














Preview text:
Sáp nhập doanh nghiệp là gì? Làm rõ khái niệm
và thủ tục sáp nhập công ty?
1. Làm rõ khái niệm sáp nhập doanh nghiệp?
Thuật ngữ “Sáp nhập doanh nghiệp” xuất hiện trong khá nhiều tài liệu trong
nước và quốc tế. Trong lý luận kinh tế chính trị, C.Mác đưa ra một khái niệm
rộng hơn có liên hệ với sáp nhập trong kinh tế, đó là tập trung tư bản.
Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô của tư bản cá biệt có sẵn trong xã
hội thành một tư bản cá biệt khác lớn hơn. Cạnh tranh và tín dụng là những
đòn bẩy mạnh nhất thúc đẩy tập trung tư bản. Do cạnh tranh mà dẫn tới sự
liên kết tự nguyện hay sáp nhập của các tư bản cá biệt. Tín dụng tư bản chủ
nghĩa là phương tiện để tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội vào tay
các nhà tư bản. Như vậy, sáp nhập là một dạng của tập trung tư bản.
Trong luật cạnh tranh ban hành ngày 03/12/2004 của Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam cũng đã đề cập sáp nhập doanh nghiệp với tư cách là
một dạng của tập trung kinh tế. Theo điều 17 của Luật này, sáp nhập doanh
nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Như vậy, sáp nhập diễn ra khi một doanh nghiệp nhập vào một doanh nghiệp
khác và chấm dứt sự tồn tại của mình. Ví dụ, khi doanh nghiệp A nhập vào
doanh nghiệp B, doanh nghiệp A sẽ không tồn tại nữa, cổ phiếu của doanh
nghiệp A sẽ được chuyển đổi sang cổ phiếu của doanh nghiệp B. Cách thức
quản lý điều hành doanh nghiệp sau sáp nhập khác với trường hợp mua lại
doanh nghiệp vì hai doanh nghiệp sáp nhập sẽ bắt tay nhau “đồng vai phải
lứa” dù rằng trên thực tế về mặt pháp lý có một bên bị sở hữu và một bên được sở hữu.
Nhìn rộng ra, hợp nhất doanh nghiệp cũng là một dạng đặc biệt của của sáp
nhập. Ví dụ doanh nghiệp A và doanh nghiệp B hợp nhất lại tạo nên doanh
nghiệp C, nghĩa là sẽ không còn tên doanh nghiệp A hay doanh nghiệp B nữa
sau khi hợp nhất diễn ra, mà chỉ còn tồn tại doanh nghiệp C và tất nhiên cổ
phiếu của doanh nghiệp A và doanh nghiệp B sẽ chuyển sang cổ phiếu của doanh nghiệp C.
Hiện nay trên thế giới, người ta thường nhắc đến thuật ngữ M&A (sáp nhập
và mua bán doanh nghiệp). Mặc dù chúng thường được đề cập cùng nhau
nhưng vẫn có sự khác biệt về bản chất.
Mua bán doanh nghiệp là một quá trình trong đó cổ phiếu hoặc tài sản của
một bên sẽ được chuyển giao và thuộc sở hữu của bên mua. Giao dịch mua
bán doanh nghiệp có thể tồn tại ở dạng mua tài sản hoặc mua cổ phiếu. Việc
mua bán này thường được thực hiện thông qua đấu thầu, đấu thầu rộng rãi
để mua trực tiếp cổ phiếu từ các cổ đông của bên bán.
Trên thực tế, thường thấy phổ biến các giao dịch mua bán doanh nghiệp
trong đó có thể không dẫn đến kết quả sáp nhập. Ví dụ doanh nghiệp B mua
một lượng lớn cổ phiếu của doanh nghiệp A, dù đủ lớn để biến thành một
thương vụ sáp nhập nhưng nếu bên B quyết định là bên A sẽ vẫn tồn tại riêng
rẽ như một công ty con của B thì đó không phải là sáp nhập; hoặc nếu bên B
mua toàn bộ hoặc hầu hết tài sản của bên A và thanh toán bằng tiền hoặc cổ
phiếu của bên B và bên A lúc này chỉ còn là cái vỏ bọc mà không còn hoạt
động nữa và cổ đông của bên A không thay đổi, tài sản còn lại duy nhất của
bên A là tiền hoặc cổ phiếu do bên B thanh toán.
Các dạng thức mua bán doanh nghiệp có một số đặc điểm như sau: (1) Sáp
nhập và Hợp nhất: Đơn giản về pháp lý; Không tốn kém, không cần các
chuyển nhượng về tên hiệu của doanh nghiệp; Tất cả các khoản nợ phải trả
được thừa nhận bao gồm cả những khoản tranh chấp tiềm năng; Yêu cầu 2/3
cổ đông của hai bên nhất trí thông qua; Các cổ đông có quyền khiếu kiện để
nhận được giá trị thực của họ (quyền đánh giá lại). (2) Mua cổ phần (thông
qua đấu thầu):Không cần phải tổ chức đại hội cổ đông hoặc không cần yêu
cầu về biểu quyết; Bên mua có thể gặp trực tiếp các cổ đông để thương
thuyết mà không cần qua ban lãnh đạo; Ban lãnh đạo của bên bán có thể
“phản kháng” và làm quá trình mua cổ phần tốn kém và mất công hơn;
Thường chỉ có một số thiểu số cổ đông nắm giữ cổ phần. (3)Mua các tài
sản: Chỉ cần 50% cổ đông thông qua; Chuyển nhượng các tài sản có thể tốn
các chi phí liên quan đến pháp lý như sang tên chủ sở hữu,…
Một câu hỏi nữa đặt ra là liệu có nhất thiết khi sáp nhập hai doanh nghiệp
phải có cùng quy mô, và nếu không cùng quy mô thì liệu bên nhận sáp nhập
phải là bên có quy mô lớn hơn ? Câu trả lời là không nhất thiết phải cùng quy
mô và không nhất thiết bên nhận sáp nhập bắt buộc phải có quy mô lớn hơn.
Bởi lẽ trong thực tế, vì một lý do nhất định (VD: thuế,…), bên có quy mô lớn
hơn có thể sáp nhập vào bên có quy mô nhỏ hơn. Quy mô hoạt động, giá trị
ròng của doanh nghiệp, số lượng lao động, ai sẽ được cử làm chủ tịch Hội
đồng quản trị, ngay thậm chí cả tên gọi của doanh nghiệp sau sáp nhập đôi
lúc cũng không quá nhiều ý nghĩa đối với bên nhận sáp nhập vì nói cho cùng
sáp nhập được xây dựng trên cơ sở đồng thuận.
Sáp nhập doanh nghiệp cũng cần được phân biệt với liên doanh. Liên doanh
giữa các doanh nghiệp là việc hai hay nhiều các doanh nghiệp cùng góp một
phần tài sản, quyền lợi và nghĩa vụ hợp pháp của mình để hình thành một
doanh nghiệp mới. Nghĩa là nếu một bên A và một bên B liên doanh với nhau
hình thành một doanh nghiệp C thì sau khi liên doanh có sự tồn tại của cả ba doanh nghiệp A, B và C.
Từ những phân tích trên đây có thể rút ra được khái niệm của sáp nhập doanh nghiệp như sau:
Sáp nhập doanh nghiệp theo nghĩa hẹp là giao dịch trong đó một hoặc một số
doanh nghiệp từ bỏ pháp nhân của mình để gia nhập vào một doanh nghiệp
khác. Doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ tiếp nhận toàn bộ tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp và nghĩa vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập. Sau khi việc sáp
nhập hoàn thành doanh nghiệp bị sáp nhập sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình.
Sáp nhập theo nghĩa rộng ngoài định nghĩa theo nghĩa hẹp còn bao gồm cả
việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời
chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp trước sáp nhập (sáp nhập theo
nghĩa rộng bao gồm cả hợp nhất)./.
2. Quy đị nh c ủ a pháp lu ật Việ t nam v ề mua bán, sáp nh ập
doanh nghiệp (M&A)?
Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp là một thuật ngữ mới xuất hiện ở Việt Nam,
đặc biệt là khi thị trường chứng khoán Việt Nam có những bước phát triển
nhanh chóng. Thuật ngữ này được dịch từ thuật ngữ tiếng Anh “Merger &
Acquisition” hay còn được viết tắt là M&A. Mặc dù hoạt động M&A ở Việt
Nam đã có sự phát triển nhất định, song những quy định pháp luật liên quan
đến M&A thì vẫn chưa được nhiều người biết đến.
M&A thực chất là hoạt động giành quyền kiểm soát doanh nghiệp, bộ phận
doanh nghiệp (gọi chung là doanh nghiệp) thông qua việc sở hữu một phần
hoặc toàn bộ doanh nghiệp đó. Mục đích của M&A là giành quyền kiểm soát
doanh nghiệp ở mức độ nhất định chứ không đơn thuần chỉ là sở hữu một
phần vốn góp hay cổ phần của doanh nghiệp như các nhà đầu tư nhỏ, lẻ. Vì
vậy, khi một nhà đầu tư đạt được mức sở hữu phần vốn góp, cổ phần của
doanh nghiệp đủ để tham gia, quyết định các vấn đề quan trọng của doanh
nghiệp thì khi đó mới có thể coi đây là hoạt động M&A. Ngược lại, khi nhà
đầu tư sở hữu phần vốn góp, cổ phần không đủ để quyết định các vấn đề
quan trọng của doanh nghiệp thì đây chỉ được coi là hoạt động đầu tư thông thường.
Với cách hiểu như vậy, pháp luật Việt Nam có một số các quy định về hình
thức thực hiện M&A như sau:
Góp vốn trực tiếp vào doanh nghiệp thông qua việc góp vốn điều lệ công ty
TNHH hoặc mua cổ phần phát hành để tăng vốn điều lệ của công ty cổ phần.
Mua lại phần vốn góp hoặc cổ phần đã phát hành của thành viên hoặc cổ
đông của công ty. Không giống như hình thức góp vốn trực tiếp vào doanh
nghiệp, đây là hình thức đầu tư không làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp
nhưng có thể làm thay đổi cơ cấu sở hữu vốn góp/cổ phần của doanh nghiệp.
Mua, bán doanh nghiệp chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp tư nhân
theo quy định của Luật Doanh nghiệp và một số doanh nghiệp nhà nước, bộ
phận doanh nghiệp nhà nước theo quy định của pháp luật về giao, bán,
khoán kinh doanh, cho thuê công ty nhà nước.
Sáp nhập doanh nghiệp là hình thức kết hợp một hoặc một số công ty cùng
loại (công ty bị sáp nhập) vào một công ty khác (công ty nhận sáp nhập) trên
cơ sở chuyển toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ của công ty bị sáp nhập vào
công ty nhận sáp nhập. Công ty bị sáp nhập chấm dứt tồn tại, công ty nhận
sáp nhập vẫn tồn tại và kế thừa toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ của công ty bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều công ty cùng loại (công ty bị
hợp nhất) kết hợp thành một công ty mới (công ty hợp nhất). Các công ty bị
hợp nhất chấm dứt tồn tại và hình thành mới một công ty trên cơ sở kế thừa
toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ của các công ty bị hợp nhất.
Chia, tách doanh nghiệp là hình thức M&A đặc thù bởi việc kiểm soát doanh
nghiệp đạt được thông qua việc làm giảm quy mô doanh nghiệp và do vậy
việc kiểm soát doanh nghiệp chỉ thực hiện đối với từng phần doanh nghiệp
nhất định. Chủ thể chính của hoạt động chia tách doanh nghiệp là các thành
viên hoặc cổ đông hiện tại của công ty. Chia, tách doanh nghiệp được áp
dụng đối với loại hình công ty TNHH hoặc công ty cổ phần.
Chia doanh nghiệp là việc một công ty bị chia thành nhiều công ty mới, công
ty bị chia chấm dứt tồn tại, các công ty mới liên đới thực hiện nghĩa vụ của công ty bị chia.
Tách doanh nghiệp là việc một công ty bị tách một phần tài sản, quyền và
nghĩa vụ để hình thành một công ty mới. Công ty bị tách vẫn tồn tại và hình
thành một công ty mới, các công ty này vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm về
các nghĩa vụ của công ty bị tách.
Trong số các hình thức M&A nêu trên, hình thức góp vốn vào công ty và mua
vốn góp, cổ phần của công ty sẽ là những hoạt động chính và thường xuyên,
phổ biến nhất vì đa số các doanh nghiệp thuộc loại hình công ty TNHH hoặc
cổ phần. Các hình thức M&A khác chỉ là những hình thức được áp dụng với
những hoạt động đầu tư đặc thù. Hình thức bán công ty nhà nước sẽ giảm
dần vì theo lộ trình quy định, các công ty nhà nước sẽ được chuyển hết sang
loại hình công ty TNHH hoặc công ty cổ phần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
Mỗi một hình thức M&A đều có những quy định riêng của pháp luật điều
chỉnh. Vì vậy, trước khi thực hiện bất cứ một hoạt động M&A nào, nhà đầu tư
cần tìm hiểu kỹ các quy định của pháp luật để xác định mục đích đầu tư có
đạt được hay không và cần phải thực hiện đầu tư như thế nào để pháp luật
bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của mình.
3. Thủ tục đăng ký thuế trường hợp sáp nhập doanh nghiệp?
Thủ tục: Đăng ký thuế đối với trường hợp tổ chức, sắp xếp lại doanh nghiệp:
trường hợp Sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp đối với doanh nghiệp bị hợp nhất, bị sáp nhập.
- Trình tự thực hiện:
+ Khi có Hợp đồng hợp nhất hoặc Hợp đồng sáp nhập theo quy định của Luật
doanh nghiệp, doanh nghiệp bị hợp nhất hoặc doanh nghiệp bị sáp nhập phải
thực hiện thủ tục chấm dứt hiệu lực mã số thuế với cơ quan Thuế.
+ Cơ quan Thuế phải thực hiện thông báo doanh nghiệp ngừng hoạt động và
đang làm thủ tục chấm dứt hiệu lực mã số thuế của các doanh nghiệp bị hợp
nhất hoặc doanh nghiệp bị sáp nhập.
- Thành phần, số lượng hồ sơ:
- Thành phần hồ sơ, bao gồm:
+ Công văn đề nghị chấm dứt hiệu lực mã số thuế
+ Hợp đồng hợp nhất hoặc Hợp đồng sáp nhận (bản sao có chứng thực).
- Số lượng hồ sơ: 01 (bộ)
- Thời hạn giải quyết: Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ
- Đối tượng thực hiện thủ tục hành chính: Tổ chức
- Cơ quan thực hiện thủ tục hành chính:
+ Cơ quan có thẩm quyền quyết định: Chi Cục thuế
+ Cơ quan trực tiếp thực hiện TTHC: Chi Cục thuế
- Kết quả thực hiện thủ tục hành chính : Thông báo doanh nghiệp ngừng
hoạt động và đang làm thủ tục chấm dứt hiệu lực mã số thuế. - Lệ phí (nếu có):
- Tên mẫu đơn, mẫu tờ khai (nếu có và đề nghị đính kèm )
- Yêu cầu, điều kiện thực hiện thủ tục hành chính (nếu có):
4. Mua bán và Sáp nhập doanh nghiệp thực hiện thế nào?
Quy luật trong kinh doanh rất dễ hiểu và đơn giản: “phát triển hay là chết”.
Các công ty đang phát triển sẽ lấy đi thị phần từ các đối thủ cạnh tranh, tạo ra
lợi nhuận kinh tế và mang lại thu nhập cho các cổ đông. Ngược lại, những
công ty không phát triển thường bị phá sản. M&A đóng một vai trò quan trọng
đối với cả 2 chiều của quy luật này, thúc đẩy các công ty mạnh phát triển
nhanh hơn. Còn chắc chắn các công ty yếu kém sẽ nhanh chóng bị loại khỏi cuộc chơi. 1+1 >2
Các thương vụ M&A đều dựa trên một nguyên tắc cơ bản là giá trị tổng hợp
sau khi tiến hành M&A phải lớn hơn tổng giá trị hiện tại của hai công ty khi
còn đứng riêng rẽ. Giá trị tăng thêm này, thường được nhắc đến bằng khái
niệm “giá trị cộng hưởng” – là một yếu tố rất quan trọng dẫn đến thành công
của một thương vụ. Nó được coi như một thành tố màu nhiệm thúc đẩy bên
mua bỏ ra hàng triệu USD chi phí phụ trội trong thương vụ M&A.
Giá trị cộng hưởng có được nhờ sự kết hợp hợp lý sau M&A, để thống nhất,
tập hợp nguồn lực tài chính, công nghệ, nhân lực và thương hiệu, quản lý chi
phí hiệu quả hơn, tạo lợi nhuận và giá trị cổ đông lớn hơn, lợi thế kinh tế nhờ
quy mô, khả năng làm giá tốt hơn nhờ giảm bớt cạnh tranh và nâng cao thị
phần, thâm nhập một ngành mới… Tất nhiên, sự cộng hưởng sẽ không tự
đến nếu không có M&A.
Trong thực tế không ít trường hợp, khi hai công ty tiến hành sáp nhập lại có
hiệu ứng ngược lại, đó là 1+1<2. do đó, việc phân tích chính xác mức độ
cộng hưởng trước khi tiến hành thương vụ mua bán và sáp nhập doanh
nghiệp rất quan trọng. Khá nhiều nhà quản lý doanh nghiệp đã cố tình vẽ ra
một bức tranh cộng hưởng để tiến hành các vụ M&A nhằm trục lượi từ việc định giá doanh nghiệp.
Có một so sánh thú vị từ ông Dominic Scriven, Giám đốc Quĩ Đầu tư Dragon
Capital khi đưa ra đối ứng: tỷ lệ thất bại của M&A cao hơn tỷ lệ ly dị. Sự thật
được ông tiết lộ rằng hơn một nửa các vụ M&A không tạo ra giá trị gia tăng.
Cụ thể, thống kê các vụ M&A trên thế giới từ 1992-2006, trên tổng số 3.207
vụ thì 59,3% tạo ra giá trị âm, tỷ lệ này ở Châu Á là 51%, Bắc Mỹ là 62%,
Châu Âu là 53%. Thống kê của các hãng tư vấn nổi tiếng, cũng cho thấy, hơn
một nửa số vụ M&A trên thế giới không tạo ra giá trị gia tăng, mà các “con cá
mập” lớn cũng không là ngoại lệ, có thể kể đến các trường hợp của AOL/Time Warner, eBay/Skype…
Tuy nhiên, không vì thế mà vai trò của M&A trong nền kinh tế thế giới kém đi
phần quan trọng. M&A là một phần thiết yếu của bất kỳ một nền kinh tế phát
triển nào và quan trọng nó là con đường cơ bản giúp các doanh nghiệp mang
lại thu nhập. Thực tế này kết hợp với tiềm năng mang lại những khoản thu
lớn đã khiến hoạt động M&A trở thành một sự chọn lựa hấp dẫn đối với chủ
doanh nghiệp, khi muốn chuyển hóa các giá trị thu được của công ty thành vốn.
Trong vòng 5 năm trở lại đây, 92% các hoạt động thanh khoản diễn ra trong
các doanh nghiệp được cấp vốn đầu cơ là thông qua hoạt động M&A, trong
khi chỉ có 8% các công ty này thực hiện thanh khoản thành công nhờ phát
hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO). Sứ mệnh lịch sử
M&A giữ nhiều vai trò quan trọng trong lịch sử của các doanh nghiệp, từ các
công ty tham lam chuyên săn lùng các công ty để mua lại rồi chia nhỏ ra đến
các công ty nằm trong xu thế hiện nay sử dụng hoạt động M&A để hợp nhất
nền công nghiệp và sự tăng trưởng ngoại ứng của mình.
Suốt một thế kỷ qua đã có 6 làn sóng M&A với hàng chục thương vụ có giá trị
hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ USD trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ
năm 2008 đến nay, số vụ M&A giảm do tình hình kinh tế thế giới khó khăn,
nhưng đầu năm nay vẫn có tới 3 vụ M&A cực lớn trong ngành dược phẩm.
Trong thập niên 1980, gần một nửa số doanh nghiệp Mỹ được tiến hành tái
cấu trúc, trên 80.000 doanh nghiệp được M hoặc A, và trên 700.000 được
bảo hộ tránh khỏi bị phá sản để tái tổ chức lại doanh nghiệp và tiếp tục hoạt
động. Giai đoạn những năm 80 được đặc trưng bởi những doanh nghiệp
hung hăng cùng với các thủ đoạn công kích nhằm giành quyền kiểm soát các
đối tượng mục tiêu. Thập niên 1990 cũng là giai đoạn không kém phần sôi nổi
với các hoạt động mở rộng quy mô, thu hẹp hoạt động, từ bỏ tài sản và hợp
nhất nhưng với những mục tiêu khác nhau, tập trung vào điều phối hoạt động,
liên minh chiến lược, tiếp cận công nghệ mới…
Gần đây, hoạt động M&A vẫn diễn ra chủ yếu tại Mỹ và châu Âu. Tuy nhiên,
tốc độ tăng M&A tại các châu lục này đã suy giảm và Châu Á đang trở thành
miền đất hứa. Có thể thấy sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ khiến cho các quỹ
đầu tư, công ty và tập đoàn lớn trên thế giới nghĩ đến việc chuyển hướng kinh
doanh sang các quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh. Bằng chứng là một
loạt các thương vụ M&A mới đây cho thấy một tỷ lệ lớn các công ty nước
ngoài đang tiến vào thị trường châu Á. Và bản thân các nước đang phát triển
cũng mở rộng hoạt động liên doanh, liên kết với nước ngoài để tận dụng công
nghệ, tiếp thu trình độ quản lý, tăng cường thị phần, quy mô và giảm đối thủ cạnh tranh.
M&A Việt Nam chưa chuyên nghiệp
Khởi động từ năm 2000, theo báo cáo của Công ty kiểm toán
PricewaterhouseCoopers (PwC), các vụ M&A tại Việt Nam trong năm 2007
tăng nhanh nhất ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với 113 vụ sáp nhập
thành công, với tổng giá trị lên tới gần 1,8 tỷ USD. Năm 2008, hoạt động này
vẫn gia tăng theo chiều hướng tích cực cho dù tổng giá trị mua bán chỉ đạt
hơn 1 tỷ USD với 146 giao dịch. Nằm trong vòng xoáy của lạm phát và suy
giảm kinh tế, 6 tháng đầu năm 2009, hoạt động M&A ở Việt Nam vẫn diễn ra
khá sôi động từ các diễn đàn đến giao dịch thực tế, trái với xu hướng trầm lắng trên thế giới.
Có thể vì thế nó tạo nên một phong cách M&A riêng của Việt Nam. Hàng
chục trang web mua bán công ty lần lượt được khai sinh và được coi là nơi
giao dịch của thị trường M&A. Trên thực tế, hoạt động M&A của thế giới
không diễn ra trên những trang web mang tính chất rao vặt như vậy, mà
chúng được thực hiện qua các tác nghiệp mang tính chuyên nghiệp cao của
các nhà tư vấn Citi Group, Morgan Stanley… trong các phòng họp kín. Điều
này cho thấy sự thiếu vắng các công ty tư vấn, môi giới chuyên nghiệp về
M&A trong vai trò trung gian thiết lập một thị trường giữa bên bán và bên mua ở Việt Nam.
Tất nhiên, xét về quy mô, M&A ở Việt Nam chưa thể so với các nước trong
khu vực và thế giới. Và hình thức M&A tại Việt Nam mang tính thân thiện hơn
là tính thù địch, thôn tính lẫn nhau. Các vụ sáp nhập ở mức nào đó thường
mang tính liên doanh, hợp tác giữa các bên, hầu như chưa có trường hợp
hợp nhất. Mặt khác, trình độ quản lý Việt Nam chưa thể đáp ứng mức độ hợp
tác cao mà các vụ hợp nhất đòi hỏi.
Thực tế, có nhiều công ty muốn mua và muốn bán nhưng lại thiếu những kiến
thức cơ bản về M&A, lo lắng sau khi thực hiện M&A không được như mong
muốn, không thể tìm được đối tác phù hợp… Mặt khác, với các giao dịch
M&A hiện nay, bên bán phía Việt Nam chưa quen với quy trình thẩm định,
thông tin tài chính thì chưa minh bạch và chưa hoàn chỉnh.
Bên cạnh đó, việc định giá thường không dựa trên phương pháp phổ biến.
Bên mua – thường là các nhà đầu tư nước ngoài, lại thiếu sự hiểu biết về văn
hóa của doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đó, khung pháp lý để xác lập các
giao dịch M&A lại nằm rải rác trong nhiều văn bản luật chuyên ngành khác
nhau. Nói tóm lại, hệ thống pháp luật, hoạt động tư vấn, thiết chế tài chính…
vẫn chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng hoạt động M&A.
Đa số các thương vụ M&A tại Việt Nam đều có sự tham gia của các công ty
nước ngoài. Tất nhiên cũng không phải không có trường hợp doanh nghiệp
trong nước mua lại doanh nghiệp nước ngoài. Có thể do các doanh nghiệp
ngoại chiếm ưu thế về kinh nghiệm và trình độ quản lý trong hoạt động M&A
hơn. Với tiềm lực tài chính mạnh, các doanh nghiệp nước ngoài cũng có khả
năng thực hiện hợp đồng M&A có giá trị lớn mà các doanh nghiệp nội khó
thực hiện. Hơn nữa, Việt Nam tuy đã mở rộng cửa đón nhận đầu tư bên
ngoài nhưng vẫn còn tồn tại rào cản tâm lý, thủ tục nhiêu khê thì M&A là con
đường ngắn rút gọn quá trình thâm nhập thị trường của các công ty nước ngoài.
Nhiều cơ hội, lắm phần thưởng
M&A ở Việt Nam đang trở nên “nóng” hơn bao giờ hết, khi các dấu hiệu phục
hồi của nền kinh tế đã bắt đầu xuất hiện. Người ta tin rằng, thị trường M&A
Việt Nam sẽ rất sôi động, rất nhiều cơ hội và rất nhiều phần thưởng, bởi sự
cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, hay do xuất hiện các cơ hội
kinh doanh mới, nhu cầu mở rộng kinh doanh hoặc cần thiết phải đổi hướng
đầu tư, hay chỉ đơn giản là do đề nghị hấp dẫn từ phía người mua. Theo Cục
Đầu tư nước ngoài (Bộ KH & ĐT), dự kiến có tới 35 – 50% doanh nghiệp của
Việt Nam trong vòng 6 – 10 năm tới có thể sáp nhập hoặc bị sáp nhập vì
những nguyên nhân nêu trên. Và tất nhiên, mua một doanh nghiệp có sẵn là
sự đầu tư ít rủi ro hơn và mang lại lợi nhuận nhanh hơn so với việc tạo dựng
một doanh nghiệp từ con số 0.
So với hàng trăm năm tồn tại và phát triển của hoạt động M&A trên thế giới,
thì 10 năm tuổi của hoạt động này tại Việt Nam quả là hết sức non trẻ. Vì vậy,
sự non kém nhận thức về M&A của các doanh nghiệp cộng thêm những rào
cản pháp lý là không thể tránh khỏi.
Có thể vẫn còn nhiều vụ M&A không thành công, nhưng chắc chắn M&A
trong những năm tới sẽ tác động sâu sắc tới cách thức kinh doanh, góp phần
quan trọng trong việc tái cấu trúc nền kinh tế của Việt Nam. Ý kiến nhận định
Ông Ian Lydal , Tổng Giám đốc Công ty Pricewaterhouse Coopers:
Những trở ngại trong giao dịch M&A: Bên bán phía Việt Nam không quen với
quy trình thẩm định. Đối với các công ty tư nhân, thường thiếu năng lực trong
đội ngũ Ban lãnh đạo; Thông tin tài chính chưa minh bạch và không hoàn
chỉnh; Việc định giá cao hoặc định giá không dựa trên phương pháp định giá;
Các nhà đầu tư nước ngoài thiếu sự hiểu biết về văn hóa của doanh nghiệp
địa phương; Thời gian quyết định đầu tư bị giới hạn; Cơ cấu, hình thức đầu
tư quá dàn trải và không rõ ràng ở các công ty lớn, tập đoàn; Sự chưa rõ
ràng trong các giao dịch giữa các bên hữu quan và nhìn chung thiếu sự tách
bạch giữa bộ phận kế toán và tài chính; Rủi ro của việc đầu tư quá giới hạn
vào lĩnh vực bất động sản bằng nguồn vốn ngắn hạn; Các vấn đề về việc
tuân thủ thuế; Việc đảm bảo hoặc bồi thường đưa ra không thỏa đáng; Các
vấn đề về ngoại tệ; Thiếu tính rõ ràng trong luật sở hữu, bao gồm việc đưa ra
các mức độ về quyền sở hữu cho nhà đầu tư nước ngoài theo cam kết với
WTO; Các công ty nước ngoài không thể thành lập các công ty mẹ đầu tư tại
Việt Nam; Các vấn đề xung quanh việc hoàn tất việc mua bán tài sản; Có
những văn kiện mới chính thức về nguồn vốn/cơ cấu doanh nghiệp được
pháp luật cho phép nhưng các cơ quan có thẩm quyền có thể chưa quen với
việc áp dụng; Thiếu các thông tin có sẵn trên phương tiện thông tin đại chúng;
Các vấn đề xung quanh việc sửa đổi giấy phép, các yêu cầu hành chính khác
làm chậm tiến trình hoàn tất các giao dịch. Ông Phạm Quang Tùng
Tổng Giám đốc Công ty Bảo hiểm Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam:
Các hoạt động M&A tại Việt Nam thông thường dừng ở việc mua lại phần vốn
góp của đối tác trong liên doanh; mua lại thương hiệu của 1 đơn vị có ý định
dừng hoạt động… mà hầu như chưa có thương vụ M&A điển hình nào thể
hiện yếu tố chiến lược trong hoạt động kinh doanh của các bên tham gia
thương vụ M&A. Chính vì vậy, hình thức thể hiện chúng ta thường thấy là
việc mua lại cổ phiếu của đối tác trong công ty cổ phần, mua lại phần vốn góp
trong liên doanh. Đây có thể nói là những thương vụ M&A không điển hình;
Khung pháp lý cho hoạt động M&A chưa đầy đủ, thể hiện sự chắp vá và chưa
hoàn thiện, thiếu những quy định chuyên ngành đủ sâu sắc làm hướng dẫn
cho các hoạt động M&A; Thiếu hoạt động tư vấn M&A chuyên nghiệp tại Việt
Nam, thông thường đó là sự kết hợp của 1 công ty Luật, đơn vị Kiểm toán và
1 đơn vị tài chính… các dịch vụ này được cung cấp riêng rẽ bởi các công ty
khác nhau có thể đẩy chi phí tư vấn lên cao và làm nản lòng các bên tham gia;
Thiếu sự tham gia của Ngân hàng, các thiết chế tài chính vào các thương vụ
M&A, hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng, hỗ trợ vốn trong mua bán doanh
nghiệp chưa được coi là mảng hoạt động nghiệp vụ chính của Ngân hàng. G.P ==========
M&A – CON DAO HAI LƯỠI ANH SƠN (Tổng hợp)
Hiện nay, hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp (M&A) có thể là
cách giúp doanh nghiệp nắm được cơ hội tăng trưởng hoặc giúp cải tổ
doanh nghiệp khó khăn, nhất là trong bối cảnh kinh tế suy thoái. Tuy
nhiên, không phải lúc nào M&A cũng là giải pháp tốt nhất đối với các doanh nghiệp.
Tỷ lệ M&A thất bại cao
Thông thường, M&A là một quá trình phức tạp và tốn nhiều thời gian ngay cả
tại các nước phát triển. Kết thúc một giao dịch mua bán doanh nghiệp đôi khi
có thể dễ dàng và tốt đẹp nhưng đa phần để đi đến giá trị kỳ vọng của 2 bên
thì lại rất khó khăn. Điều này đã lý giải tại sao tỉ lệ M&A thất bại cao. Theo
đánh giá của Business Week, với quy mô 302 vụ, tỷ lệ thất bại M&A là 61%.
Các con số này đối với Công ty McKinsey của Mỹ là 193 vụ, thất bại 68%,
Coopers & Lybrand 125 vụ, thất bại 66%…
Còn đối với các công ty đang niêm yết trên thị trường chứng khoán, phân tích
các biến động giá cả cổ phiếu sau giao dịch mua bán doanh nghiệp thường
cho thấy đa số các giao dịch mua bán đó không mang lại giá trị cho các cổ
đông của bên mua. Các chuyên gia khẳng định rằng giá cổ phiếu của bên
mua bị rớt trong khi giá cổ phiếu của công ty được mua lại tăng sau khi có
thông báo về giao dịch mua bán đó. Thực tế, có tới 50%-70% thương vụ
M&A thất bại vì không gia tăng giá trị cho cổ đông…
Khó thực hiện M&A ở Việt Nam
Mặc dù, chưa có con số thống kê chính xác về tỷ lệ thất bại và thành công
các vụ M&A tại Việt Nam nhưng thực tế các doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn khi tiến hành M&A bởi hạn chế về kinh nghiệm cũng như thiếu cơ sở pháp lý.
Khó khăn đầu tiên khi tiến hành M&A là thiếu cơ sở pháp luật. Theo Luật sư
Trần Anh Đức, Giám đốc Công ty Luật Vilaf Hồng Đức, thủ tục quá rườm rà
đã làm “đổ vỡ” nhiều vụ M&A tại Việt Nam. Khi mua 10 hoặc 20% cổ phần
của một doanh nghiệp ở nước ngoài chỉ cần 1 đến 2 ngày thì tại Việt Nam ít
nhất cũng phải mất vài tháng mới xong khâu thẩm tra, phê duyệt…
Hoạt động M&A đã được quy định ở trong rất nhiều luật như: Luật Đầu tư,
Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật Chứng khoán… nhưng nằm rải rác
và thiếu các văn bản hướng dẫn.
Thứ đến là việc không định giá được chính xác doanh nghiệp. Khi sáp nhập,
các khoản nợ bị tăng đột biến trong bối cảnh quy mô quá lớn khiến nhiều nhà
lãnh đạo doanh nghiệp “hoa mắt” và đàm phán M&A đổ vỡ. Hơn nữa bên
mua cũng thường nhân cơ hội tình hình kinh tế, thị trường tài chính gặp khó
khăn để mua được doanh nghiệp với giá rẻ như thương vụ bán cổ phần của
Ngân hàng An Bình (ABBank) cho Maybank (Malaysia). Ban đầu, giá bán
15% cổ phần của ABBank được thỏa thuận là 124,6 triệu USD, nhưng khi thị
trường tài chính gặp khó khăn, giá trị xuống còn 94,7 triệu USD.
Trong lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, thời gian qua có khá nhiều công ty
muốn mua bán cổ phần, sáp nhập nhưng không thành, nguyên nhân phần
lớn là do bị trả giá quá rẻ.
Chưa kể khi tiến hành M&A, nếu không được chuẩn bị và đàm phán tốt
doanh nghiệp có thể bị mất thương hiệu. Một doanh nghiệp đang có thương
hiệu tốt nhưng làm ăn khó khăn bị mua lại để khai thác thương hiệu. Trường
hợp của Pacific Airlines bán 30% cổ phần (500 triệu USD) cho Jetstar
Airways (thành viên của Tập đoàn Hàng không Qantas – Úc) là một ví dụ. Dù
vẫn giữ hơn 70% cổ phần nhưng thương hiệu Pacific đã chuyển thành Jetstar Pacific.
Đấy là chưa kể một số doanh nghiệp đã rơi vào cảnh “dở mếu dở cười” về
nhân sự sau M&A. Năm 2008, khi PetroVietnam tiến hành sáp nhập Công ty
Thương mại Dầu khí (Petechim) và Công ty Chế biến và Kinh doanh sản
phẩm dầu mỏ (PDC) thành Tổng công ty Dầu (PV Oil), sáp nhập hai công ty
PV Media và PVFC Media thành Công ty Truyền thông Dầu khí, đã xảy ra
nhiều chuyện “đau đầu” về công tác bố trí nhân sự.
Ngoài ra, nguyên nhân được cho là cơ bản gây thất bại của các vụ M&A, theo
ông Dominic Scriven, Giám đốc Quỹ đầu tư Dragon Capital, chính là sự khác
biệt về văn hóa. Sự khác biệt này khiến các công ty khó hòa nhập được với
nhau tạo nên thể thống nhất cho doanh nghiệp. Điều đó có thể gây nên các
mâu thuẫn về quản trị.
M&A là tiến trình tất yếu phải có của bất kỳ nền kinh tế nào nhưng không phải
trường hợp nào, M&A cũng là giải pháp cuối cùng. Đấy là xét trên góc độ lợi
ích doanh nghiệp. Còn đối với lợi ích quốc gia, như ông Stephen Gaskil ,
Giám đốc Dịch vụ tư vấn của Pricewaterhouse Coopers Vietnam đã từng nói
với báo giới: “Khi M&A chỉ tập trung vào một vài lĩnh vực nào đó và cho phép
một số ít công ty chi phối thị trường, nó có thể làm giảm tính cạnh tranh và
hạn chế sự phát triển của đất nước. Hiện tại bối cảnh này chưa diễn ra ở Việt
Nam, nhưng đó vẫn là vấn đề đáng được suy ngẫm cho tương lai đối với các cơ quan chức năng”.
(MKLAW FIRM: Biên tập)
5. Cách phân biệt người mua chiến lược và người mua đầu tư trong M&A ?
Hiện nay, ở Việt Nam các thương vụ mua bán sáp nhập doanh nghiệp đã bắt
đầu diễn ra ngày một sôi động. Theo số liệu cập nhật mới nhất, trong 6 tháng
đầu năm 2008 đã có 48 thương vụ mua bán sáp nhập được thực hiện tại Việt
Nam với tổng giá trị là 347 triệu USD. Như vậy, có thể thấy, thị trường mua
bán sáp nhập doanh nghiệp đã và đang phát triển theo xu hướng trên thế giới
và phù hợp với quá trình mở cửa và hội nhập của nền kinh tế Việt Nam.
Theo số liệu của hãng kiểm toán Pricewaterhouse Coopers (PwC), năm 2005,
có 18 vụ mua bán sáp nhập doanh nghiệp với tổng giá trị 61 triệu USD. Năm
2006, số vụ mua bán sáp nhập doanh nghiệp tăng gần gấp đôi, có 32 vụ
với tổng giá trị 245 triệu USD. Trong năm 2007, đã có tổng số 48 vụ mua bán
sáp nhập doanh nghiệp đạt tổng giá trị 648 triệu USD, tăng 200% so với tổng
năm 2006. Tuy vậy, do thị trường mua bán sáp nhập doanh nghiệp ở Việt
Nam còn khá non trẻ nên các kiến thức về mua bán sáp nhập doanh nghiệp
cần được cập nhật thường xuyên, liên tục. Với mục đích làm rõ một trong
những vấn đề của mua bán sáp nhập doanh nghiệp, bài báo này sẽ cung cấp
cho bạn đọc cách phân biệt hai dạng người mua trong thương vụ mua bán
sáp nhập doanh nghiệp thường thấy ở trên thế giới hoặc Việt Nam dựa trên mục tiêu của họ:
Dạng thứ nhất là những người mua nhằm mục đích vận hành và phát triển
doanh nghiệp lớn lên. Những người mua này đa phần là những công ty đang
hoạt động với một hoặc một số lĩnh vực kinh doanh. Mục đích của người mua
này là củng cố, mở rộng và phát triển các lĩnh vực kinh doanh thông qua mua
bán sáp nhập doanh nghiệp. Đa phần các phân tích của họ nhằm hướng đến
một công ty định mua là công ty có liên quan đến lĩnh vực kinh doanh hiện tại của mình.
Dạng thứ hai là những người mua đơn giản chỉ nhằm mục đích đầu tư tài
chính. Đối tượng mua này thường là các quỹ đầu tư – mục đích của họ
thường không hướng tới các công ty định mua là những công ty cùng lĩnh
vực kinh doanh. Quan tâm duy nhất là công ty mình định mua sẽ giúp tạo ra
dòng tiền có thể bù đắp được giá mua và lợi nhuận. Trong một vài trường
hợp thì lợi nhuận có thể thu được từ cổ tức. Trong các trường hợp khác thì
lợi nhuận tạo ra thông qua bán lại một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đã
mua được đó cho người mua khác hoặc chào bán rộng rãi. Trong đa số các
trường hợp, bên mua sẽ tìm cách hạn chế đến mức tối thiểu ảnh hưởng lẫn
nhau của các công ty họ sở hữu nhằm mục đích tái cấu trúc hoặc bán đi mà không bị tổn thất.
Hai dạng người mua này có thể phân biệt với nhau thông qua hai cụm từ:
“người tạo ra cơ hội” và “người nắm bắt cơ hội”. Người mua theo dạng một là
những người đặt kế hoạch và tìm kiếm cơ hội đầu tư chiến lược, những cơ
hội phù hợp với kế hoạch đặt ra. Người mua theo dạng hai là những người
tìm kiếm cơ hội, tìm kiếm giá trị thặng dư.
Qua thực tế nhận thấy ở Việt Nam trong thời gian qua tồn tại cả hai dạng
người mua kể trên. Hai dạng người mua này cũng có cách thức tư duy khác
nhau trong xác định giá trị của thương vụ mua bán.
Đối với người mua dạng một, thông thường họ đã tích lũy tiền cho kế hoạch
mua bán và cân nhắc nên tiêu nó vào việc gì. Ngoài ra, nếu các công ty đi
mua làm ăn có lãi và đã niêm yết, họ sẽ dùng cổ phiếu của mình để giao dịch
với bên bán nhằm tránh bị đánh thuế. Những người mua dạng một có xu
hướng tránh sử dụng tiền vay. Thời gian mà người mua dạng một xác định
khi mua công ty dự kiến trong dài hạn, 5 đến 10 năm (cũng có trường hợp
ngoại lệ nếu thương vụ mua bán được xem để phản kháng lại việc bị thâu
tóm có tính thù địch). Hơn nữa, người mua dạng một thường hoạt động trong
khuôn khổ doanh nghiệp trong đó kế hoạch chiến lược đầy đủ là một phần
trong văn hóa doanh nghiệp. Do đó, trong định giá họ sẽ tính đến sức mạnh
tổng hợp trong dài hạn tiềm năng của doanh nghiệp sau khi mua.
Đối với dạng người mua thứ hai, họ thường là các quỹ được tổ chức theo
dạng mua sử dụng nợ (Leverage buyout – LBO), tức là họ sẽ có xu hướng sử
dụng tối đa nợ vay để mua tài sản hoặc cổ phiếu của công ty dự kiến mua.
Những người mua LBO thường tìm cách giảm chi phí bằng cách bán bớt
những tài sản thừa hoặc không cần thiết nhằm tăng lơi nhuận hoạt động và
trả bớt nợ vay. Khi nợ vay đã giảm hoặc được trả hết, người mua LBO sẽ
kiếm được lợi nhuận từ khoản đầu tư của mình thông qua cổ tức được chia,
chào bán lần đầu ra công chúng hoặc bán công ty đã mua cho bên mua khác
(thường là những người mua dạng một), hoặc bán theo kế hoạch sở hữu cổ
phiếu của cán bộ công nhân viên công ty. Người mua LBO thường lệ thuộc
vào bộ máy điều hành hiện tại của công ty được mua hoạt động, không thay
đổi cơ cấu tổ chức nhân sự và có thể sắp xếp các vị trí quản lý chủ chốt vào
trong nhóm chủ sở hữu. Đồng thời, họ có thể đầu tư vào công ty khác nhưng
họ sẽ không tìm kiếm “sức mạnh tổng hợp” trong những thương vụ đầu tư
mà họ thích biến các công ty được mua thành những phần riêng rẽ độc lập
nhau nhằm để chúng hoạt động hoặc bán đi mà không bị ảnh hưởng lẫn
nhau. Do đó trong định giá, họ sẽ loại bỏ yếu tố “sức mạnh tổng hợp”./.
Document Outline
- Sáp nhập doanh nghiệp là gì? Làm rõ khái niệm và t
- 1. Làm rõ khái niệm sáp nhập doanh nghiệp?
- 2. Quy định của pháp luật Việt nam về mua bán, sáp
- 3. Thủ tục đăng ký thuế trường hợp sáp nhập doanh
- 4. Mua bán và Sáp nhập doanh nghiệp thực hiện thế
- 5. Cách phân biệt người mua chiến lược và người mu