Sản xuất vật chất luôn giữ vai trò quy định sự tồn tại môn Kinh tế chính trị

Sản xuất vật chất luôn giữ vai trò quy định sự tồn tại môn Kinh tế chính trị với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần. Mời bạn đọc đón xem!

Sản xuất vật chất luôn giữ vai trò quy định sự tồn tại, phát triển của con người và
xã hội loài người; là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan
hệ xã hội; là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người,
Xã hội loài người tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ sản xuất vật chất. Lịch
sử xã hội loài người, do vậy và trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.
Sản xuất vật chất là cơ sở để hình thành nên các mối quan hệxã hội khác. Xã hội
loài người là một tổ chức vật chất và giữa các yếu tố cấu thành nó cũng có những
kiểu quan hệ nhất định. Các quan hệ xã hội về nhà nước, chính trị, pháp quyền, đạo
đức, nghệ thuật, khoa học v.v (cái thứ hai) đều được hình thành và phát triển trên
cơ sở sản xuất vật chất (cái thứ nhất) nhất định. Trong quá trình đó, con người
đồng thời cũng sản xuất ra và tái sản xuất ra những quan hệ xã hội của mình.
Con người là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan
trọng nhất của con người là lao động sản xuất. Nếu con vật phải sống dựa hoàn
toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng
lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn
nhu cầu của mình. Lao động là hoạt động thiết yếu của con người. Lao động không
chỉ phân biệt con người với động vật, nâng con người lên với giới tự nhiên mà còn
gắn chặt con người, xã hội loài người với giới tự nhiên. Lao động là hoạt động
thiết yếu của con người, giúp con người có được bản chất của mình, lao động góp
phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con người trở thành con
người đúng với nghĩa của nó.
Ph.Ăngghen cũng đã khẳng định rằng: trên một ý nghĩa cao nhất “lao động đã sáng
tạo ra bản chất con người”. Vậy tại sao nói lao động sáng tạo ra bản chất con
người?
Thứ nhất, thực hành lao động là động lực thúc đẩy loài người cuối cùng phân biệt
với giới động vật. Marx nói trong cuốn "German Ideology" rằng "con người và
động vật có thể được phân biệt dựa trên ý thức, tôn giáo, hoặc bất cứ điều gì. Khi
con người bắt đầu sản xuất các phương tiện sinh sống của riêng mình, bước này
được xác định bởi tổ chức vật chất của chúng tôi. Tôi bắt đầu phân biệt bản thân
mình với động vật. "Dáng đi đứng thẳng, phân chia tay chân, hình thành bộ não
con người, cũng như công cụ chế tạo, tư duy trừu tượng và ngôn ngữ, những dấu
hiệu đặc trưng của con người đều là hoạt động bản năng động vật của tổ tiên loài
người trong quá trình chuyển hóa sức lao động của con người thành con người lao
động.Những gì được hình thành dần dần cũng được hoàn thiện hơn nữa trong quá
trình phát triển của lao động. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng “ở một khía cạnh
nào đó, chúng ta phải nói rằng lao động tạo ra con người.” Thực hành lao động là
dấu hiệu cơ bản của sự khác nhau giữa người và động vật. tự ý thức và động vật
không có tự ý thức; Con người có tín ngưỡng tôn giáo, động vật không có tín
ngưỡng tôn giáo; con người sử dụng ký hiệu văn bản, động vật không sử dụng ký
hiệu văn bản, v.v. Biểu tượng cơ bản để phân biệt con người với động vật là chúng
có thể chế tạo và sử dụng các công cụ sản xuất. Marx và Engels nói: "Khi con
người bắt đầu sản xuất những phương tiện sinh hoạt cần thiết, họ bắt đầu phân biệt
mình với động vật." "Sự khác biệt giữa con người và động vật bắt nguồn từ cách
thức khác nhau để có được phương tiện sinh sống: động vật chỉ có thể sử dụng trực
tiếp các cơ quan sinh lý tự nhiên của mình như răng, lưỡi, tay chân, v.v ... để kiếm
thức ăn sẵn. hoặc các vật chất vật chất khác do thiên nhiên cung cấp, sự thích nghi
của động vật với môi trường tự nhiên chủ yếu phụ thuộc vào sự biến đổi của các cơ
quan tự nhiên, tức là cấu tạo sinh lý của chúng. Con người thì khác, con người là
người lao động sản xuất, có thể thay đổi hình thái vật chất của tự nhiên và môi
trường tự nhiên để sinh tồn bằng những công cụ do mình làm ra để đáp ứng nhu
cầu cuộc sống và phù hợp với sự sinh tồn của chính mình. Để thích nghi với môi
trường tự nhiên, con người chủ yếu không dựa vào sự thay đổi cấu tạo sinh lý của
bản thân mà dựa vào sự thay đổi của công cụ sản xuất. Thứ hai, thực tiễn
lao động là cơ sở hình thành và phát triển mọi quan hệ của con người, đồng thời nó
cũng là tiền đề, cơ sở của mọi lịch sử. Lao động không chỉ có nghĩa là quan hệ
giữa con người với tự nhiên mà còn là quan hệ xã hội giữa con người với nhau
được hình thành do lao động. Vì vậy, lao động không chỉ liên tục sản xuất ra những
tư liệu sống cần thiết cho con người, mà còn liên tục sản sinh ra những quan hệ xã
hội của con người. Marx chỉ rõ: “Toàn bộ lịch sử thế giới không gì khác hơn là quá
trình con người sinh ra nhờ lao động của con người, và quá trình phát sinh từ tự
nhiên thành con người. thế hệ được coi là quá trình, đối tượng hoá được coi là vật
mất đi, là sự ngoại hoá và sự phụ hoá của sự ngoại hoá này. Vì vậy, Người nắm
được bản chất của lao động. "" Người coi lao động là bản chất của con người, là
bản chất của bản thân con người -xác nhận ”. Marx hoàn toàn khẳng định tư tưởng
của Hegel rằng lao động tạo ra con người và lịch sử loài người và lao động là bản
chất của con người, đồng thời chỉ ra rằng “cái duy nhất mà Hegel biết và thừa nhận
là lao động tinh thần trừu tượng”. Mác coi lao động sản xuất vật chất là cơ sở cho
sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của loài người và lịch sử của nó. Các Mác đã nói:
Lao động là “điều kiện tiên quyết đầu tiên của mọi lịch sử”, là “một sự thật hiển
nhiên nhưng hoàn toàn bị phớt lờ, đó là con người trước hết phải ăn, uống, sinh
hoạt, mặc, nghĩa là trước hết phải lao động thì mới chiến đấu được. để cai trị. Dấn
thân vào chính trị, tôn giáo, triết học, ... ”Marx và Engels bắt đầu từ thực tiễn lao
động để hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử về tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
năng suất và quan hệ sản xuất, nền tảng kinh tế và kiến trúc thượng tầng, giai cấp
và đấu tranh giai cấp, nhà nước và cách mạng , Sự tiến hóa của các hình thái xã
hội, chủ nghĩa cộng sản và học thuyết hoàn chỉnh về sự giải phóng toàn nhân loại.
Nói cách khác, họ đã “tìm ra chìa khóa để hiểu toàn bộ lịch sử xã hội trong lịch sử
phát triển của lao động.” Toàn bộ cái gọi là lịch sử thế giới chẳng qua là quá trình
con người sinh ra nhờ lao động của con người. Chính vì thực tiễn xã hội là hoạt
động quan trọng nhất để con người vươn lên từ động vật thành người, các thuộc
tính xã hội khác như ngôn ngữ, tư duy của con người cũng được sản sinh và phát
triển trong lao động sản xuất. Dù ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, thực tiễn xã hội
là luôn giữa con người và động vật.Điểm khác biệt cơ bản nhất về phương thức
hoạt động sinh tồn. Với sự phát triển của xã hội loài người, các quan hệ xã hội dù
phức tạp và đa dạng đến đâu thì quan hệ sản xuất luôn là cơ sở của mọi quan hệ xã
hội, vì vậy, thực tiễn xã hội đã trở thành cơ sở bên trong quan trọng nhất và thuộc
tính bản chất của con người.
| 1/3

Preview text:

Sản xuất vật chất luôn giữ vai trò quy định sự tồn tại, phát triển của con người và
xã hội loài người; là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối quan
hệ xã hội; là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người,
Xã hội loài người tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ sản xuất vật chất. Lịch
sử xã hội loài người, do vậy và trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.
Sản xuất vật chất là cơ sở để hình thành nên các mối quan hệxã hội khác. Xã hội
loài người là một tổ chức vật chất và giữa các yếu tố cấu thành nó cũng có những
kiểu quan hệ nhất định. Các quan hệ xã hội về nhà nước, chính trị, pháp quyền, đạo
đức, nghệ thuật, khoa học v.v (cái thứ hai) đều được hình thành và phát triển trên
cơ sở sản xuất vật chất (cái thứ nhất) nhất định. Trong quá trình đó, con người
đồng thời cũng sản xuất ra và tái sản xuất ra những quan hệ xã hội của mình.
Con người là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan
trọng nhất của con người là lao động sản xuất. Nếu con vật phải sống dựa hoàn
toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng
lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn
nhu cầu của mình. Lao động là hoạt động thiết yếu của con người. Lao động không
chỉ phân biệt con người với động vật, nâng con người lên với giới tự nhiên mà còn
gắn chặt con người, xã hội loài người với giới tự nhiên. Lao động là hoạt động
thiết yếu của con người, giúp con người có được bản chất của mình, lao động góp
phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con người trở thành con
người đúng với nghĩa của nó.
Ph.Ăngghen cũng đã khẳng định rằng: trên một ý nghĩa cao nhất “lao động đã sáng
tạo ra bản chất con người”. Vậy tại sao nói lao động sáng tạo ra bản chất con người?
Thứ nhất, thực hành lao động là động lực thúc đẩy loài người cuối cùng phân biệt
với giới động vật. Marx nói trong cuốn "German Ideology" rằng "con người và
động vật có thể được phân biệt dựa trên ý thức, tôn giáo, hoặc bất cứ điều gì. Khi
con người bắt đầu sản xuất các phương tiện sinh sống của riêng mình, bước này
được xác định bởi tổ chức vật chất của chúng tôi. Tôi bắt đầu phân biệt bản thân
mình với động vật. "Dáng đi đứng thẳng, phân chia tay chân, hình thành bộ não
con người, cũng như công cụ chế tạo, tư duy trừu tượng và ngôn ngữ, những dấu
hiệu đặc trưng của con người đều là hoạt động bản năng động vật của tổ tiên loài
người trong quá trình chuyển hóa sức lao động của con người thành con người lao
động.Những gì được hình thành dần dần cũng được hoàn thiện hơn nữa trong quá
trình phát triển của lao động. Vì vậy, Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng “ở một khía cạnh
nào đó, chúng ta phải nói rằng lao động tạo ra con người.” Thực hành lao động là
dấu hiệu cơ bản của sự khác nhau giữa người và động vật. tự ý thức và động vật
không có tự ý thức; Con người có tín ngưỡng tôn giáo, động vật không có tín
ngưỡng tôn giáo; con người sử dụng ký hiệu văn bản, động vật không sử dụng ký
hiệu văn bản, v.v. Biểu tượng cơ bản để phân biệt con người với động vật là chúng
có thể chế tạo và sử dụng các công cụ sản xuất. Marx và Engels nói: "Khi con
người bắt đầu sản xuất những phương tiện sinh hoạt cần thiết, họ bắt đầu phân biệt
mình với động vật." "Sự khác biệt giữa con người và động vật bắt nguồn từ cách
thức khác nhau để có được phương tiện sinh sống: động vật chỉ có thể sử dụng trực
tiếp các cơ quan sinh lý tự nhiên của mình như răng, lưỡi, tay chân, v.v ... để kiếm
thức ăn sẵn. hoặc các vật chất vật chất khác do thiên nhiên cung cấp, sự thích nghi
của động vật với môi trường tự nhiên chủ yếu phụ thuộc vào sự biến đổi của các cơ
quan tự nhiên, tức là cấu tạo sinh lý của chúng. Con người thì khác, con người là
người lao động sản xuất, có thể thay đổi hình thái vật chất của tự nhiên và môi
trường tự nhiên để sinh tồn bằng những công cụ do mình làm ra để đáp ứng nhu
cầu cuộc sống và phù hợp với sự sinh tồn của chính mình. Để thích nghi với môi
trường tự nhiên, con người chủ yếu không dựa vào sự thay đổi cấu tạo sinh lý của
bản thân mà dựa vào sự thay đổi của công cụ sản xuất.  Thứ hai, thực tiễn
lao động là cơ sở hình thành và phát triển mọi quan hệ của con người, đồng thời nó
cũng là tiền đề, cơ sở của mọi lịch sử. Lao động không chỉ có nghĩa là quan hệ
giữa con người với tự nhiên mà còn là quan hệ xã hội giữa con người với nhau
được hình thành do lao động. Vì vậy, lao động không chỉ liên tục sản xuất ra những
tư liệu sống cần thiết cho con người, mà còn liên tục sản sinh ra những quan hệ xã
hội của con người. Marx chỉ rõ: “Toàn bộ lịch sử thế giới không gì khác hơn là quá
trình con người sinh ra nhờ lao động của con người, và quá trình phát sinh từ tự
nhiên thành con người. thế hệ được coi là quá trình, đối tượng hoá được coi là vật
mất đi, là sự ngoại hoá và sự phụ hoá của sự ngoại hoá này. Vì vậy, Người nắm
được bản chất của lao động. "" Người coi lao động là bản chất của con người, là
bản chất của bản thân con người -xác nhận ”. Marx hoàn toàn khẳng định tư tưởng
của Hegel rằng lao động tạo ra con người và lịch sử loài người và lao động là bản
chất của con người, đồng thời chỉ ra rằng “cái duy nhất mà Hegel biết và thừa nhận
là lao động tinh thần trừu tượng”. Mác coi lao động sản xuất vật chất là cơ sở cho
sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của loài người và lịch sử của nó. Các Mác đã nói:
Lao động là “điều kiện tiên quyết đầu tiên của mọi lịch sử”, là “một sự thật hiển
nhiên nhưng hoàn toàn bị phớt lờ, đó là con người trước hết phải ăn, uống, sinh
hoạt, mặc, nghĩa là trước hết phải lao động thì mới chiến đấu được. để cai trị. Dấn
thân vào chính trị, tôn giáo, triết học, ... ”Marx và Engels bắt đầu từ thực tiễn lao
động để hình thành chủ nghĩa duy vật lịch sử về tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
năng suất và quan hệ sản xuất, nền tảng kinh tế và kiến trúc thượng tầng, giai cấp
và đấu tranh giai cấp, nhà nước và cách mạng , Sự tiến hóa của các hình thái xã
hội, chủ nghĩa cộng sản và học thuyết hoàn chỉnh về sự giải phóng toàn nhân loại.
Nói cách khác, họ đã “tìm ra chìa khóa để hiểu toàn bộ lịch sử xã hội trong lịch sử
phát triển của lao động.” Toàn bộ cái gọi là lịch sử thế giới chẳng qua là quá trình
con người sinh ra nhờ lao động của con người. Chính vì thực tiễn xã hội là hoạt
động quan trọng nhất để con người vươn lên từ động vật thành người, các thuộc
tính xã hội khác như ngôn ngữ, tư duy của con người cũng được sản sinh và phát
triển trong lao động sản xuất. Dù ở quá khứ, hiện tại hay tương lai, thực tiễn xã hội
là luôn giữa con người và động vật.Điểm khác biệt cơ bản nhất về phương thức
hoạt động sinh tồn. Với sự phát triển của xã hội loài người, các quan hệ xã hội dù
phức tạp và đa dạng đến đâu thì quan hệ sản xuất luôn là cơ sở của mọi quan hệ xã
hội, vì vậy, thực tiễn xã hội đã trở thành cơ sở bên trong quan trọng nhất và thuộc
tính bản chất của con người.