc môn học.
d) Tổ chức thảo luận nhóm
Thường có hai phương án để GV cho HS trình bày bài nhóm: thứ nhất, là gọi
ngẫu nhiên bất kỳ người nào trong nhóm lên thuyết trình; thứ hai, là cho HS chọn người để thuyết trình.
Để đảm bảo tất cả mọi thành viên trong nhóm đều phải làm việc, tránh tình
trạng ỷ lại vào người khác thì ngay từ ngày đầu tiên, khi phân công làm nhóm chúng ta
thông báo trước lớp là có thể chúng ta sẽ chọn 1 trong 2 phương án.
Nếu chúng ta lựa chọn phương án thứ hai thì chúng ta có thể gọi ngẫu nhiên
bất kỳ thành viên nào trong nhóm lên nói tóm tắt những nội dung mà nhóm đã làm. Sau
đó mới cho nhóm thuyết trình. Việc làm này sẽ giúp tránh được tình trạng công việc chỉ
tập trung trong một số HS và không phát huy được tác dụng của việc làm nhóm.
Nếu nhóm nào có người không chuẩn bị bài mà nhóm trưởng không chịu báo
thì cả nhóm sẽ bị trừ điểm. Hãy tạo không khí lớp học sôi nổi bằng cách cho các thành
viên trong lớp được thảo luận về vấn đề mà HS trình bày. GV chỉ đóng một vai trò như
là cầu nối để các sinh viện làm việc với nhau.
Khi một nhóm thuyết trình, các nhóm còn lại chú ý theo dõi và sau đó sẽ tiến hành
nhận xét, đặt ra những câu hỏi. Những nhóm có câu hỏi hay và nhận xét chính xác thì
cũng sẽ được cộng điểm. Nhưng để đảm bảo cho mọi thành viên trong lớp đều chú ý lOMoAR cPSD| 58797173
lắng nghe, GV có thể chỉ bất kỳ thành viên của các nhóm còn lại sẽ nhận xét và đưa ra câu hỏi.
Thường thì HS sẽ đặt ra rất nhiều câu hỏi. Tránh tình trạng thời gian trả lời
câu hỏi quá dài. GV có thể chọn ra những câu hỏi hay để nhóm thuyết trình trả lời. HS
nhóm trả lời câu hỏi cũng do GV chỉ ngẫu nhiên. Những câu hỏi còn lại có thể cho HS
về nhà trả lời và gửi lại cho cả lớp và GV.
Ngoài những vấn đề đã được chuẩn bị trước, GV có thể đặt ra những câu hỏi
bất ngờ. Những câu hỏi gợi sức sáng tạo từ phía HS. Trong quá trình HS thảo luận, GV
đi tới từng nhóm, lắng nghe, gợi mở và thăm dò xem nhóm nào làm việc hiệu quả hơn
thì có thể mời nhóm đó trình bày trước lớp, còn các nhóm khác lắng nghe rồi nhận xét.
Khi có được cả kỹ năng tự học và kỹ năng làm việc nhóm, các HS sẽ có thói quen chủ
động và cầu tiến trong việc học.
e) Đánh giá hoạt động nhóm
Tổng kết đánh giá là khâu cuối cùng của hoạt động thảo luận. Sự đánh giá và
kết luận của GV cũng tác động không nhỏ đến chất lượng làm việc nhóm. Sau khi các
nhóm làm việc cho ra các sản phẩm, nếu GV đánh giá chi tiết mặt tốt, chưa tốt của sản
phẩm, so sánh các sản phẩm của các nhóm với nhau để HS nhận ra được những ưu,
khuyết của mình, sau đó GV nêu lên kết luận (đưa ra chân lý khoa học) thì HS sẽ hiểu
sâu sắc và nắm vững vấn đề; đồng thời HS sẽ quyết tâm hơn trong lần làm bài tiếp theo.
Ngược lại, nếu GV không đánh giá sản phẩm và sự làm việc của HS sẽ khiến HS mất đi
hứng thú và động lực làm việc và như vậy hoạt động nhóm sẽ không thể có hiệu quả.
- HS tự đánh giá kết quả làm việc của nhóm:
Có một thực tế hiện nay là mặc dù GV đã chia nhóm, phân công nhiệm vụ
cho nhóm. Nhưng nhiều HS với thói quen ỷ lại vào các HS khác đã không tham gia làm
nhóm ở nhà. Chỉ chờ các HS khác làm rồi ngồi hưởng lợi.
Đặc biệt với việc đào tạo theo học chế tín chỉ như hiện nay, tỷ lệ điểm kiểm tra chiếm tới 50%.
Nhưng GV chỉ có thể biết được sự đóng góp của các HS trong nhóm tại lớp.
Còn những thảo luận tại nhà thì sẽ không nắm được. Vì vậy sẽ phân công nhiệm vụ của
nhóm là tự cho điểm các thành viên trong nhóm về những đóng góp của mỗi thành viên
để hoàn thành bài nhóm tại nhà. Và cả những đóng góp của từng thành viên trong nhóm tại lớp.
- Các nhóm đánh giá kết quả làm việc của nhau: lOMoAR cPSD| 58797173
Hãy để các nhóm tự cho điểm lẫn nhau, đây là một kênh để đảm bảo cho HS
phát huy khả năng tổng kết đánh giá. Và đồng thời cũng giúp cho GV có thể đưa ra kết
quả cuối cùng phù hợp nhất.
- GV đánh giá, nhận xét kết quả làm việc của các nhóm:
Công việc này có thể tiến hành song song hoặc sau khi đã có sự đánh giá giữa
các nhóm với nhau. Đánh giá khả làm việc của nhóm: Các nhóm làm việc có khoa học
hay không. Những ai tích cực, những ai lười biếng hay làm chuyện riêng, cần rút kinh
nghiệm gì,… GV nên nhận xét cụ thể, khách quan và tốt nhất nên cho điểm để khích lệ
tinh thần học tập của HS.
Để tránh tình trạng ỷ lại, chây lười của một số HS trong HĐN, cần đánh giá
kết quả HĐN không chỉ dựa trên thành tích chung của cả nhóm mà còn dựa trên sự đóng
góp của từng thành viên trong nhóm. Điểm trung bình của cả nhóm dựa trên chất lượng
HĐN (mức độ am hiểu vấn đề, kỹ năng diễn đạt/trình bày, trả lời câu hỏi, tinh thần hợp
tác giữa các thành viên trong nhóm). Điểm của từng HS được tính trên cơ sở điểm trung
bình của nhóm có tính đến mức độ đóng góp của từng cá nhân đóng góp vào HĐN.
f) Vai trò của người GV
Hãy tạo nên một không khí lớp học thật sôi nổi và thoải mái bằng cách tăng
cường sự đối thoại giữa GV và HS. Người GV bên cạnh việc cung cấp những kiến thức
từ sách vở, cần cung cấp cho sinh nhiều kiến thức thực tế. Trong các giờ học cần tiến
hành lồng ghép những kiến thức thực tế thu thập được từ internet, tivi, sách báo cho HS.
Việc cung cấp những kiến thức như vậy sẽ giúp cho các em cảm thấy hứng thú hơn trong giờ học.
Trong việc làm nhóm của HS, GV vẫn phải có một nhiệm vụ quan trọng là
tổng kết lại các vấn đề đã thảo luận, đánh giá những ý kiến đúng sai và giải quyết mọi
thắc mắc của HS xung quanh vấn đề đó. Việc tổng kết này rất quan trọng vì sẽ giúp cho
HS nắm được những kiến thức cơ bản cần thiết.
Bên cạnh đó, để HS có thể làm tốt được vai trò của mình thì GV cần phải cung
cấp đầy đủ các tài liệu tham khảo cho HS, để các em có thể tự học tập và nghiên cứu.
Một yêu cầu nữa là GV phải am hiểu sâu sắc nội dung dạy học, làm chủ kiến
thức, biết chế biến nó theo ý đồ sư phạm và biết cách truyền tải nó đến với HS. GV phải
có khả năng giảng dạy, lòng nhiệt thành. Phải biết không ngừng cập nhật thông tin mới
và biết vận dụng nó vào công tác giảng dạy của mình. Có như vậy, GV mới có thể giúp
HS tích cực, chủ động, phát huy khả năng sáng tạo trong quá trình học tập. GV có nhiều
kiến thức, có nhiều cách tổ chức và trình bày ngắn gọn, sáng tỏ cùng với sự nhiệt tình